Video
Công đức
Giới Thiệu Chung

Nguyễn Cảnh Hoan

Ngày đăng: 16/10/2019
Tóm tắt:

Nguyễn Cảnh Hoan

Nội dung:

Nguyễn Cảnh Hoan (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh bộ Thượng thư, hàm Thái phó về sau được tấn phong Quốc công.

Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung giết chết vua Lê Cung Hoàng và cướp ngôi lập ra vương triều Mạc. Cựu thần nhà Lê là An Thành hầu Nguyễn Kim không chịu thần phục nhà Mạc chạy lên Sầm Châu chiêu nạp hào kiệt và đưa Lê Duy Ninh lên ngôi vua, là Lê Trang Tông (1533-1548) mở đầu cho thời kì Trung Hưng nhà Lê.

Thời kì này vùng Thanh - Nghệ trộm cướp và giặc giã nổi lên như ong. Cha con Nguyễn Cảnh Hoan lập đồn trại, chiêu mộ quân sĩ và khởi binh tại thôn Chiêu Quả vùng núi Thanh Chương, tiễu trừ các đám sơn tặc, thu phục và tiêu diệt dần các thế lực đối địch.

Năm 1536, cha con ông mang quân sĩ đến Sầm Châu theo Lê Trang Tông và được trọng dụng. Nguyễn Cảnh Huy được phong làm Bình Dương Hầu, Cảnh Hoan tước Dương Đường Hầu dưới quyền điều khiển của Nguyễn Kim.

Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Trịnh Kiểm lên thay, Cảnh Hoan là tướng dưới quyền.

Tháng 12, năm 1547, Đại tướng nhà Mạc là Tây Quận công Nguyễn Kính đem quân đi đánh nhà Lê. Quân hai bên đánh nhau to ở Lôi Dương thuộc Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Đại tướng Nguyễn Kính thua trận đang đêm bèn rút khỏi quan ải, trên đường rút lui trúng phục binh của Cảnh Hoan, quân Mạc thua to. Trận này Cảnh Hoan được phong Đề đốc Tấn quận công.

Tháng 1 năm 1553, do có nhiều chiến tích trong các đợt chống quân Mạc, Nguyễn Cảnh Hoan được phong làm Thái Bảo. Trịnh Kiểm thấy ông là người mưu lược nên rất kính nể, coi như thần tử thân thuộc và gọi ông là Trịnh Mô, cho quyền thu thuế và trông coi hai huyện Nam Đường và Chân Phúc thuộc Nghệ An.

Năm 1555, Thọ quốc công và Vạn Đồn hầu nhà Mạc đem quân xâm lấn huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Trịnh Kiểm và quan quân nhà Lê ra nghênh chiến. Cảnh Hoan trận này bắt sống được tướng Mạc.

Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, các con là Tuấn Đức hầu Trịnh Cối và Phúc Lương hầu Trịnh Tùng tranh quyền. Phúc Lương hầu Trịnh Tùng cùng các tướng Tấn quận công Nguyễn Cảnh Hoan, Lai quận công Phan Công Tích, Nghĩa quận công Đặng Huấn, Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Vệ Dương hầu Trịnh Bách chạy vào Yên Trường.

Nhà Mạc nhân việc này kéo quân vào xâm lấn, các tướng nhà Lê đồn trú các nơi đều theo về Yên Trường để chống giữ. Trịnh Tùng được phong làm Trưởng quốc công tiết chế thủy bộ chư dinh. Anh Tông hội các tướng bàn việc mở chiến dịch lấy lại đất đai. Quân Lê theo ba hướng mà tiến.

Nguyễn Cảnh Hoan cùng các tướng An quận công Lại Thế Khanh, Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu đem quân từ An Định qua Vĩnh Phúc đánh lấy Tống Sơn. Tháng 12, quân Mạc rút về bắc.

Tháng 2 năm 1571, gia phong Trịnh Tùng làm Thái Úy Trưởng Quốc công, Cảnh Hoan được gia phong làm Thiếu phó ngồi hàng dưới.

Tháng 7 năm 1571, Khiêm vương Mạc Kính Điển và các tướng vào đánh cướp Nghệ An, dân phía Nam sông Lam phần lớn đều quy phục quân Mạc. Các tướng nhà Lê ở đây là Nguyễn Bá Quýnh cự không được đành bỏ chạy, Hoàng quận công bị quân Mạc bắt sống.

Tháng 9 năm 1571, Nguyễn Cảnh Hoan và Phan Công Tích đem quân vào cứu Nghệ An. Mạc Kính Điển và Nguyễn Quyện giao chiến với hai tướng, đại quân Mạc thế chừng ở lâu đánh không được phải rút về bắc.

Tháng 7 năm 1572, quân Mạc vào đánh cướp Nghệ An. Nguyễn Cảnh Hoan cùng 2 tướng An quận công Lại Thế Khanh, Lai quận công Phan Công Tích đem quân vào cứu, quân Mạc rút về.

Năm 1573, Lê Duy Đàm lên ngôi. Trịnh Tùng được phong làm Đô tướng, Thái úy Trưởng quốc công. Nguyễn Cảnh Hoan là chiến tướng xông pha nhiều năm, rất có tiếng tăm, có tài biện luận nên được phong sang ban văn làm Hiệp mưu công thần, đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Binh bộ thượng thư, Thái phó, kiêm Hành tướng sự.

Năm 1574, tướng Mạc là Nguyễn Quyện đem đại binh vào quấy phá Nghệ An. Tướng nhà Lê là Hoành quận công sợ hãi bỏ chạy, đến Bố Chính thuộc Quảng Bình bị Nguyễn Quyện bắt sống. Quân Lê phái Nguyễn Cảnh Hoan và Phan Công Tích vào cứu. Hai bên đánh nhau mấy tháng liền, Nguyễn Quyện rút quân về bắc.

Năm 1575, Thạch quận công Nguyễn Quyện nhà Mạc đem đại binh vào đánh cướp Hoan Châu. Cảnh Hoan cùng hai tướng là Thái phó An quận công Lại Thế Khanh, Lai quận công Phan Công Tích đem quân vào cứu, chia 3 nơi phòng ngự.

Nguyễn Cảnh Hoan cùng 30 chiến tướng dưới quyền lập doanh trại tại đạo Thanh Thủy, chiêu mộ binh sĩ, đắp lũy kéo dài từ vùng Hồ Nón, Nam Đàn cho tới Lựu Sơn, Đô Lương để chống đại quân Mạc.

Vì dụng binh sơ suất nên Phan Công Tích bị Nguyễn Quyện dùng kì binh bắt giết tại lèn Hai Vai, Yên Thành. Tiếp đó đại binh nhà Mạc chuyển quân lên vùng thượng lưu, xuôi theo sông Lam để đánh phá quân Lê. Cảnh Hoan và Nguyện Quyện đánh nhau chí tử tại vùng Thanh Chi, Võ Liệt, Phuống thuộc Thanh Chương bất phân thắng bại.

Lo ngại Lại Thế Khanh đem quân tiếp ứng, Nguyễn Quyện rút quân xuôi sông Lam ra biển, Cảnh Hoan biết được đặt phục binh tại Rú Nguộc giết chết Kỳ quận công nhà Mạc tại trận. Nguyễn Quyện cùng đại quân tháo chạy ra biển về Bắc. Quân Lê thắng to.

Năm 1576, nhà Mạc huy động các tướng giỏi và đại binh đánh Thanh - Nghệ. Khiêm Vương Kính Điển đánh vùng sông Chu huyện Thụy Nguyên, Mạc Ngọc Liễn đánh vùng sông Mã thuộc Yên Định, Nguyễn Quyện tiến theo đường biển đánh phá Nghệ An, trăm họ rúng động.

Trịnh Tùng cho người đưa chỉ vào triệu Cảnh Hoan về bàn bạc kế hoạch chống giữ. Thuộc tướng của Cảnh Hoan là Lâm quận công làm phản, đầu hàng Nguyễn Quyện và tiết lộ tin tức. Nguyễn Quyện đem quân trở ra Ngọc Sơn, Thanh Hóa đóng đồn từ Cầu Quán đến Mạo Lạp, lại cho quân mai phục hai bên đón đường.

Trên đường ra Yên Trường, Cảnh Hoan và quân túc vệ rơi vào mai phục của Nguyễn Quyện tại Bông Đồn, Độc Hiệu. Đánh nhau hơn một ngày, Cảnh Hoan đem quân theo ít, chống không được đại binh nhà Mạc nên yếu thế dần. Nguyễn Quyện thấy vậy bảo tướng sĩ rằng:

Trịnh Mô thua chạy, tướng lệnh vô phèng, ta nhất định bắt được y

Rồi đốc quân đuổi theo và bắt được Cảnh Hoan đem về Thăng Long.

Đại Việt Sử kí Toàn thư ghi rằng:Từ đấy, oai thanh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy, trở thành viên danh tướng của họ Mạc. Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang Đông đều cho là không bằng Nguyễn Quyện

Trịnh Tùng phái người ra bắc tìm cách đem vàng chuộc ông nhưng không được. Nhà Mạc biết Hoan là tướng giỏi bèn cho các đại thần, đặc biệt là Nguyễn Quyện tới tìm cách lôi kéo nhưng ông cự tuyệt.

Nguyễn Quyện đến gặp ông và nói rằng:

Ta nghe ở thôn quê có câu sấm truyền rằng: “Mô là cây của Mạc, nếu không được Mạc dùng, ắt hẳn sẽ thành tro dưới mồ thôi (Mô giả, Mộc mạc dã; bất bi Mạc dụng, tất thành hưu mô chi mộ)”. Ý giả sấm truyền cũng muốn nhắc nhở Tấn quận công đấy thôi, thế mà Tấn quận công lại một mực không tỉnh ngộ

Cảnh Hoan đáp rằng:

“Bình sinh khi qua chơi nhà ông, ta thấy thân sinh của ông bảo ông tuy thông minh nhưng lười học, nên mới đặt tên cho ông là Quyện, nhốt ông trong thư phòng, có câu răn rằng: “Quyện là người của sách, vì quay lưng lại sách, quả nhiên bị cái nhục cầm tù” (Quyện giả, quyển nhân giã; hữu vi ư quyển, quả thụ khuyên tù chí nhục)”. Sao ông không suy nghĩ về điều đó. Người đọc sách không thể làm trái với sách. Sách có nói: “Tôi ngay không thờ hai chúa” , ông sao làm trái lời đó?”

Nguyễn Quyện nói:

“Đại trượng phu không thờ hai vua, thế là trung. Quyện này nếu về với chủ cũ sẽ thất trung”.

Nguyễn Quyện nói xong phẩy áo mà đi. Sau cuộc viếng thăm này, biết không thể thu phục được Cảnh Hoan nên nhà Mạc đem ông giết đi. Là địch thủ nhiều năm trên chiến trường Hoan Châu, tiếc ông là người cương liệt trung nghĩa, Nguyễn Quyện đã cho người khâm liệm và xin chúa Mạc cho người đưa thi hài về Hoan Châu và có nói về ông rằng:

Trung nghĩa, cương liệt đời hiếm hoi, sau này ắt sẽ thành thần lớn

Trước khi chết (tháng 9 năm 1576) Nguyễn Cảnh Hoan viết hai bài thơ tuyệt mệnh rằng:

Nhân trung bẩm cương nghị

Thế thượng đốc trung trinh

Thiên địa quang chính khí

Nhật nguyệt chiếu lâm tình

Lăng lăng thanh bất hủ

Lẫm lẫm tử do sinh

Sát phạt chư ma quỷ

Tróc phược chúng tà tinh

Túng hữu chân tâm đảo

Lai lâm tự luật linh

và viết thêm:

Thế thụ thao kiềm

Đàn đăng tướng súy

Kiên trì kình tiết thanh

Lưu thử đan tâm tử

Thân thượng tri Lê Trịnh triều

Diện khẳng tâm trung nghĩa quỷ

Nhan Đường,Văn Tống liên tiền hiền

Liệt nhật thu sương thùy hậu thế

Sắc chỉ triều đình nhà Lê lập đền thờ chính của ông ở thôn Chân Ngọc, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương.

Năm 1602, đền thờ ông được xây dựng quy mô ở xã Tràng Sơn, Đô Lương, Nghệ An. Năm 1787 được trùng tu, Năm 1895 xây thêm trung điện và nhà bia. Định kì mười năm tổ chức lễ chay một lần, là lễ hội lớn của vùng Nghệ An. Năm 1991, đền thờ được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Vùng Nghệ An có nhiều đền thờ ông, ngoài nơi thờ tự chính ở Tràng Sơn còn có đền Phú Thọ ở xã Lưu Sơn huyện Đô Lương, đền Hữu ở xã Thanh Yên, phủ thờ ở xã Thanh Văn huyện Thanh Chương, đền thờ tại Hồ Nón, huyện Nam Đàn...

Phần mộ của ông hiện nay thuộc Rú Cấm xã Tràng Sơn huyện Đô Lương.

Trong thời kì đem quân vào ứng cứu Nghệ An, Cảnh Hoan và các tùy tướng đóng đại bản doanh, xây hào lũy khu vực Nam Đường, vỗ về dân chúng ở đây. Vùng Lưu Sơn, Đô Lương được ông hướng dẫn cho cách ép mía làm mật, dân cư ven sông Lam nghề nuôi tằm dệt vải, cho bắc nhiều cầu trên sông Đa Cương .

Bùi Huy Bích làm Hiệp trấn Nghệ An, khi đi qua vùng núi Hồ Cương, Nam Đàn thăm thành lũy cũ do Cảnh Hoan xây có đề thơ rằng:

Tấn quốc đương sơ phạt Quyện nhân

Thử gian thụ sách trú tam quân

Bách niên mã cứu câu thăng tại

Thiên điệp sơn thành thảo thạch xuân

Mạc phủ tích công thành lão tướng

Sa trường toàn nghĩa tác danh thần

Hất kim di chỉ Hồ Cương bạn

Tưởng tượng phong yên hộ chiến trần

Hiện nay tại thành phố Vinh, Nghệ An có một con đường mang tên ông.

Tổ tiên của Nguyễn Cảnh Hoan truyền đời có làm thuốc bắc, đến đời ông tuy là danh tướng xông pha trận mạc nhưng vẫn để tâm nghiên cứu về sách thuốc. Trước khi bị nhà Mạc giết hại tại Thăng Long, ông có nhờ người đem về truyền lại cho con cháu những ghi chép của bản thân về y thuật. Đến con trai ông là Nguyễn Cảnh Kiên tuy làm tướng nhưng vẫn chuyên tâm tiếp tục nghề thuốc của tổ tiên truyền lại, và trở thành môt thầy thuốc nổi tiếng Thăng Long lúc bấy giờ. Cảnh Kiên được phong làm Thái Y viện chưởng kiêm Tế Sinh đường.

Tại đền Khai Long tại xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An vốn được lập để thờ tự Nguyễn Cảnh Hoan và vị thần Khai Long sứ hiện còn lưu giữ nhiều sắc phong thần cho Nguyễn Cảnh Hoan.

Nội dung một số sắc phong như sau:

Sắc phong cho đền thờ Khai Long thờ thần Khai Long sứ và Nguyễn Cảnh Hoan vào năm Tự Đức thứ 31

Nguyên văn:

敕旨乂安省梁山縣純忠社依舊奉事俊邁剛忠端亮光懿兵部上書太傳晉府君謚謙謹中等神;嘏純禧妙感純正開隆使君。節經頒給敕封準其奉事。嗣德三十一年正值朕五旬大慶節經頒寶詔覃恩禮隆登怵準許依舊奉事用誌國慶而伸祀典。 欽哉

Phiên âm:

Sắc chỉ Nghệ An tỉnh Lương Sơn huyện Thuần Trung xã tòng tiền phụng sự Tuấn mại Cương trung Đoan lượng Quang ý Binh bộ thượng thư Thái Phó Tấn phủ quân thụy Khiêm Cẩn trung đẳng thần; Huyền hỗ Thuần hy Diệu cảm Thuần chính Khai Long sứ quân. Tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập nhất niên chính trị trẫm ngũ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, chuẩn hứa y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!

Dịch nghĩa:

Sắc chỉ cho xã Thuần Trung, huyện Lương Sơn, tỉnh Nghệ An từ trước đến nay thờ phụng vị trung đẳng thần Thái Phó Tấn phủ quân tên thụy là Khiêm Cẩn, quan thượng thư bộ Binh, vốn được ban mỹ tự là: Tuấn mại Cương trung Đoan lượng Quang ý và vị tôn thần Khai Long sứ quân. Đã được ban tặng sắc phong chuẩn cho thờ phụng. Năm Tự Đức thứ 31 gặp đúng đại lễ mừng thọ 50 của trẫm nên ra chiếu báu tỏ rõ ơn sâu, lễ long trọng nên tăng thêm cấp bậc, chuẩn cho thờ phụng như cũ để ghi nhớ ngày vui của nước mà kéo dài phép thờ tự. Kính thay!

Sắc phong năm thứ nhất niên hiệu Đồng Khánh:

Nguyên văn:

敕俊邁剛忠端亮光懿兵部上書太傳晉府君謚謙謹中等神玄嘏純禧妙感純正開隆使君之神向來護國庇民稔著靈應。節蒙頒給敕留祀.。肆今丕膺耿命緬念神庥可加贈翊保中興各等神仍準許乂安省梁山縣純忠社依舊奉事。神其相佑保我黎民。欽哉

Phiên âm:

Sắc Tuấn mại Cương trung Đoan lượng Quang ý Binh bộ thượng thư Thái Phó Tấn phủ quân thụy Khiêm Cẩn trung đẳng thần; Huyền hỗ Thuần hy Diệu cảm Thuần chính Khai Long sứ quân chi thần hướng lai hộ quốc tí dân nhẫm trước linh ứng. Tiết mông ban cấp tặng sắc lưu tự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng: Dực bảo Trung hưng các đẳng thần, nhưng chuẩn hứa Nghệ An tỉnh Lương Sơn huyện Thuần Trung xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Dịch nghĩa:

Sắc cho vị trung đẳng thần Thái Phó Tấn phủ quân tên thụy là Khiêm Cẩn, quan thượng thư bộ Binh, vốn được ban mỹ tự là: Tuấn mại Cương trung Đoan lượng Quang ý và vị tôn thần Khai Long sứ quân từ trước tới nay bảo vệ nước che chở dân linh ứng rõ rệt. Đã được ban tặng sắc phong để thờ. Nay trẫm kế thừa mệnh sáng, trông lại sự che chở của thần, đáng được tặng phong là: Các đẳng thần Dực bảo Trung hưng, vẫn chuẩn cho xã Thuần Trung huyện Lương Sơn tỉnh Nghệ An thờ phụng như cũ. Thần hãy giúp đỡ che chở cho dân ta. Kính thay

Sắc phong của vua Duy Tân: Nguyên văn:

敕旨乂安省梁山縣純忠社依舊奉事卓偉翼保中興開隆使君上等神卓偉翼保中興功神太傅晉郡公阮上等神。節經頒敕封準其奉事。維新元年晉光大禮經頒頒寶詔覃恩禮隆登秩榫依舊奉事用志國慶而申祀典。欽哉

Phiên âm: Sắc chỉ Nghệ An tỉnh Lương Sơn huyện Thuần Trung xã tòng tiền phụng sự Trác vĩ Dực bảo Trung hưng Khai Long sứ quân thượng đẳng thần; Trác vĩ Dực bảo Trung hưng Lê trung hưng công thần Thái Phó Tấn Quận công Nguyễn thượng đẳng thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Duy Tân nguyên niên tấn quang đại lễ, tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, chuẩn hứa y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai

Dịch nghĩa:

Sắc chỉ cho xã Thuần Trung huyện Lương Sơn tỉnh Nghệ An từ trước đến nay thờ phụng vị Thượng đẳng thần Khai Long sứ quân vốn được tặng mỹ tự là Trác vĩ Dực bảo Trung hưng; vị thượng đẳng thần công thần triều Lê trung hưng Thái Phó Tấn Quận công họ Nguyễn (vốn được tặng mỹ tự là) Dực bảo Trung hưng. Đã được ban tặng sắc phong chuẩn cho thờ phụng. Năm đầu niên hiệu Duy Tân cử hành đại lễ lên ngôi nên ra chiếu báu tỏ rõ ơn sâu, lễ long trọng nên tăng thêm cấp bậc, chuẩn cho thờ phụng như cũ để ghi nhớ ngày vui của nước mà kéo dài phép thờ tự. Kính thay!

Anh em và con cháu ông tiếp tục sự nghiêp trung hưng nhà Lê đều làm tướng, nhiều đời quý thịnh, 18 người được phong quận công, 72 người tước hầu có tiếng là Trung Cần Nhân Nghĩa như Thái bảo Tả Tư không Thư quận công Nguyễn Cảnh Kiên, Thiếu phó Đô Úy Tả Tư mã Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà, Tả đô đốc Phó tướng Liêu quận công Nguyễn Cảnh Quế, …

Năm 1787 đầu Lê Chiêu Thống, Nguyễn Cảnh Thước là cháu mấy đời, làm tướng trấn thủ vùng Kinh Bắc nổi tiếng hùng mạnh và mưu lược. Lúc Vũ Văn Nhậm dẫn quân Tây Sơn ra diệt Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống và Nguyễn Hữu Chỉnh thấy Thước là dòng dõi công thần muốn lấy làm chỗ dựa để khôi phục nhà Lê, vượt sông sang Kinh Bắc. Thước cáo ốm và ngầm thả thủ hạ cướp tư trang, tiền bạc và lột áo báo của xa giá, giấu thuyền bè không cho sang sông. Về sau Thước theo Tây Sơn nhưng không được tin dùng.

Thời hiện đại có: GS.TS. Nguyễn Cảnh Toàn, Thứ trưởng Bộ Lao động Nguyễn Song Tùng, nguyên bộ trưởng Bộ Thủy lợi Nguyễn Cảnh Dinh, Thiếu tướng Nguyễn Cảnh Hiền, doanh nhân Nguyễn Cảnh Bình. (https://vi.wikipedia.org)

Trích nguồn: Lịch sử họ Nguyễn Việt Nam - NXB Hồng Đức xuất bản 2018

Thư viện ảnh