Video
Công đức
Giới Thiệu Chung

CHƯƠNG VI HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ MẠC (1527- 1592)

Ngày đăng: 08/10/2021
Tóm tắt:

    LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM PHẦN IICHƯƠNG VI: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM  THỜI NHÀ MẠC (1527- 1592)

Nội dung:

6.1. Nhà Mạc (1527- 1592) (chữ Hán: 莫朝 - Mạc triều) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Mạc Thái Tổ lên ngôi tháng 6 năm 1527 sau khi giành được quyền lực từ tay vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp, bị quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592 – tổng cộng là gần 66 năm. Tuy nhiên, hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Cung, Mạc Kính KhoanMạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao Bằng. Thời kỳ 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam còn được gọi là thời kỳ Nam-Bắc triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào trên danh nghĩa nằm trong tay các vua Lê - được phục dựng trở lại từ năm 1533.

Sau khi nhà Mạc nắm quyền, đã có một số hoạt động chống đối như cầu viện nhà Minh hoặc nổi dậy nhưng đều không thành. Chỉ đến khi nhà Hậu Lê tái lập thì chiến tranh quy mô mới thực sự bắt đầu.

Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim không thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông. Tuy nhiên các nhà sử học nghi ngờ Duy Ninh không phải là con của vua Chiêu Tông vì tuổi của Duy Ninh và Lê Chiêu Tông chênh nhau quá ít 

Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc. Năm 1540, Mạc Thái Tông chết. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu nội là Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Năm sau, thượng hoàng Đăng Dung chết.

Năm 1543, quân nhà Lê về nước đánh chiếm Tây đô (Thanh Hoá). Hoạn quan nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng. Năm 1545, Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.

Ở phía tây bắc, vùng Hưng Hoá (Tuyên Quang), anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) là thủ lĩnh trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc. Nhà Mạc vài lần mang quân đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau lại phải đối phó với nhiều biến cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ sai người liên lạc theo về nhà Lê trung hưng.

Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh), cướp phá Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc khiến nhà Minh lo ngại. Đến năm 1551 Mạc Kính Điển dẹp được Phạm Tử Nghi. Tử Nghi bị chém, Chính Trung bỏ chạy và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết vì tay người Minh.

Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách, hai sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao cậy thế vua Mạc vây đánh. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê. Tuy nhiên sau vài năm, khi Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly chết, các con là Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận lại về theo nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng nhà Mạc.

Năm 1562, Mạc Tuyên tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.

Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam. Năm 1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.

Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh CốiTrịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Cối thua phải sang đầu hàng nhà Mạc. Tuy nhiên Trịnh Tùng là người thay thế xứng đáng của Trịnh Kiểm nên vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà Mạc.

Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co, khi thì Trịnh Kiểm và sau này là Trịnh Tùng dẫn quân ra đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long, khi thì Mạc Kính Điển cho quân tấn công Thanh Hóa - Nghệ An. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê vẫn không vào được Thăng Long. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê, Nguyễn Quyện bên Mạc.

Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín.

Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không chú trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển chết, việc trong ngoài đều trông chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng các tướng Nguyễn QuyệnMạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.

Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt, hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.

Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.

Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến đẫm máu tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân đội nhà Mạc chịu tổn thất cực kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.

Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, cho đến đầu thế kỷ 17 thì các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan là thân thuộc của nhà Mạc (thuộc chi Mạc Kính Điển). Tại các khu vực này chiến trận vẫn tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang.

Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Khi nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm, đến con Kính Khoan là Kính Vũ. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.

Những người họ Mạc bị đổi sang họ khác. Về sau, nhân khi chính sự Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Giang rối ren, năm 1739, hậu duệ của họ Mạc là Nguyễn CừNguyễn Tuyển lại nổi dậy khởi nghĩa chống Trịnh trong vài năm.

Thành nhà Mạc: Đây là các kiến trúc quân sự nhà Mạc.

  • Thành Nhà Mạc Lạng Sơn hiện nằm trong khu vực phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, dấu tích còn lại gồm 2 đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi. Hiện nay di tích thành Nhà Mạc ở Lạng Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ du khách du lịch tham quan.
  • Thành nhà Mạc nằm ở trung tâm thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Theo sử sách ghi lại thành được xây vào năm 1592 đời nhà Mạc, và được sửa chữa vào thời đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19). Thành được xây theo kiểu hình vuông, mỗi cạnh dài 275m, cao 3,5m và dày 0,8m; mỗi mặt thành có một cửa hình bán nguyệt với kiến trúc theo lối phòng thủ quân sự. Thành đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được tu bổ năm 2009- 2010. Năm 2010, việc tôn tạo hoàn thành đã gây ra nhiều phản ứng dữ dội từ dư luận khi các di tích bị làm biến dạng, mất đi vẻ cổ kính
  • Thành nhà Mạc ở tỉnh Cao Bằng là thành Nà Lự: khi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng (1594-1677), trong 83 năm, ba đời vua Mạc đóng đô ở Cao Bình đã cho tu sửa, xây thành cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng thủ, đề phòng triều đình vua Lê – chúa Trịnh lên thôn tính. Nhưng có khả năng thành này xây từ nhà Đường 618-802.
  • Ở xã Cao Xá, Lâm Thao, Phú Thọ nhân dân vẫn truyền tục câu nói: "Hăm mốt tháng chạp, gió đổ thành Mạc. Hăm hai tháng chạp, gió đổ thành Dung" để nói về thành Nhà Mạc xây dựng dở chừng thì bị mưa bão làm sụp đổ không thể xây dựng thành Thành được. Hiện nay, thường thường hàng năm vào những ngày "hăm mốt, hăm hai tháng chạp" ở Cao Xá vẫn thường có mưa bão. "Đầu Thành" là từ địa phương ở Cao Xá vẫn dùng để nói về địa điểm đoạn đầu thành Nhà Mạc xây ở thôn Dục Mỹ. Hiện nay các dấu tích của Thành Nhà Mạc ở Cao Xá hầu như không còn vì một thời kỳ nhân dân ở đây khai thác đất làm đường xá, xây dựng nhà ở. (http://vi.wikipedia.org/)

6.2. Nguyễn Kính (chữ Hán: 阮敬; ?-1572) là công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, người xã Dị Nậu, huyện Thạch ThấtHà NộiViệt Nam.

Nguyễn Kính sinh ra trong một gia đình làm nghề đốn củi ở xã Dị Nậu, nơi sử sách chép là Cổ Nậu Trang, dân gian quen gọi là Kẻ Núc. Thuở bé, Nguyễn Kính diện mạo khôi ngô, khỏe mạnh, ham học hỏi và nghịch ngợm. Sách Đại Việt thông sử của nhà Hậu Lê đối lập với nhà Mạc mô tả ông là người “tính hung hãn, vô lại”.

Thời Nguyễn Kính lớn lên, nhà Hậu Lê suy yếu trầm trọng do hai vua Uy Mục và Tương Dực. Vua Lê Tương Dực ăn chơi trụy lạc, dân gian bị bóc lột cùng khốn, đồng loạt nổi dậy làm phản, trong đó lớn nhất khởi nghĩa Trần Cảo.

Trong triều nảy sinh bè phái, đại thần Trịnh Duy Sản can ngăn vua Tương Dực bị đánh đòn nên sinh oán hận, giết chết vua Tương Dực, lập chắt của Thánh Tông là Y mới 11 tuổi lên ngôi, tức là Lê Chiêu Tông.

Quân khởi nghĩa Trần Cảo tiến đánh kinh thành Thăng Long. Cùng lúc đó Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành. Trịnh Duy Sản thấy kinh thành bị phá liền mang vua Lê Chiêu Tông bỏ chạy về Tây Đô (Thanh Hóa).

Nhân đấy Trần Cảo sang qua sông, vào chiếm cứ kinh thành. Lúc đó con nuôi Trịnh Duy Sản là Thiết Sơn bá Trần Chân thống suất các dũng sĩ cũ cùng con em trong nhà, binh tráng trong làng đóng ở chợ Hoàng Hoa, để mưu tính công việc đánh Trần Cảo. Nguyễn Kính bèn tụ tập con em đi theo Trần Chân, được Trần Chân tin dùng.

Ông cùng Trần Chân từ làng Dư Dụ huyện Thanh Đàm đem quân đón đánh tướng của Trần Cảo là Phan Ất từ làng Bảo Đà huyện Thanh Oai tiến đến. Quân hai bên kịch chiến ở xạ đôi (mô đất để tập bắn). Trần Chân bị thương, lại thấy rằng toán quân của mình chơ vơ khó có thể đánh lâu được, bèn nhân đêm rút quân đến chợ Hoàng Hoa.

Trịnh Duy SảnNguyễn Hoằng DụTrịnh Tuy và các quan cựu thần phân binh ra vây Đông Kinh. Trần Cao phải bỏ kinh thành chạy lên đất Lạng Nguyên. Vua Chiêu Tông trở lại kinh thành.

Sau đó Trịnh Duy Sản đi đánh Cảo bị tử trận ở Chí Linh. Cảo lại mang quân về định đánh kinh thành. Nguyễn Kính theo Trần Chân phá được Cảo ở Gia Lâm. Cảo thua chạy rút qua sông Cầu, truyền ngôi cho con là Cung và bỏ đi làm sư mất tích.

Trần Cảo tạm bị dẹp yên nhưng các đại thần nhà Lê lại quay sang đánh nhau. Nguyễn Hoằng Dụ cất quân đánh Trịnh Tuy. Tuy bèn bỏ chạy. Trần Chân về phe với Trịnh Tuy, cất quân đánh Hoằng Dụ. Nguyễn Kính theo giúp, theo mật lệnh của Trần Chân cùng con em các quân doanh ở Sơn Tây đánh Hoằng Dụ. Dụ không chống nổi, chạy vào Thanh Hoá.

Trần Chân đã đuổi được Nguyễn Hoằng Dụ, cầm quân bảo vệ kinh sư, một mình cầm quyền bính trong tay. Mạc Đăng Dung muốn kết thân, liền hỏi lấy con gái Trần Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh.

Ngày 11 tháng 7 năm 1518, Chiêu Tông tin lời gièm pha muốn giết Trần Chân, bèn cho triệu Trần Chân vào trong cung cấm. Trần Chân cùng các thủ hạ Trần Trí, Nguyễn Nga, Nguyễn Bá Đại, Lê Nguyên Khâm... 6 người đi vào. Chiêu Tông hạ lệnh đóng các cửa thành rồi sai lực sĩ bắt, Trần Chân chạy đến trên thành, người giữ cửa bắt được đem chém chết.

Nguyễn Kính cùng các thủ hạ của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân bị hãm trong thành, bèn đánh ba hồi chiêng, đem quân vào cửa Đại Hưng. Thấy các cửa thành đã đóng, Nguyễn Kính cùng các tướng bèn tiến thẳng vào ty Địch vạn vệ Cẩm y. Người giữ cửa ngăn lại không cho vào. Vua Chiêu Tông đem quân đi tuần trong thành, bêu đầu Trần Chân cho xem. Nguyễn Kính biết Trần Chân đã bị giết, mà mình thì cô thế, bèn tạm rút lui ra ngoài. Ông tập hợp đông đủ các thủ hạ của Trần Chân để đánh báo thù.

Ngày 14 tháng 7, Nguyễn Kính cùng Nguyễn Áng, Nguyễn Hiêu, Cao Xuân Thì (có sách chép là Nguyễn Chi, Mã Cử) cùng họp với nhau ở chùa Yên Lãng , đem quân đánh vào sát kinh thành. Vua Chiêu Tông đang đêm phải chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.

Trịnh Tuy đóng quân ở Sơn Nam có hơn 1 vạn người, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan rã. Quân Sơn Tây của Nguyễn Kính thả sức cướp phá, kinh thành sạch không. Chiêu Tông cho gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi.

Chiêu Tông bèn triệu thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính. Ông đòi vua Chiêu Tông phải giết Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính là những người gièm pha Trần Chân. Chiêu Tông nghe kế của Đàm Cử, bèn giết 3 người. Nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút.

Tháng 9 năm 1518, Trịnh Tuy và văn thần Nguyễn Sư mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc tên là Bảng làm vua, đổi niên hiệu là Đại Đức, rồi lại phế Bảng và lập em Bảng là Lê Do, đổi niên hiệu là Thiên Hiến, làm hành diện ở xã Do Nha, huyện Từ Liêm. Tuy sai người dụ Nguyễn Kính. Nguyễn Kính thấy Tuy là người cùng phe với Trịnh Duy Sản và Trần Chân trước đây nên đồng lòng đi theo.

Chiêu Tông sai người đi mời Nguyễn Hoằng Dụ lần nữa và sai Mạc Đăng Dung cùng đi đánh Nguyễn Kính. Hoằng Dụ được tin, bèn đem quân Thanh Hoá ra cứu. Nguyễn Kính đánh cho Hoằng Dụ thua to, quân chết rất nhiều. Hoằng Dụ chạy xuống thuyền, tự liệu không đánh được Nguyễn Kính, liền bãi binh bỏ chạy về Thanh Hóa rồi chết, chỉ để một mình Mạc Đăng Dung ở lại cầm cự.

Tháng 1 năm 1519, Chiêu Tông sai các tướng đánh phá, Trịnh Tuy thua trận, cùng Lê Do rút về vùng Yên Lãng, Yên Lạc. Chiêu Tông lại sai tướng đến đánh, bọn Tuy đang đêm kinh sợ trốn chạy.

Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thuỷ bộ phá Lê Do ở Từ Liêm rồi bắt được Do ở Ninh Sơn, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hoá. Nguyễn Kính cùng Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng triều đình.

Ngày 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông không muốn bị Đăng Dung khống chế, bèn chạy ra Sơn Tây gọi quân Cần vương. Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc mang quân đuổi theo, tới huyện Thạch Thất thì đuổi kịp. Chiêu Tông đem quân huyện Thạch Thất chống lại, bắt được Duy Nhạc.

Đăng Dung bèn lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê Cung Hoàng, lấy niên hiệu là Thống Nguyên. Từ bấy giờ trong nước có 2 vua là Chiêu Tông và Cung Hoàng, sử gọi là Quang Thiệu Đế (Chiêu Tông) và Thống Nguyên Đế.

Vua Chiêu Tông được các tướng Hà Phi Chuẩn, Đàm Thận Huy, Lê Đình Tú về cứu. Nguyễn Kính cùng Nguyễn Áng cũng theo giúp Chiêu Tông chống Đăng Dung. Thanh thế Chiêu Tông rất lớn, làm chủ các xứ phía Tây, Nam, Bắc. Mạc Đăng Dung và vua Cung Hoàng chỉ còn phía đông. Nhưng sau đó Trịnh Tuy ở Thanh Hóa ra cần vương, các tướng bất hoà. Trịnh Tuy trở thành lực lượng cần vương mạnh nhất, tranh công mang Chiêu Tông vào Thanh Hoá, ra lệnh các đạo bãi binh, từ đó các tướng không theo Chiêu Tông nữa.

Nguyễn Kính và Nguyễn Áng thấy vậy bèn đi theo Mạc Đăng Dung. Từ đó ông trở thành trợ thủ đắc lực của họ Mạc. Ông theo Mạc Đăng Dung đi đánh dẹp các lực lượng đối lập, tới năm 1525 bắt được vua Chiêu Tông, dẹp các lực lượng trung thành với nhà Lê.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc, Nguyễn Kính được phong tước Tây Thanh hầu rồi Tây quận công trấn giữ vùng Sơn Tây.

Đầu năm 1531, Nguyễn Kim khởi binh chống nhà Mạc ở Ai Lao, mang quan về đánh Thanh HoáMạc Thái Tông sai Tây quận công Nguyễn Kính vào đánh. Nguyễn Kính bị thua hai trận. Nhưng tới tháng 9, trời đổ mưa nhiều, ông thừa cơ dùng thuỷ quân tiến đánh, quân Nguyễn Kim rối loạn phải rút về Ai Lao.

Năm 1546Mạc Hiến Tông mất, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ 2 của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Nguyễn Kính đứng về phía Mạc Kính Điển, dốc sức phò tá vua nhỏ Tuyên Tông.

Ban đầu Phạm Tử Nghi thắng thế, Nguyễn Kính theo Mạc Kính Điển cùng đi đánh Tử Nghi bị bại trận. Tuy nhiên sau đó Tử Nghi nhiều lần tiến đánh Đông Kinh nhưng đều bị Kính Điển, Nguyễn Kính và con ông là Hữu Mệnh kiên cường chống trả nên Tử Nghi không thể chiếm được thành, hao binh tổn tướng, phải đem Mạc Chính Trung chạy ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh) và thường kéo về cướp phá Hải Dương. Sau Tử Nghi quay sang đánh phá sang Quảng ĐôngQuảng Tây, nhà Minh không kiềm chế nổi.

Sau Tử Nghi lại đem Chính Trung quay về Yên Quảng định đánh Đông Kinh. Năm 1551, Mạc Kính Điển mang quân đi dẹp Phạm Tử Nghi, sai kẻ dưới quyền lừa bắt được Tử Nghi đem chém. Mạc Chính Trung bỏ chạy sang Trung Quốc và bị giết.

Do có công lao với nhà Mạc trong trận này, ông được phong làm thái uý, Tây quốc công, được mở phủ riêng ở Cần Kiệm (Thạch Thất).

Năm 1572 thời Mạc Mậu Hợp, Nguyễn Kính mất. Ông được chôn cất tại Cần Kiệm (Thạch Thất). Nhà Mạc tuy tặng ông là Tây Kỳ vương. Ông là công thần khai quốc duy nhất của nhà Mạc sống cả 5 đời vua Mạc.

Các con ông có 3 người đều làm đại thần nhà Mạc và được ban họ vua: Mạc Nguyên làm đến thái bảo, tước Phú quốc công; Mạc Hữu Mệnh làm võ tướng, Mạc Ngọc Liễn là phò mã nhà Mạc, làm đến chức thái bảo Đà quốc công chưởng phủ sự.

Nhận định về hành động báo thù cho Trần Chân của Nguyễn Kính, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư viết:

Hợp cả Nguyễn Kính, Nguyễn Áng mà bàn, thì hai người này là tướng dưới trướng của [Trần] Chân, mài chí phục thù, dốc lòng trừ gian, liều mình cứu mạng cho chủ, trên là để báo lại ơn đức xưa nay, dưới là giải được mối oan khiên uất ức, phù trì chính khí cho ức vạn năm, diệt bọn gian hùng cho ngay lúc ấy, đạo thờ thầy đã sáng rõ lắm rồi.

Nhà Hậu Lê đổ nát, lại càng suy yếu vì loạn lạc giặc giã, quyền thần. Nhiều người nuôi chí làm bá vương trong bối cảnh đó.

Nguyễn Kính dốc lòng theo Trần Chân đánh giặc phò trợ nhà Lê, sau đó vì chủ tướng bị giết oan, bất chấp lệnh triều đình mà cất quân báo thù cho chủ. Khi đó Nguyễn Kính không nắm được Chiêu Tông như Đăng Dung nắm Cung Hoàng sau này, trường hợp ông gây sức ép yêu sách Chiêu Tông giết 3 người gièm pha Trần Chân cũng là duy nhất trong lịch sử Việt Nam, vua phải làm theo ý bầy tôi bên ngoài mà dằn lòng giết cận thần của mình.

Sau khi thù thầy rửa được rồi, đạo quân của Nguyễn Kính có dáng dấp một đạo quân phiến loạn vô chính phủ, loay hoay không biết đâu là chỗ sáng, hết phá phách càn rỡ, rồi theo Trịnh Tuy, lại theo Chiêu Tông.

Có ý kiến cho rằng Nguyễn Kính là người phản phúc, nhưng xét kỹ thì không phải như vậy. Nguyễn Kính chỉ mang cái dạ bộc trực mong báo thù, “hung hãn”, giống như hình ảnh cơn giận của một Trương Phi trong Tam Quốc diễn nghĩaLý Quỳ trong Thuỷ Hử, chỉ biết tới chủ mà không cần biết tới vua. Ông không có toan tính, chí làm bá vương như Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Mạc Đăng Dung mà chỉ mong tìm chỗ theo như trước đây từng theo Trần Chân. Sau cùng, khi cả Trịnh Tuy lẫn Chiêu Tông đều khiến ông thất vọng, ông đã nhận ra Mạc Đăng Dung là minh chủ có thể theo giúp.

“Chim khôn chọn cành mà đậu, bầy tôi chọn chủ mà thờ”. Nếu Nguyễn Kính là người chỉ biết hùa theo phe mạnh, ông đã theo Chiêu Tông đang thắng thế trước Mạc Đăng Dung (chỉ còn Hải Dương) khi Chiêu Tông theo Trịnh Tuy vào Thanh Hoá (1522). Nhưng lúc đó ông đã nhận ra sự thiếu sáng suốt của Chiêu Tông (trước giết oan Trần Chân, sau bỏ rơi các tướng Bắc bộ); còn với Trịnh Tuy - người quen cũ của ông – ông nhận ra Tuy không phải là đối thủ của Đăng Dung nên ông dứt khoát đi theo Đăng Dung. Sau nữa, lúc nhà Mạc chao đảo vì loạn Phạm Tử Nghi và sự ly khai về với nhà Lê của một loạt đại thần chủ chốt trong nhà Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến, nếu Nguyễn Kính xu thời, ông cũng sẽ theo về nhà Lê trung hưng. Nhưng ngược lại, ông vẫn tận trung với ấu chúa nhà Mạc, là số ít các tướng tận tuỵ ở lại cùng hoàng thân Mạc Kính Điển chống giữ bảo vệ cơ nghiệp nhà Mạc. Không phải ngẫu nhiên ông trở thành người duy nhất ngoài gia tộc vua Mạc được truy tặng tước vương. ( http://vi.wikipedia.org/)

6.3. Nguyễn Kim (chữ Hán: 阮淦; 1468-1545) ở Thanh Hóa là một danh tướng Việt Nam thời nhà Lê sơ và là người đặt nền móng cho sự thành lập nhà Lê trung hưng

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư quyển XV ghi: ông là con An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ (có sử chép là Nguyễn Lựu), cháu nội Nghĩa Huân Vương Nguyễn Văn Lang thời vua Lê Chiêu Tông. Tuy nhiên gần đây, các nhà nghiên cứu tham khảo phả hệ họ Nguyễn Gia Miêu cho rằng Nguyễn Kim và Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là anh em họ. Người sinh ra Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, anh Nguyễn Văn Lang và bác Nguyễn Hoằng Dụ

Cuối đời nhà Lê sơ, Nguyễn Kim được phong tước An Thành Hầu. Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc tiếm ngôi, năm 1527, con cháu nhà Lê chạy trốn. Lúc bấy giờ, hầu hết các cựu thần nhà Lê ngả về họ Mạc hoặc bỏ đi nơi khác, chỉ có Nguyễn Kim là lo chiêu tập hào kiệt bốn phương lánh lên vùng đất Thanh Hoá giáp Lào, được vua Lào là Sạ Đẩu thỏa thuận cho mượn đất Sầm Châu lập bản doanh phò Lê diệt Mạc. Sau đó ông đã tìm được con vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh ở Thanh Hóa và đưa sang Sầm Châu tôn lên ngôi vua là Lê Trang Tông (1533-1548).

Ông giúp vua Lê tiến binh về nước, từng bước đánh chiếm các huyện ở Thanh Hóa và sau đó xây dựng hành điện ở xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Nguyễn Kim được vua Lê phong làm Thái sư, Hưng Quốc công, nắm giữ tất cả binh quyền.

Năm 1545, Nguyễn Kim bị một hàng tướng họ Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Dương Chấp Nhất mời ông ăn dưa có độc rồi bỏ trốn. Khi đó ông 77 tuổi. Vua Lê Trang Tông truy tặng cho ông tước Chiêu Huân Tĩnh Vương.

Ông có hai con trai đều là tướng giỏi được phong chức Quận công: Nguyễn Uông (bị Trịnh Kiểm giết) và Nguyễn Hoàng. Sau Nguyễn Hoàng trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn ở miền nam Việt Nam.

Người con gái lớn nhất của ông là Nguyễn Thị Ngọc Bảo lấy chúa Trịnh Kiểm.

Nguyễn Kim được các vua nhà Nguyễn sau này truy tôn miếu hiệu là Triệu Tổ, thụy hiệu là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế. (https://vi.wikipedia.org)

6.4. Hoàng giáp Nguyễn Như Uyên

 Theo https://nongnghiep.vn, ngày 1/12/2014, Sử sách ghi danh Hoàng giáp Nguyễn Như Uyên vừa là bậc trụ cột triều đình vừa khai khoa cho dòng họ đời nối đời khoa bảng. 

Đó chính là tài sản tinh thần rất quý báu của một dòng họ danh gia vọng tộc trong lịch sử nước ta.

Dòng họ 5 vị đỗ đại khoa

Hà Nội xưa có câu “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương”, chỉ truyền thống hiếu học của 4 làng khoa bảng thời phong kiến, nơi phát tích của nhiều bậc đại khoa (Tiến sỹ Hán học). Mỗ là Tây Mỗ và Đại Mỗ (Nam Từ Liêm), La là La Khê và La Cả (Hà Đông), Canh là Vân Canh (Hoài Đức) và Xuân Phương (Nam Từ Liêm). Còn Cót là tên nôm của làng Hạ Yên Quyết (nay thuộc phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

Với hơn 800 năm lịch sử khoa bảng phong kiến Việt Nam (1075-1919), dòng họ Nguyễn làng Hạ Yên Quyết có 5 tiến sỹ được khắc tên trong bảng vàng, bia đá Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Người khai khoa cho truyền thống khoa bảng là Nguyễn Như Uyên, đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ (Hoàng giáp) khoa thi Kỷ Sửu, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông. Khoa thi này không có hàng Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Đỗ đầu là Phạm Bá (người thôn Phác Xuyên, xã Bạch Đằng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng). Thứ hai là Nguyễn Như Uyên. Từ đây, hậu duệ Nguyễn Như Uyên đời nối đời tiếp dòng khoa bảng, đầy nhà một sân quế hòe, vinh danh gia tộc.

Các đời sau, có Nguyễn Xuân Nham đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân (năm 1499), làm quan tới chức Hình Bộ cấp sự trung, Thừa Chánh sứ ty.

Nguyễn Khiêm Quang đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân (năm 1523), làm quan tới chức Mậu Lâm Lang phụng trí đại phu, Lạng Sơn sứ tán trị, Thừa Chánh sứ ty, Tham chính.

Nguyễn Nhật Tráng đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ (năm 1589), tức Hoàng giáp, làm quan tới chức Đô cấp sự trung, Tá lý công thần. Khi mất được vua phong là Bỉnh Trung Đại vương.

Ngoài ra, dòng họ Nguyễn Như Uyên còn có 18 người đỗ trung khoa (cử nhân, tú tài Hán học). TS Nguyễn Hữu Mùi, Phó Viện trưởng Viện Hán Nôm, đánh giá: “Một dòng họ với 23 người đỗ khoa trường ở mức đại khoa và trung khoa là thành tựu rất đáng ghi nhận.Nguyễn Vinh Thịnh đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân (năm 1659) làm quan tới chức Thẩm hình viện, Giám sát ngự sử.

Đây là niềm tự hào không phải dòng họ nào ở nước ta cũng đạt được. Đó chính là tài sản tinh thần rất quý báu của một dòng họ danh gia vọng tộc - một dòng họ khoa bảng nổi tiếng ở nước ta trong lịch sử”.

Đại thần trụ cột triều đình

Không chỉ là người khai khoa một dòng họ tiến sỹ, với tài kinh bang tế thế, Nguyễn Như Uyên còn là đại thần trụ cột triều đình, có nhiều công lao giúp vua trị nước. Lê Thánh Tông nổi danh sử sách là đấng minh quân, với 38 năm trị quốc, xung quanh nhà vua nhiều bề tôi giỏi, hàng nguyên lão đại thần có Nguyễn Xí, những trí thức trẻ có Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh,... Nguyễn Như Uyên là một trong số đó.

Trong những thành tựu vẻ vang mà vua Lê Thánh Tông xây dựng như giữ yên biên thùy, mở mang bờ cõi, xây dựng luật Hồng Đức, vẽ bản đồ Hồng Đức, đào tạo các bậc hiền tài - “nguyên khí quốc gia”... Nguyễn Như Uyên đều có công lao.

Với kiến thức uyên thâm của mình, Nguyễn Như Uyên được vua phong làm Tế tửu Quốc Tử Giám (Hiệu trưởng); Nhập thị Kinh Diên (được vào cung giảng sách cho vua).Mười năm sau khi thi đỗ, năm 1479, tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xui người Lão Qua sang đánh nước ta. Vua Lê Thánh Tông điều động quân sĩ chinh phạt... Nguyễn Như Uyên được vua phong chức Ký lục có nhiệm vụ theo dõi ghi chép: “Trên từ tướng soái, dưới xuống quân lính, người nào chăm chỉ được việc hay lười biếng... Kẻ nào nhút nhát, hết thảy phải ghi cho rõ để tâu lên”. 5 đạo quân ra trận đã toàn thắng trở về.

Hiện chưa rõ Nguyễn Như Uyên mất năm nào, chỉ biết cuối đời ông làm quan tới chức Thượng thư Bộ Lại, Chưởng lục Bộ sự (đứng đầu 6 Bộ). Khi về trí sĩ (nghỉ hưu), ông được phong tước Thái Bảo, Liêm Quận Công.

Đến nay hậu duệ của Nguyễn Như Uyên đã phát triển đến đời thứ 22 ở địa bàn 3 phường: Yên Hoà, Nghĩa Đô, Quan Hoa (quận Cầu Giấy) gồm 17 chi họ với hơn 1.000 suất đinh. Đó là chưa kể một số nhánh ly hương lên lập nghiệp ở Sơn Tây (Hà Nội), Lâm Thao (Phú Thọ)… Năm 2012, nhà thờ họ Nguyễn Như Uyên ở làng Cót đã được công nhận Di tích lịch sử - văn hóa

Ngày 27/11, Trung tâm Hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã tổ chức Hội thảo khoa học “Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Như Uyên và truyền thống khoa bảng họ Nguyễn làng Hạ Yên Quyết, Hà Nội”. 16 bản tham luận của nhiều nhà khoa học đã nêu bật cuộc đời, sự nghiệp, công lao và đóng góp của danh nhân Nguyễn Như Uyên cùng truyền thống khoa bảng của dòng họ. Trung tâm Hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã đề nghị xem xét việc đặt tên đường phố Nguyễn Như Uyên tại quê nhà để vinh danh truyền thống khoa bảng của dòng họ, làm gương cho đời sau tiếp nối…

6.5. Nguyễn Thời Trung – Ông Tổ ngành da dày Việt Nam

Nguyễn Thời Trung người làng Phong Lâm (còn gọi là làng Trắm), tổng Phạm Xá, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng thời Lê, nay thuộc xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc.

Năm 45 tuổi ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ, khoa Ất Sửu niên hiệu Thuần Phúc năm thứ tư (1565), triều nhà Mạc, làm quan đến chức Thừa chính sứ (theo "Tiến sĩ nho họ Hải Dương" xuất bản bản năm 1999). Thời phong kiến nhà Mạc bị coi là ngụy triều nên tên tuổi ông không được khắc ghi trên bia Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.

Theo sắc phong và văn tế còn lưu giữ tại địa phương: đầu thời Mạc, tiến sĩ Nguyễn Thời Trung phụng mệnh triều đình đi sứ nhà Minh dâng lễ cống. Khi đi ông xin mang theo ba người cùng quê là Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính và Nguyễn Sỹ Bân, người làng Phong Lâm, Trúc Lâm, Văn Lâm với ước vọng tìm nghề mới mang về truyền dạy cho dân làng.

Trong thời gian lưu lại ở kinh đô Trung Quốc, các ông vẫn ngày ngày làm việc trong sứ quán, tối tối lại dạo khắp kinh thành thăm dò quan sát xem xét nên học nghề gì? Thấy một tiệm chuyên đóng giầy dép cho vua quan, các ông bàn bạc quyết tâm học bằng được nghề này. Nhờ lân la tìm hiểu quan sát, khéo léo ngoại giao, các ông được chủ tiệm giầy quý mến tiếp đón ân cần. Nhờ đó, các ông đã thu lượm được kiến thức về thuộc da và đóng giầy của người Trung Quốc.

Trong thực tế những vị này có thể là đã cải tiến kiến thức về thuộc da và sáng chế những mẫu giầy dép mới. Chứ thực ra nghề da ở nước ta đã có từ lâu đời Trong các ngôi mộ cổ cách nay một, hai nghìn năm đã có những đồ tuỳ táng làm bằng da thuộc. Thời bấy giờ, nhu cầu về da giầy chủ yếu ở chốn thị thành vào dịp hội hè đầu xuân, hầu hết các thợ giầy Tam Lâm phải ra các nơi thị thành hành nghề. Họ tạm biệt quê hương vào cuối thu mang theo đồ nghề ra phố phường - Kẻ Chợ. Ở đây họ mở hiệu, hoạt động sôi nổi suốt mùa đông cho đến giữa mùa xuân khi nhu cầu về giầy dép giảm thì lại trở về quê hương làm ruộng. "Nông vi bản" là thế!Hết thời gian đi sứ, các ông về nước mang theo những bí quyết về nghề da giầy. Các ông cũng tự đóng được một số mẫu giầy đem dâng vua và tâu lên vua ý định truyền bá nghề này cho dân làng. Vua thấy giầy đóng rất đẹp, ngợi khen và chấp nhận lời thỉnh cầu của các ông, sắc phong cho bốn ông là: "Dực bảo trung hưng tôn thần". Sau này triều đình lại sắc phong cho Nguyễn Thời Trung làm Thành hoàng làng kiêm tổ nghề da giầy. Ba ông còn lại, mỗi ông làm Tổ nghề của một trong ba làng Phong Lâm, Trúc Lâm, Văn Lâm.

Trong phong trào chung đó, một số người có đầu óc kinh doanh, giàu lên, mở cửa hiệu và xưởng đóng giầy, ở lại chốn đô thành. Họ quây quần thành một phường gọi là phường Hài Tượng (Hà Nội) (hài là giầy dép, tượng là người thợ, phường Hài Tượng là phố phường của những người làm giầy dép). Năm tháng qua đi họ phát triển sang cả ngõ Hàng Hành lập ra một phố mới gọi là phố Hàng Da tồn tại đến ngày nay. Từ một làng nghề truyền thống ở xứ Đông họ đã góp phần tạo nên một trong ba mươi sáu phố phường Hà Nội.

Năm 1804, Thành Đông được khởi lập, tạo tiền đề cho TP Hải Dương phát triển. Những người thợ giầy Tam Lâm cũng lên Hải Dương sinh sống, lập nên một phố Hàng Giầy sầm uất đông vui. Phố Hàng Giầy trước đây san sát cửa hiệu giầy, là một phố cổ của Hải Dương xưa. Thợ đóng giầy Hải Dương khéo tay. Các cửa hàng giầy lớn của Hà Nội, Hải Phòng vẫn về đây cất hàng. Người cầu kỳ còn về đây đo chân đóng giầy.

Công sứ Groleau trong báo cáo viết tay về "Tình hình Hải Dương năm 1899" gửi lên Thống sứ Bắc Kỳ hiện còn lưu giữ được, có nhận xét tinh tế như sau: "Họ (Thợ giầy Tam Lâm) đi kinh doanh khắp nơi song không hề cắt đứt liên hệ với làng xóm quê hương. Hằng năm họ trở về làng ăn giỗ tổ hay dự đình đám (23 tháng 2 và 16 nháng 8 âm lịch).( http://baohaiduong.vn/, ngày 24/6/2012).

Theo http://www.donghungfootwear.com/, ngày 12/5/2014, Ngày 15/3/2014 (tức ngày 15/2/2014 Âm lịch), tại Đình thờ tổ Tam Lâm Linh Từ (Số 69/240 Tô Hiệu – Lê Chân – Hải Phòng), Ban tổ chức lễ hội đình thờ tổ Tam Lâm Linh Từ đã tổ chức long trọng buổi Lễ Dâng Hương Giỗ Tổ Ngành Da Giày tại Hải Phòng.

Tam Lâm Linh Từ là nơi thờ tự bốn vị sư tổ ngành giày Việt Nam, được những người thợ giày ba làng sinh sống tại Hải Phòng xây dựng cách đây hơn 100 năm. Vào ngày 15/2 âm lịch hằng năm, những người làm giày từ khắp mọi miền Tổ Quốc về dự lễ Dâng Hương để tưởng nhớ 4 vị sư tổ đó là: Cụ Tiến sĩ Nguyễn Thời Trung, Cụ Phạm Đức Chính, Cụ Nguyễn Sĩ Bân, Cụ Phạm Thuần Chính.

 Mùa hạ năm Đinh Mùi (năm 1487) tiễn sĩ Nguyễn Thời Trung được vua Lê Thánh Tôn cử đi sứ hòa đàm với nhà Minh, 3 cụ Phạm Đức Chính, Nguyễn Sĩ Bân, Phạm Thuần Chính là ba người làng Phong Lâm, Trúc Lâm, Văn Lâm thuộc tổng Phan Xá, Phủ Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương  cũng được cử đi tòng xứ với mục đính tìm hiểu, học hỏi, về ngành sản xuất giày của Trung Quốc mà trong nước còn nhiều hạn chế và yếu kém.

Để tôn vinh công lao của các cụ, vua Lê Thánh Tôn đã ban chức Thượng Y cho cả 4 người , và đế đời vua Khải Định, nhà vua đã gia phong cho các cụ sắc phong “ Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần”.

 Để tưởng nhớ đến công lao của các cụ, tất cả những người thợ giày trong cả nước đã suy tôn các cụ là những ông Tổ của ngành sản xuất giày dép Việt Nam và lập đền thờ ở khắp mọi miền đất nước.

 Tam Lâm Linh Từ tại Hải Phòng vinh dự là 1 trong 4 địa phương trong cả nước được xây dựng đã lâu năm và là nơi suy tôn, tưởng nhớ, hội họp, giao lưu của những người thợ giày luôn nhớ về cội nguồn và tri ân đối với những người đã có công lao to lớn trong việc khai thông, xây dựng và phát triển ngành giày ngày nay.

 6.6. Nguyễn Thiến (chữ Hán: 阮蒨; ?-1557) là Thư Quận công, Thượng thư, Trạng nguyên của nhà Mạc và đồng thời là quan nhà Lê trung hưng

Ông có quê nội là người làng Tảo Dương, quê ngoại làng Canh Hoạch phủ Thanh Oai nay thuộc thành phố Hà Nội, đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn năm Đại Chính thứ ba (1532) triều vua Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), trước giữ chức Thượng thư bộ Lễ, sau giữ chức Thượng thư bộ Lại, tước Thư quốc công. Ông mất ở Thanh Hoá tháng 8 âm lịch năm 1557.

Nguyễn Thiến là bạn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cha của Nguyễn Quyện là danh tướng trụ cột của nhà Mạc và tướng Nguyễn Miễn. Ông rất quý trọng, tin phục và giao du thân tình với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được Trạng Trình đánh giá là người "thành tín, chính trực, hiểu biết nhiều". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng ở nhờ nhà Nguyễn Thiến và làm thầy dạy cho Nguyễn Quyện trước khi đỗ Trạng nguyên năm Ất Hợi (1535).

Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly về theo nhà Lê vẫn được giữ nguyên tước hiệu cũ và đã làm tổn thất đặc biệt nghiêm trọng nguyên khí của nhà Mạc trong sự kiện này. Tháng 3 năm 1551, Trịnh Kiểm đem một vạn quân, cử Lê Ba Ly, Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận làm tiên phong, phối hợp chặt chẽ với Vũ Văn Mật tiến đánh Tuyên Quang, sau đó thọc về đánh chiếm kinh thành Thăng Long. Quân Mạc thua chạy. Trịnh Kiểm chiếm được kinh thành nhưng ông lường được binh lực nhà Mạc còn rất mạnh trong khi vùng đất căn bản của Nam triều đang để ngỏ nên đã kéo quân vào lại Thanh Hoá.Nguyễn Thiến được nhà Mạc trọng dụng. Ông cùng Thái tể Lê Bá Ly là thông gia. Sau khi vua Mạc Đăng Doanh mất (1540), Thượng hoàng Mạc Đăng Dung đau buồn mà chết (1541), vua Mạc Phúc Hải cũng chết yểu (1546). Nhà Mạc biến loạn. Nội bộ lục đục. Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly mâu thuẫn với cha con sủng thần Phạm Quỳnh - Phạm Dao và bọn loạn thần Nguyễn Văn Thái, Đặng Văn Trị,... từ ngấm ngầm đến chia rẽ, đối địch. Thượng thư Nguyễn Thiến đứng về phía Thái tể Bá Ly. Khiêm vương Mạc Kính Điển phụ chính đại thần lo phe phái mạnh của Mạc Chính Trung và có ơn với nhà Phạm Quỳnh, nên không làm chủ được chính sự. Vua Mạc Phúc Nguyên còn trẻ lại tin lời xúc xiểm của loạn thần. Cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao đã bất ngờ đưa quân cấm vệ đến vây dinh Thái tể Lê Bá Ly và Thượng thư Nguyễn Thiến. Hai ông trốn thoát ra được đã đem binh Sơn Tây và Kinh Bắc về đánh lại quân của Phạm Quỳnh và Phạm Dao. Vua Mạc Phúc Nguyên trốn ra ngoài thành và xuôi thuyền bí mật về Kinh Dương để gặp Mạc Kính Điển. Trong tình thế cấp bách, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến đã không kịp hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vội dẫn gia quyến đi suốt đêm trốn vào ải Thanh Hoá xin hàng nhà Lê. Trong các con đi theo có Nguyễn Quyện và nhiều người đang làm tướng triều Mạc như Phổ quận công Lê Khắc Thận, Nguyễn Miễn... Mỗi người đem hơn trăm quân bản bộ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm vì nhà Mạc đã làm bài thơ gửi cho Nguyễn Thiến với ý thuyết phục ông trở về với nhà Mạc, trong đó có câu:

Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại

Tri quân xử biến khá cam tâm.

.....

Vận chuyển nhất chu ly phục hợp

Tràng giang khởi hữu han đông nam

Ta giúp con côi vì nghĩa trọng

Ông khi xử biến khá cam lòng

.........

Vận chuyển một vòng tan lại hợp

Trường giang đâu có hạn đông nam

Nguyễn Thiến xem thư, trong lòng cảm thấy bứt rứt.

Năm 1557, cả Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến cùng mất ở Thanh Hoá. Các con ông là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đã cùng nhau trở về theo lại nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng dưới quyền Mạc Kính Điển.( http://vi.wikipedia.org/)

Nguyễn Bỉnh Khiêm, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử.

6.7. Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 14911585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.

Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết Giang) nối đôi bờ.

Về hành trạng của bà Nhữ Thị Thục, các tài liệu nghiên cứu đến nay vẫn chưa thống nhất về tính xác thực của những giai thoại trong dân gian kể rằng bà chê ông Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ (bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trị của Lê Thánh Tông sẽ đi vào suy tàn nên bà muốn dạy Nguyễn Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định). Nhiều nguồn sử liệu trước đây khẳng định rằng sau khi bỏ về nhà cha mẹ đẻ, bà đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà đi bước nữa để rồi sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). Nhưng nhiều nghiên cứu hiện nay cho rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục sinh ra Nguyễn Văn Đạt khi đã luống tuổi (ngoài 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt) tới 37 năm. Một điều nữa là bà Nhữ Thị Thục sau khi qua đời lại được an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ mà không phải tại làng Trung Am bên nhà chồng như quan niệm truyền thống xưa nay.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, qua đó cho thấy mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ.

Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứ Thanh để tầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.

Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi (1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình. Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.

Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền (gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý hiểu rằng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc”.

Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế), có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà.Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu như “Lực phù nhật cốc trụ kình thiên” (năng lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay “Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt” (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).

Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”. Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc KhoanLương Hữu KhánhTrương Thời CửĐinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông)... Nhiều tài liệu văn học sử cho rằng Nguyễn Dữ (tác giả của Truyền kỳ mạn lục) cũng từng là học trò của ông và được ông phụ chính tác phẩm để Truyền kỳ mạn lục trở thành một áng thiên cổ kỳ bút như Vũ Khâm Lân đã ca ngợi. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ chưa từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời với ông. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất của giới nghiên cứu văn học cũng như lịch sử.

Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: “... Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng”. Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ”.

Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa LưNinh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.

Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc “Pháp Bảo đàn kinh” (tác giả từng viết “Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy”, “Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm” – “Du Nam Hoa tự”); Nguyễn Du sau này đã viết “Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh” (Tụng đọc “Kinh Kim Cương” hơn nghìn vạn lần) (“Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài”) thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài “Độc Phật kinh hữu cảm”. Ông đã chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có cái nhìn thời thế rất sâu sắc, độc đáo. Ông học được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng (thuộc phái Tượng số học của Tống Nho). Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử – một bậc chân nho.

Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độ như không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi: “Nho quan tự tín đa thân ngộ” (Tự biết “cái mũ nhà nho” đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ – “Ngụ hứng, 3”, ”Bạch Vân am thi tập”). Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng thấy được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ như là một tín đồ nhà Phật. (Cha ông là Văn Định cũng đã từng lấy đạo hiệu là Cù Xuyên).

Về quê ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền học Việt Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh (ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Trần), ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia: “Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại” (Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời) “Du Phổ Minh tự”). Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức được tư tưởng “Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp” ở “Kinh Kim Cang” [7, 56]. Đến tiết Trung nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm hy vọng ở lòng yêu thương rộng lớn:“Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao người chịu khổ oan” (“Trung nguyên tiết xá tội” – Đinh Gia Khánh dịch). Nhà thơ rất cảm hứng khi đọc kinh Phật (“Độc Phật kinh hữu cảm”). Ông tâm đắc triết lý sắc không: “Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc” (“Tân quán ngụ hứng, 12”). Đây là tư tưởng “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” nổi bật của “Kinh Bát nhã” Tư tưởng Thiền có lẽ đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: “Vị Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ bổn lai ky (cơ)” (Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt thiền mới biết bổn lai cơ – “Tân quán ngụ hứng, 18”). Tư tưởng này được tìm thấy ở “Kinh Kim Cang”. Khi Phật nói với Tu – bồ - đề: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp)” [7, 41]. Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở “Pháp Bảo Đàn kinh”. Tác giả nói “Bổn lai cơ” trong trường hợp này không ngoài mệnh đề “Bổn lai vô nhất vật” (“Pháp Bảo Đàn kinh”). Khái niệm “cơ” ở cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số học – vốn là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong phú và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri...Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết: “... Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân” (Bạch Vân am thi tập tiền tự). Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc.

Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị... như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy”. Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch chí cũng gần như có chung quan điểm với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình: “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên”.

Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam. Về số lượng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề không chỉ là số lượng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một phong cách thơ riêng không lẫn. Ai cũng biết một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ thời trung đại là "thơ ngôn chí", nguyên tắc mà các nhà nghiên cứu hiện đại thường xem là làm hạn chế tính thẩm mỹ của thơ và ngay các nhà thơ cổ cũng không phải đều nhất nhất tuân theo. Thế nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tuân theo một cách "triệt để" và với một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ. Với ông, đề vịnh, tự sự, tự thuật cũng đều để ngôn chí, và phong cách riêng của ông cũng được xác định chính từ những vần thơ ngôn chí ấy. Thơ văn của ông thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.

Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận “Bước đầu suy nghĩ về Văn học Mạc”, thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là “trữ tình lý trí”. Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực. Vì là tư duy thế sự nên cũng nhìn sâu vào tâm lý con người. Trong khi ở thời trước đó (điển hình là thời của Lê Thánh Tông) mọi thứ trong xã hội đều được ước lệ hoá, công thức hoá, được mỹ hoá thành một xã hội chung chung đâu cũng như nhau.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người tiếp nối cho sự phát triển và hoàn thiện của nền thơ ca dân tộc kể từ sau Nguyễn Trãi, đồng thời bổ sung vào đó đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các học giả như GS. Nguyễn Huệ Chi (Viện Văn học) và PGS.TS. Trần Nguyên Việt (Viện Triết học) có chung quan điểm khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người mở đầu cho tư duy biện chứng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam dưới cái nhìn mang đậm tính triết học thể hiện qua thơ văn của ông.

Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký) nổi tiếng như Trung Tân quán bi kýThạch khánh kýTam giáo tượng bi minh... Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình (nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa). Những văn bia đó không chỉ có giá trị về mặt lịch sử hay khảo cổ mà còn chứa đựng nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong số đó, có giá trị nhất là bài văn bia tại quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn với nội dung như sau: “... Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trả lời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn Thiện là Trung, trái lại thì không phải là Trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ chí Thiện... Xin ghi vào đá để lưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba (1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn” (Bản dịch của nhà sử học Ngô Đăng Lợi). Qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung với một cá nhân nào dù đó là một ông vua, mà là trung với lẽ phải, với chân lý, với điều thiện và với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.

Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình (Sấm Trạng Trình) và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm kíTrình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm.

* ...Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543)

< >...Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568)Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân (Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của Đoan Quận công Nguyễn Hoàng)Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế (Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của vua Mạc)Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong (Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về mối quan hệ giữa vua  và chúa Trịnh)Tứ bách niên tiền, chung phục thuỷ / Thập tam thế hậu, dị nhi đồng (Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về con cháu họ Mạc)Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Thơ gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải)Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Thơ gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến)Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ / Hưng tộ diên trường ức vạn xuân (Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về thời vận mới của nước Việt)Cổ lai quốc dĩ dân vi bản / Đắc quốc ưng tri tại đắc dân (Thơ chữ HánCảm hứng)Cổ lai nhân giả tư vô địch / Hà tất khu khu sự chiến tranh (Thơ chữ Hán)Nho quan tự tín đa thâm ngộ / Đình thực thùy năng vị quốc mưu (Thơ chữ Hán, Ngụ hứng)Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ / Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu (Thơ chữ Hán, Ngụ hứng)Có thuở được thời mèo đuổi chuột / Đến khi thất thế kiến tha bò (Thơ chữ NômBài số 75)Thớt có tanh tao ruồi đậu đến / Ang không mật mỡ kiến bò chi (Thơ chữ Nôm, Bài số 53)Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa / Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi (Thơ chữ Nôm, Bài số 52)Thế gian biến cải vũng nên đồi / Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi (Thơ chữ Nôm, Bài số 77)Làm người hay một chớ hay hai / Chớ cậy rằng hơn, chớ cậy tài (Thơ chữ Nôm, Bài số 65)Làm người chớ thấy tài mà cậy / Có nhọn bao nhiêu lại có tù (Thơ chữ Nôm, Bài số 11)Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ / Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79)Làm người có dại mới nên khôn / Chớ dại ngây si, chớ quá khôn (Thơ chữ Nôm, Bài số 94)Chớ cậy rằng khôn khinh rẻ dại / Gặp thời, dại cũng hoá ra khôn (Thơ chữ Nôm, Bài số 94)Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng / Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen (Thơ chữ Nôm, Bài số 5)Đạo ở mình ta lấy đạo trung / Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104)Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình Quốc công. Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra đến 500 năm sau, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam.

Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn gọi là "Sấm Trạng Trình" là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên “thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả”. “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa” (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (lời Chu Xán- sứ giả của triều Thanh). Sấm ký, giai thoại và giải đoán chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ tài muôn thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy.

Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Đây là bản trích ở bộ “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) của Trịnh Văn Thanh – Sài Gòn – 1966. Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được.

Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh”. Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã.

Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua Phật Trần Nhân Tông (1258- 1308) là người rất coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong “Cư trần lạc đạo”:“Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Thái Ất thần kinh”,“Sấm ký”,“Bạch Vân Am thi văn tập”, “huyền thoại và di tích lịch sử” đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại một tài sản văn hoá vô giá.

Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại".

Cho đến trước thế kỷ 19 (trước khi nhà Nguyễn được thành lập), trong số các tác gia thời trung đại của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật thiết nhất với hai chữ Việt Nam thông qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khẳng định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư cách là quốc hiệu của dân tộc hay không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức nhất để gọi tên của đất nước.

Trong các tác phẩm liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh xưng Việt Nam đã được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa đề Trình tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được nhắc đến: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Danh xưng Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn thân đồng thời là hai Trạng nguyên của triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt Nam được dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?). Bài thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết: Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ Hán của ông là Bạch Vân am thi tập.

Trạng nguyên, Lại bộ thượng thư Giáp Hải đời Mạc đã viết thơ ca ngợi tài lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tên tuổi của ông trong giới Nho gia đương thời cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu sau: “Chu Liêm Khê hậu hữu Y Xuyên, Lý học vu kim hữu chính truyền”; “Danh quán nho khoa lôi chấn địa, Lực phù nhật cốc trụ kình thiên”; “Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt, Cửu lão quang nghi thế thượng tiên” (dịch nghĩa: “Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên, Lý học ngày nay bậc chính truyền”; “Long bảng đứng đầu tên sấm dậy, Chống trời cột vững sức cường kiên”; “Bốn triều nghiệp lớn tay anh kiệt, Chín lão dung nghi dáng khách tiên”).

Bài văn tế “Môn sinh tế Tuyết Giang phu tử văn” đọc trước linh cữu Nguyễn Bỉnh Khiêm mùa đông năm 1585 do Tiến sĩ Đinh Thì Trung (Đinh Thời Trung) thay mặt các đồng môn soạn ra để tế viếng người thầy của mình. Trong bài văn tế, học trò Đinh Thời Trung đã coi Tuyết Giang phu tử là bậc “muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu, Tô” (Âu Dương Tu và Tô Đông Pha đời Tống), “văn lực không nhường Lý, Đỗ” (Lý Bạch và Đỗ Phủ đời Đường), “một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dương Tử” (hiểu rõ lẽ huyền vi của bộ Thái ất như Dương Hùng đời Hán), “suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ” (suy trước biết sau chẳng khác nào Thiệu Ung đời Tống) và “một mình Lý học tinh thông, hai nước anh hùng không đối thủ”.

Tiến sĩ đời Lê Trung Hưng, Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743 có những dòng ca ngợi:...Bởi tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa dễ ai hơn được vậy. Ôi! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa? Còn như tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng như một buổi sớm, xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu An Nam Lý học hữu Trình Tuyền tức là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.

La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp sống thời nhà Tây Sơn, người được Quang Trung Nguyễn Huệ tôn kính như bậc thầy, từ xứ Nghệ ra Bắc, về trấn Hải Dương mong tìm lại những dấu tích gắn với cuộc đời của Tuyết Giang phu tử (Bạch Vân cư sĩ), đã ngậm ngùi viết trong bài thơ Quá Trình Tuyền mục tự (Qua chùa cũ của Trình Tuyền) khi viếng cảnh xưa mà không còn am Bạch Vân, quán Trung Tân bên bến Tuyết Giang, trong đó có những dòng thơ ca ngợi Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài huyền cơ tham tạo hóa (mưu cơ thâm kín can dự cả vào công việc của tạo hóa) hay phiến ngữ toàn tam tính (một lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ).

Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã viết: “Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông đúc lại”.

Phan Huy Chú, danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí đã xem Nguyễn Bỉnh Khiêm là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.

Nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười về thăm khu di tích Trạng Trình đã ghi những hàng chữ lưu niệm: “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà triết học, một nhà dự báo, một danh nhân văn hóa như cây đại thụ bóng trùm cả một thế kỷ XVI. Tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, nhân cách cao cả cùng với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo đã tạo nên sự nghiệp, uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của ông mà đến nay chúng ta rất đỗi tự hào, trân trọng.”

Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu có những đánh giá về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết định đi theo phò tá triều Mạc mà không phải là nhà Lê: “Vì sao nhà trí thức kiệt xuất này, suốt cuộc đời cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà Lê để cuối cùng chọn Mạc Đăng Dung như minh chủ của mình?... Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế.”

GS.TSKH. Vũ Minh Giang (Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: “Sự dấn thân muộn màng của một con người tài năng bộc lộ từ khi còn bé chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm không thuộc người lãnh đạm với thời cuộc, mà trái lại ông là người có lý tưởng cao hơn nhiều so với chí hướng thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia thường thấy ở phần lớn nho sỹ. Ông chỉ tham dự vào chính trường khi cảm thấy thời cuộc cần đến mình, khi hoàn cảnh chính trị có thể tạo điều kiện cho ông đem tài trí ra giúp đời, phụng sự đất nước”.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận “Bước đầu suy nghĩ về văn học Mạc” đã đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “...Ông là một nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn hóa mà nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn Trãi là mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học. Chính ông xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng trong Kinh Dịch, góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam một số kiến giải mới mẻ. Là một nhà dịch học nên ông nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có...”

Phó Giáo sư Nguyễn Tài Thư trong tác phẩm Nghiên cứu Kinh Dịch (Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2002) đã có những đúc kết về di sản Lý học (Dịch học) của Trạng Trình: “Chiêm nghiệm những nguyên lý của Chu Dịch, đưa nó vào xử thế mà ông nổi tiếng là người nhìn xa trông rộng. Những sự kiện Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán nhà Lê trung hưng, chỉ cho nhà Mạc lên Cao Bằng, khuyên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Hóa Châu đã được lịch sử chứng minh là tài tình, thì ở đây không có gì là lời nói gặp may, mà là những dự đoán có cơ sở thực tế vững vàng, đáng được nhân dân tôn ông làm nhà tiên tri. Quả thật, học Dịch và hiểu Dịch như ông xưa nay không phải là nhiều... Ông đã vượt được các nhà Nho khác chính là ở chỗ ông học Dịch nhưng không bị lệ thuộc hoàn toàn vào Dịch”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hóa duy nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới nay được công nhận là một vị thánh của một tôn giáo chính thức. Ông được suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ (còn được gọi là Thanh Sơn Chơn nhơn), là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo Cao Đài. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước được lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor Hugo và Tôn Trung Sơn.

Có rất nhiều giai thoại nói về ông:

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.

Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát:

"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung".

Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:

"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung".

Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).

Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát

"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng".

Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:

"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".

Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.

Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm vua.

Năm 1985, tại Thành phố Hải PhòngỦy ban nhân dân thành phố Hải Phòng phối hợp với Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học về Danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông. Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã đánh giá, khẳng định về tầm vóc của Trạng Trình và ghi nhận những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm với thời đại ông sống cũng như với lịch sử dân tộc.Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.

Năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Sở Văn hoá Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học kỷ niệm 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm với chủ đề “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự phát triển văn hoá dân tộc”.

Cũng trong năm 1991, khu di tích gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Cuối năm 2000, nhân kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng Trình, Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng cho khởi công xây dựng dự án nâng cấp tạo dựng cả một vùng rộng lớn thành quần thể "Khu di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm" tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo với nhiều hạng mục công trình: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm với ba gian tiền đường, hai gian hậu cung, phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất, bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”; Khu vực hồ Thái Nhâm phía trước đền thờ, trên khoảng đất nhỏ giữa hồ có cầu bắc qua còn lưu giữ tấm bia đá làm năm Vĩnh Hựu thời Lê Trung Hưng (1736) ghi lại việc làm đền thờ Trạng và tên những người đã đóng góp xây dựng đền; Ngôi nhà ba gian lợp cói dựng phía sau đền, mô phỏng am Bạch Vân, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan về dạy học; Quần thể vườn tượng, với kích thước tương đương người thật, diễn tả lại cuộc đời, cảnh dạy học khi xưa của Trạng Trình, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động với du khách; Phần mộ cụ Nguyễn Văn Định, thân phụ của Trạng Trình (riêng phần mộ của Trạng Trình đến nay vẫn chưa có thông tin chính thức về địa điểm cụ thể); Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Quán Trung Tân, nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “Trung” hướng lòng theo “Chí Trung Chí Thiện”; Khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá granit cao 5,7m, nặng 8,5 tấn cùng hai bức phù điêu diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình và lịch sử của địa phương, phía trước tượng đài là hồ bán nguyệt rộng 1.000m²; Chùa Song Mai, Nhà thờ tổ là nơi thờ bà Minh Nguyệt, người vợ thứ ba của Trạng Trình đã từng tu hành tại đây; Tháp Bút Kình Thiên với ngụ ý ca ngợi công đức Trạng Trình như cột trụ chống trời. Khu di tích được xây dựng khang trang đã trở thành điểm du lịch văn hóa lớn của TP. Hải Phòng.

Trên quê ngoại ông ở thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được thờ cùng với mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan tại Từ đường họ Nhữ - Nguyễn trong quần thể di tích có lăng mộ của vợ chồng Tiến sĩ Thượng thư Nhữ Văn Lan cùng con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Trạng Trình).

Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương và Văn miếu Trấn Biên ở Đồng Nai đều có tượng và bài vị thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đạo Cao Đài đã phong thánh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn, là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor Hugo và Tôn Trung Sơn.( http://vi.wikipedia.org/).Đình làng Thanh Am (tên cũ là Hoa Am) thuộc phường Thượng Thanh, quận Long BiênHà Nội ngày nay, được xây dựng từ cuối thế kỷ XVI là nơi thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm như một vị Thành hoàng của làng. Tên gọi cũ là Hoa Am cũng do Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc sinh thời đặt cho làng trong thời gian ông làm quan dưới triều Mạc. Khi về già, ông vẫn lui tới đây khuyên dân làm nghề nông nuôi tằm ươm tơ dệt lụa. Khi ông mất, nhân dân ghi nhớ công lao, tôn sùng ông là một trong các vị Thành Hoàng của làng. Cụm đìnhchùa làng Thanh Am có bề dày lịch sử với những sắc phongthần phảsấm ký và nhiều tư liệu còn giữ.

SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH  BẢN NÔM NGUYỄN VĂN SÂM,  SƠN TRUNG PHIÊN ÂM

1. Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng
Kia Nhị thủy nọ Đảo sơn
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho
5. Học cách vật mới dò tới chốn
Chép ghi làm một bản xem chơi
Muôn việc cũng bởi tại trời
Suy thông mới biết sự đời nhường bao
Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy
10. Truyền hậu thế ai nấy xem cho
Những lời nghiêm ngặt khôn lo
Ai mà biết được trượng phu nên người.

Nay xem chữ một nghĩa mười
Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên
15. Kể từ Lạc Long Quân dựng nước
Sang Hùng Vương được 18 đời
Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi
Cờ lau lập trận thay trời trị dân
Mão được 12 dư xuân
20. Lê Hành (1) kế vị xa gần âu ca. 
Truyền đã được mười ba năm lẻ
Đến Ngọa triều nào kể tài năng
Ngôi trời truyền đến Lý nay
Long thành bát diệp đến ngày dực phân
25. Chiều Hoàng là ả nữ quân
Mê về nhan sắc trao Trần thái tôn
Mười hai đời một lòng nhân hậu.(2)

Trăm bảy mươi in dấu thất niên

Đông A chốn ấy còn bền
30. Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.Thái ngu được mười bốn năm
Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi
Suy ra mới biết sự trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia
35. Mười đời ngồi ngự ngai vàng
Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh sư.
Xưa làm lực sỹ đô du
Trời cho nên trị làm vua một đời.
Sáu mươi năm bất tái hồi
40. Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công (3)Định mưu phù lập Trang Tôn
Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương
Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn
Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia
Tây Sơn sùng sục kéo ra
46. Nghiệm xem thế tục gọi là phương ngôn.

 (4) Phần sau đây là các bài thơ, người chú giải xin đánh số để tiện khảo cứu

Bài thơ số I
Thơ rằng: 
Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong. 
Đầu cha chắp lấy đầu con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Kẻ sau này ngu Trịnh được lâu
Bài thơ số II
Lại có thơ rằng: .

Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân
Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê
Nọ nào ngang dọc trong (5) huê
Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn
Chó mừng chủ, gà cũng cục tác
Lợn ăn no tha rác, chuột chơi

Bài thơ số III
Ngạn lại có câu rằng:
Gà bỏ con kêu cục tác
Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa
Lợn ăn no ủn ỉn nằm
Mới kể là đời thịnh thế
Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai
Bởi Tần Vương u mê chẳng biết
Rồi phen này dê lại giết dê
Tới khi thực tận binh bì
Âm binh ở giữa ai thì biết sao!
Trời cho ta giơ dao giết quỷ
Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư
Ai từng cứu con thơ sa giếng
Giốc một lòng chinh chiến đua nhau
Muôn dân chịu thuở âu sầu
Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho
Chốn đông nam là nơi khổ ải
Lánh cho xa kẻo phải đao binh
Bắc kinh mới thực đế kinh,
Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào
Vả mình là đấng anh hào
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày
Bò men lên núi Vu Sơn
Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù
Ấy những quân phụ thù thui thủi
Lòng trời xui ai lại biết đâu…
Bài thơ số IV
Có thơ rằng:
Dần Mão chư dương giai vị cập
Lai chiêu lục thất xuất minh quân
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.
Bài thơ số V
Có thơ rằng: 
Hầu đáo kê lai khởi chiến qua
Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa
Anh hùng mai thảo mã
Tướng suý tận tiêu ma
Phá điền thiên tử xuất
Tràng vỹ tảo sơn hà
Gà kia bên tường khuya sớm gáy
Chẳng yêu ra áy náy bất bình.
Bài thơ số VI
Có thơ rằng:
Một đám mây xanh đứng giữa trời
Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi
Thiên hạ mười phần còn có một
Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời
Thầy tăng mở nước trời không bảo.
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau
Chớ có tham của tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân
Đằng giang chốn ấy cũng gần
Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.
Bài thơ số VII
Thơ rằng: Ba thục riêng một góc trời
Thái Nguyên một giải là nơi trú đình
Bốn bề núi đá mọc xanh
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay
Bốn mùa chim núi đá cây
Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào
Khuyên ai là đấng anh hào
Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay
Bốn bụt xuất thế đã chầy
Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.
Bài thơ số VIII
Thơ rằng: 
Ấy là điềm xuất thánh quân
Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường
Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”
Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao
Nắng lâu ắt có mưa rào
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa
Nắng rồi thì phải có mưa
Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn
Tuần này thánh xuất khảm phương
Sự thật đã tường chẳng lọ phải say
Tuần này thiên địa chuyển hồi
Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên
Trời sai quỷ sứ dọn đường
Để cho thánh xuất khảm phương sau này
Vội chi đua sức ra tay
Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi
Suy cho thấu biết sự đời
Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.

Bài thơ số IX
Thơ rằng: 
1- Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền

2- Ưng tri hoàng thước tại thân biên
3- Tước bị lạm nhân cung đạn đả
4- Lạp nhân cách tự hổ lang huyên
5- Tuệ tinh xuất long xà
6- Thần xuất cửu cửu gia
7- Ngưu mã thiên hạ động
8- Đinh hạ nãi Đông A.
Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò
Nhị Hà một giải quanh co
Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao
Có bến mưa rào có thứ cùng chăng
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không hào ?
Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.
Bài thơ số X
Thơ rằng: 
1- Di lặc giáng sinh
2- Sa phù dĩ chỉ
3- Lục thất dĩ thành
4- Kiến long sào kinh
5- Nhật xuất điện thượng
6- Thiên hạ thái bình
Bài thơ số XI
Thơ rằng: 
Giang Nam nổi trận mạt thù
Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời
Phùng trời nay gặp thái lai
Can qua chiến trận để người phong công
Trẻ già được hết sự lòng
Ghi làm một bản nội phòng mở xem
Rước vua về đến Tràng An
Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn
Đời ấy cùng thánh, cùng tiên
Sinh những người hiền giúp nước yên dân.
Này những lúc thánh nhân chưa ra đời
Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu
Lợn nằm cũng thấy lợn lo
Thái bình mới động thập thò liền sang
Ngang cung văn vũ khác thường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thuỷ binh cờ xí vừng hồng
Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn
Đứng hiên ngang nào ai biết trước
Bắc kinh sang có việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Bỗng khiến người vu vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa
Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những cậy thánh thần
Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công
Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví
Xưa phục thù ai sửa ngôi cho
Mạc kia cũng muốn nên trò
Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!
Kẻ thì tự xưng Lê nay
Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.
Bốn phương cũng có can qua
Mạc thì chẳng được đã ra lại về
Quân hùng binh dấy giang khê
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì…
Bài thơ số XII
Thơ rằng: 
1- Hầu đáo kê lai vị chính kỳ
2- Quốc dân hãm nịch quốc dân di
3- Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống
4- Phong nghỉ tung hoàng thị mạc viBài thơ số XIII
Thơ rằng
Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ
Tài tận dân hao thế lực suy
Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến
Kham tiếu không huyền tiệm thất ky
Xem thấy những sương sam tuyết lạnh
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng
Thành ao cá nước tưng bừng
Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.
Sang thu chín huyết vừng hồng
Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần
Trẻ con mang lệnh tướng quân
Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường
Dùng uy bát là đường ngũ bá
Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan
Cỏ cây lá rụng đầy ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao còn biết có nhà Đà giang
Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường
Kiều môn án trước cao bành tựa sau
Thái nguyên cận bắc đường sau
Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ
Cùng nhau gặp mặt bây giờ
Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông
Vui mừng gặp mặt tam công
Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao
Mai kia cùng đấng anh hào
Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành
Vậy nên một áng phong tình
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng
Bõ khi chém lợn vẽ rồng
Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu
Bõ khi kẻ việt người Hồ
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Ngày thường trông thấy quyển vàng
Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.
Tinh thái ất giờ đời là thực
Sấm trời xem vô giá muôn phần
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Một đời có một tôi ngoan
Giúp chưng nhà nước dân an thái bình
Thấy đâu bò đái thất thanh
Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuôn buồn
Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.
Bài thơ số XIV
Thơ rằng: 
Ghê thay thau lẫn với vàng,
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi
Can qua việc nước bời bời.
Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân
Lục thất dư ngũ bách xuân
Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao
Thấy sấm tự đấy chép vào
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.
Chú thích:
(1). Nguyên bản viết Lê Hành, các bản phiên là Lê Hoàn 
(2). Mười hai đời một lòng nhân hậu.Các bản thiếu câu này.
(3). Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công 
Định mưu phù lập Trang Tôn: Nói việc Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông.
(4). Các bản phiên là hiệu chi. (http://giahoithutrang.blogspot.com/)

6.8. Nguyễn Quyện (chữ Hán: 阮勌; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thạch quận công, Chưởng phù Nam vệ, Quốc công, Tả đô đốc Nam đạo, Thái bảo.

Nguyễn Quyện là con của Thư Quận công, Thượng thư, Trạng nguyên Nguyễn Thiến, quê nội làng Tảo Dương, quê ngoại làng Canh Hoạch, phủ Thanh Oai nay thuộc thành phố Hà Nội.

Nguyễn Quyện là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước làm tướng của nhà Mạc, cùng các danh tướng Mạc Kính ĐiểnMạc Ngọc Liễn quần nhau với những tướng giỏi của nhà Lê là Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng trong nhiều năm.

Cha Nguyễn Quyện là Nguyễn Thiến được nhà Mạc trọng dụng. Nhà ông cùng Thái tể Lê Bá Ly là thông gia. Sau khi vua sáng Mạc Đăng Doanh mất (1540), Thượng hoàng Mạc Đăng Dung đau buồn mà qua đời (1541), vua Mạc Phúc Hải cũng chết yểu (1546), nhà Mạc có biến loạn, nội bộ lục đục.

Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly mâu thuẫn với cha con sủng thần Phạm Quỳnh - Phạm Dao và các quan Nguyễn Văn Thái, Đặng Văn Trị,... từ ngấm ngầm đến chia rẽ, đối địch. Thượng thư Nguyễn Thiến đứng về phía Thái tể Bá Ly. Khiêm vương Mạc Kính Điển phụ chính đại thần đang lo đánh dẹp phe phái mạnh của Mạc Chính Trung - Phạm Tử Nghi và có ơn với nhà Phạm Quỳnh, nên chưa kịp đứng ra dàn xếp chính sự. Vua Mạc Tuyên Tông còn trẻ lại tin lời xúc xiểm của sủng thần Phạm Quỳnh. Cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao đã bất ngờ đưa quân cấm vệ đến vây dinh Thái tể Lê Bá Ly và Thượng thư Nguyễn Thiến. Hai người trốn thoát ra được đã đem binh Sơn Tây và Kinh Bắc về đánh lại quân của Phạm Quỳnh và Phạm Dao. Vua Mạc Tuyên Tông trốn ra ngoài thành và xuôi thuyền bí mật về Kinh Dương để gặp Mạc Kính Điển. Trong tình thế cấp bách, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến đã không kịp hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vội dẫn gia quyến đi suốt đêm trốn vào ải Thanh Hoa xin hàng nhà Lê. Trong các con đi theo có Nguyễn Quyện và nhiều người đang làm tướng triều Mạc như Phổ quận công Lê Khắc Thận, Nguyễn Miễn... Mỗi người đem hơn trăm quân bản bộ về hàng nhà Lê trong năm đó.

Nhà Mạc bị tổn thất đặc biệt nghiêm trọng trong sự kiện này. Do vậy, tháng 3 năm 1551, Trịnh Kiểm đã đem một vạn quân, cử Lê Bá Ly, Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận làm tiên phong, phối hợp chặt chẽ với Vũ Văn Mật ở Tuyên Quang cùng mang quân đánh kinh thành Thăng Long. Mạc Tuyên Tông tránh sang Kim Thành, để Mạc Kính Điển, Nguyễn Kính ở lại chống giữ. Trịnh Kiểm không đánh chiếm được được kinh thành phải kéo quân về Thanh Hoá.

Năm 1557, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến cùng mất. Mạc Tuyên Tông biết Nguyễn Quyện là tướng tài, luôn lập được chiến công nên lấy làm lo ngại phải hỏi kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình đã xin vua Mạc mang theo một trăm tráng sĩ sai đi phục sẵn ở bờ bắc và gửi thư mời anh em Nguyễn Quyện sang bên thuyền để cùng uống rượu, nói chuyện tâm tình.

Tháng 8 năm 1557, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn nghe theo lời Nguyễn Bỉnh Khiêm, bèn rủ nhau trốn về với nhà Mạc. Sự trở về của hai anh em Nguyễn Quyện làm Mạc Tuyên Tông và Khiêm Vương Mạc Kính Điển rất vui mừng. Mạc Kính Điển gả con gái Ngọc Tỷ cho Nguyễn Quyện và Ngọc Điểm cho Nguyễn Miễn; Mạc Tuyên Tông phong cho Nguyễn Quyện tước Văn Phái hầu, Nguyễn Miễn làm Phù Hưng hầu.

Tháng 9 năm đó, Thái sư nhà Lê là Trịnh Kiểm mang quân đánh huyện Giao Thuỷ ở mạn dưới Sơn Nam. Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ làm Tiền Thuỷ đội, tung quân đánh lớn. Mạc Kính Điển không chút nghi ngờ Nguyễn Quyện, sai ngay ông ra chống giữ ở sông Giao Thuỷ. Nguyễn Quyện và Phạm Đức Kỳ đánh nhau to. Kỳ rướn mình nhảy sang mui thuyền của Nguyễn Quyện trước và hạ gục ngay người vệ sĩ của Quyện. Ông cầm gươm chém tới, Kỳ không đỡ kịp nên nhảy xuống sông lặn đi. Ông nhảy sang thuyền của Kỳ, chém được đầu người vệ sĩ và nhanh ý xóc mũi kiếm vào đầu địch thủ, dơ cao lên, hô lớn:

Đầu Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta!

Quân Lê Trịnh nghe nói thế, tưởng chủ tướng bị giết nên nao núng, tan vỡ. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Trịnh Kiểm phải vội rút quân. Mạc Kính Điển sai tướng đem quân chặn lối về. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trận này quân Lê tổn hại quá nửa, chiến tướng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ rất nhiều, Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoá. Nguyễn Quyện được phong là Thạch quận công.

Chiến sự Lê-Mạc giằng co trong nhiều năm. Năm 1561, Mạc Phúc Nguyên lâm bệnh chết, con là Mạc Mậu Hợp mới hai tuổi lên thay. Phụ chính Mạc Kính Điển phong Nguyễn Quyện là Chưởng Phù Nam vệ.

Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, các con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền đánh nhau. Mạc Kính Điển nhân thời cơ bèn khởi 10 vạn quân, 700 chiếc chiến thuyền chia làm năm đội vào đánh Nam triều. Mạc Đôn Nhượng cùng tướng Bắc đạo Mạc Đình Khoa trấn giữ cửa biển Thần Phù, tướng Nam đạo Nguyễn Quyện làm đội thứ 2, tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn làm đội thứ 3, tướng Đông đạo Hoa Quận công và Kỳ Quận công làm đội thứ 4; đích thân Mạc Kính Điển đốc suất đại quân trung dinh làm đội thứ 5. Trịnh Cối liệu thế không chống nổi bèn đem quân về hàng nhà Mạc. Quân nhà Mạc thừa thắng tràn lên vây đánh An Trường, thuộc huyện Thuỷ Nguyên, là nơi vua nhà Lê đóng. Tuy nhiên, Trịnh Tùng thay thế Trịnh Kiểm cũng là tướng có tài, quân Mạc không đánh chiếm được Thanh Hoá, chỉ cướp được nhiều của cải và dân mang về bắc. Một số tướng lĩnh nhà Lê cũng quay sang hàng Mạc.

Tháng 7 năm 1571, Nguyễn Quyện theo Mạc Kính Điển đốc suất quân lính vào đánh các huyện ở Nghệ An. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, dân Nghệ An sợ uy quân Mạc từ lâu, địa thế lại xa cách, quân Lê Trịnh không thể cứu giúp được, phần nhiều đầu hàng nhà Mạc. Vì thế, từ sông Cả vào Nam đều là đất theo Mạc. Tướng Lê là Nguyễn Bá Quýnh nghe tin quân Mạc đến kinh hãi bỏ chạy. Nguyễn Quyện đánh tan đạo quân Lê của Hoàng quận công, bắt sống Hoàng quận công. Tuy nhiên, quân Mạc đi đánh xa, không được tiếp tế kịp thời. Tháng 9 năm đó, Trịnh Tùng chia quân cho hai quận công Trịnh Mô và Phan Công Tích đi cứu Nghệ An. Quân Mạc rút về.

Tháng 8 năm 1572, Do chiến sự bên Mạc có nhiều thuận lợi, Thái phó Vi quận công Lê Khắc Thận - con của Lê Bá Ly trước từng theo cha sang hàng Lê với Nguyễn Quyện- đã bỏ lại vợ con, vượt luỹ về hàng nhà Mạc.

Tháng 6 năm 1574, Nguyễn Quyện lại đem quân đánh Nghệ An. Quân Lê đánh nhau với quân Mạc nhiều lần bất lợi, thấy quân lính nhiều người sợ bỏ trốn, bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền. Quân Mạc đuổi đến, quân Lê cũng không chịu giao chiến. Nguyễn Quyện đánh bại quân Lê, đuổi theo bắt sống được tướng Hoành quận công mang về Thăng Long xử tử.

Tháng 8 năm 1575, Mạc Kính Điển mang quân vào đánh Thanh Hoá, sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Trịnh Tùng điều quân đánh chặn, cầm chân được quân của Kính Điển ở huyện Yên Định. Trịnh Tùng cử các tướng Lại Thế Khanh, Phan Công Tích, Trịnh Mô đi cứu Nghệ An. Nguyễn Quyện đã dùng kỳ binh mai phục, đánh thắng luôn và bắt được Phan Công Tích đem về.

Năm 1576, Mạc Kính Điển một lần nữa mang quân vào đánh Thanh Hoá và lại sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Nguyễn Quyện đụng với Tấn quận công Trịnh Mô, đánh nhau vài tháng. Sau Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trốn về Thanh Hoá, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện nói:

Trịnh Mô đánh thua chạy về, rút quân không có hiệu lệnh, ta thế nào cũng bắt được nó.

Rồi ông tự đốc quân đuổi tới Ngọc Sơn, bắt được Trịnh Mô ở giữa đường đưa về Thăng Long.

Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Lê ghi nhận: Từ đấy, oai thanh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy, trở thành viên danh tướng của họ Mạc. Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang Đông đều cho là không bằng Nguyễn Quyện.

16 tháng 8 năm 1570 Mạc Kinh Điển đốc xuất các Tướng Tá đem hơn 10 vạn quân đánh Thanh Hóa. Hoàng Quận công ( Không rõ Tên theo gia phả họ Hoàng trần Là Mạc Đăng Lượng) làm đội thứ nhất Tiên phong. Nam đạo Thạch quận công Nguyễn Quyện làm đội thứ Hai. Tháng 8 năm 1577, ông theo Mạc Kính Điển đi đánh Thanh Hoá nhưng không giành được thắng lợi. Quân Mạc tổn thất phải rút về.

Năm 1580, Mạc Kính Điển lâm bệnh không ra trận được Tháng 7 năm đó, Kính Điển sai Nguyễn Quyện cùng Mạc Ngọc Liễn đem quân vào đánh Thanh Hoá, cướp lấy tiền của, súc vật của dân cư các huyện dọc sông rồi rút về. Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất. Mạc Đôn Nhượng được thay làm phụ chính.

Năm 1581, Nguyễn Quyện theo Mạc Đôn Nhượng vào đánh Thanh Hoá nhưng Trịnh Tùng chốt giữ nhưng nơi hiểm yếu nên quân Mạc bại trận phải trở về.

Năm Quý Mùi (1583) sau mười năm giằng co (1573-1583), Trịnh Tùng thấy thế mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam, đổi thế thủ thành thế công. Lúc này Mạc Đôn Nhượng làm phụ chính đại thần không có tài như Mạc Kính Điển, vua Mạc Mậu Hợp hèn kém, ít quan tâm chính sự và không nghe lời trung thần. Nguyễn Quyện và Mạc Ngọc Liễn thì đều đã già yếu. Thế Nhà Mạc ngày một suy yếu.

Năm 1584, Nguyễn Quyện được phong tước Thường quốc công. Tháng 6 năm 1586, ông được phong làm Nam quân Tả đô đốc, cùng Mạc Ngọc Liễn được phong làm Thái bảo.

Tháng 11 năm 1587, quân Lê ra đánh phía tây nam, đến huyện Mỹ Lương. Nhà Mạc sai tướng Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện ra chống giữ. Khi Nguyễn Quyện đến sông Do Lễ gặp quân Lê tới. Quân Mạc yếu thế, bị thua chạy về Thăng Long.

Liên tiếp trong các năm sau, quân Lê ra đánh, quân Mạc thường bị thua, nhưng khi quân Mạc chạy về kinh, phía quân Lê cũng chưa đủ mạnh để truy kích ra bắc, nên rút về Thanh Hoá.

Tháng 12 năm 1591, Trịnh Tùng huy động đại quân bắc tiến, chia làm 5 đạo để đánh ra Thăng Long. Nhà Mạc cũng dồn hết quân lính khoảng 10 vạn người ra mặt trận, hội ở Quốc Oai để quyết chiến. Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo; Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo, Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh.

Ngày 27 tháng chạp, đến địa phận xã Phấn Thượng, hai bên đối trận với nhau. Quân Lê Trịnh mạnh mẽ tiến lên đánh bại quân Mạc, thừa thắng đuổi dài đến Giang Cao, chém được hơn 1 vạn quân Mạc. Mạc Mậu Hợp vội xuống thuyền vượt sông mà chạy. Duy có Nguyễn Quyện lánh xa nên được an toàn, chưa đụng quân Lê.

Mạc Mậu Hợp trốn về Thăng Long, chỉnh đốn lại binh mã. Sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, chia dinh thứ, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La để chống giữ; Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Quân hai đạo Đông và Bắc đều thuộc quyền của Nguyễn Quyện.

Mạc Mậu Hợp tự tay đốc suất thuỷ quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phòng bị.

Đầu tháng giêng năm 1592, Trịnh Tùng đốc suất quân lính cùng tiến. Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên không chống nổi quân Lê, tan vỡ tháo chạy; Mạc Ngọc Liễn cũng bỏ trốn. Quân Lê thừa thắng đuổi tràn đến tận sông, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành. Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cầu Dền. Quân Mạc tan vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp nổi dậy, bị chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền. Nguyễn Quyện định liều mạng chạy trốn, nhưng tiến, lui đều không còn đường nào, trong ngoài đều là quân Lê, mà cửa luỹ lại bị lấp. Con ông là Nguyễn Bảo Trung, Nguyễn Nghĩa Trạch và thủ hạ, tinh binh cố sức đánh, đều chết tại trận.

Nguyễn Quyện trí cùng lực kiệt, chạy về bản dinh, bị quân Lê bắt sống đem dâng trước cửa quân. Trịnh Tùng cởi trói cho ông, đãi theo lễ tân khách, tuyên dụ uý lạo, nói tới ân nghĩa thu nạp của Trịnh Kiểm trước kia.

Nguyễn Quyện phục xuống và tự than rằng:

Tướng thua trận không thể nói mạnh được. Trời đã bỏ họ Mạc thì người anh hùng cũng khó ra sức.

Trịnh Tùng khen ngợi câu nói ấy của ông.

Nguyễn Quyện tuy bị bắt nhưng vẫn nhớ nhà Mạc, bèn nghĩ ra kế hoãn binh cho nhà Mạc. Ông nói với Trịnh Tùng san phẳng luỹ đất trong thành Thăng Long. Trịnh Tùng nghe theo, ngày 15 tháng giêng hạ lệnh cho các quân san phẳng luỹ đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn trượng, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, phá đến thành đất bằng. Ông muốn nhân thời gian quân Lê mải đi phá luỹ, quân Mạc sẽ có cơ hội tổ chức lại.

Trịnh Tùng tuy thắng trận nhưng liệu sức chưa chiếm hẳn được Thăng Long nên cũng tạm rút quân. Song Mạc Mậu Hợp khi trở về kinh thành lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Nam và tổ chức phản công.

Nguyễn Quyện sinh được hai con gái. Con gái lớn là hoàng hậu Nguyễn Thị của Mạc Mậu Hợp, con gái thứ là Nguyễn Thị Niên là vợ của tướng Bùi Văn Khuê. Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị, Mạc Mậu Hợp thấy sắc đẹp của Thị Niên nên muốn chiếm đoạt, bèn giữ luôn ở trong cung và dự định triệu Bùi Văn Khuê về kinh để giết. Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê. Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê. Sau đó liên tiếp 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Mạc Ngọc Liễn một mình chống giữ nhưng cô thế, bị bại trận ở Tam Đảo. Mạc Mậu Hợp đại bại bỏ chạy rồi bị bắt và bị giết.

Mạc Ngọc Liễn chạy thoát, lập người tông thất là Mạc Kính Cung (con Kính Điển) lên ngôi, tiếp tục chống Lê Trịnh.

Nguyễn Quyện bị giam trong ngục. Các con ông là Nhuệ quận công Nguyễn Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trù và con của Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn- em ông, có sách chép là Nguyễn Phù Hưng hầu- là Đô Mỹ, Văn Bảng, Nam Dương, An Nghĩa, Nhân Trí  thấy vua Mạc bị bắt, bèn chịu khuất quy thuận. Tuy nhiên sau đó ông cùng các con, cháu vẫn muốn phò nhà Mạc nên mưu phản, việc bị phát giác.

Ngày mồng 4 tháng 11 nhuận năm 1593, Nguyễn Quyện cùng Nguyễn Tín, Đô Mỹ, Văn Bảng, Nhân Trí đều bị giết trong ngục. Năm đó Nguyễn Quyện đã 82 tuổi.

Con ông là Thọ Nham cùng 2 người cháu là Nam Dương, An Nghĩa trốn thoát đi theo Mạc Kính Cung, họ Mạc cát cứ trên Cao Bằng thêm hơn 80 năm nữa.(https://vi.wikipedia.org/).

6.9. Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du; ngoài ra, có người gọi bà tên Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền), là nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam. Hiện chỉ biết bà sống vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, chưa rõ năm sinh và mất.

Nguyễn Thị Duệ là người ở Kiệt Đặc (nay là phường Văn An), Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng gia đình không thuận. Năm 1592, chúa Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh đô Thăng Longnhà Mạc chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình đi theo.

Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để dự việc đèn sách. Khoa thi Hội năm Giáp Ngọ (1594) bà mang tên giả là Nguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa 20. Đến khi mở yến tiệc chiêu đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ dáng vẻ mảnh mai, mặt mày thanh tú... nên dò hỏi. Khi đã rõ chuyện, Nguyễn Thị Duệ không bị khép tội mà còn được vua khen ngợi...

Sau đó, vua vời bà vào cung để dạy các phi tần, rồi được tuyển làm phi: Tinh Phi (Sao Sa) và người ta quen gọi là "Bà Chúa Sao"

Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời. Khi mất, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm phúc thần.Năm 1625, quân  - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ vào rừng ẩn náu, bị quân lính bắt được. Mến tài, vua Lê và chúa Trịnh vẫn cho bà trông coi việc dạy học trong vương phủ...Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ xin về nghỉ nơi quê nhà.

Khi còn làm việc quan, bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài. Phần lớn ở các kỳ thi đình, thi hội; tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Mỗi tháng vài kỳ, bà cùng các bậc túc nho đến giảng dạy, ôn tập cho các sĩ tử. Ngoài ra, bà còn xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng tốt, cho canh tác lấy huê lợi, giúp đỡ học trò nghèo biết chăm chỉ.

Người ta còn truyền tụng câu chuyện: Thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại, nhưng khi vinh hiển, bà không hề nghĩ đến thù riêng.

Một lần dự cuộc vui, Nguyễn Thị Duệ quen được hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, bà thường cùng hoàng hậu đi lễ chùa, gặp các nhà sư thông tuệ, đạo hạnh; gặp gỡ các sĩ phu có tài, như Giang Văn Minh, Khương Thế Hiền...để hiểu rõ tình hình trong nước nhằm giúp vua, chúa kịp thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Do nhiều công lao, bà được thăng chức "Chiêu Nghi" hiệu là "Nghi Ái Quan".

Tuổi cao, Nguyễn Thị Duệ cáo quan về lại quê nhà, bà dựng am Đào hoa để có nơi đọc sách và bảo ban các sĩ tử trong làng.

Vua Lê giao cho bà số thuế hằng năm của tổng Kiệt Đặc để làm bổng lộc; chỉ dành một ít tiền chi dụng, còn bao nhiêu bà dành hết cho việc công ích và trợ giúp người nghèo.

Về sáng tác, theo Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (1697-?), thì: Văn thơ của bà rất nhiều, nhưng nay không còn bài nào. Bà có làm bài Gia ký bằng Quốc âm thuật lại các việc riêng và tự ví mình như Bạc Thị.

Bài Gia ký có mấy câu rằng:

Kém gì một chút đảo điên,

So le Bạc Thị vốn duyên Hán hoàng.

Nữ nhi dù đặng có lề

Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên.

Ghi công

Trên Website Phụ nữ Việt Nam viết:

Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Đó là Nguyễn Thị Duệ 

Danh sĩ Vũ Phương Đề khen ngợi bà là:

Lễ sư thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương (Công Dư tiệp ký)

Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ, trong đó có những câu:

Lạ thay nhất kính chiếu ba vương

Kiệt Đặc tinh phi vốn cố hương

Đẹp tuyệt trần gian thêm sắc sảo

Đỗ đầu thi Hội nổi văn chương

Mất còn truyện ấy thây dâu bể

Mến trọng ơn này, tự phấn hương

Gia ký hai câu còn để lại

Tháp hoa đầu núi mấy tinh sương

Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: "chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...". Ngoài ra tại thôn Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách (đất phong của bà, khi địa phương này thuộc huyện Chí Linh) cũng có đền thờ bà gồm có tượng và sắc phong từ hơn 100 năm của các triều đại phong kiến Việt Nam, hiện vẫn còn tồn tại.

Năm 2004, có tám vị đại khoa của Hải Dương là hiền tài của đất nước được đúc tượng đồng và khám thờ, trong đó có nữ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ. Bà được thờ cùng Khổng Tử tại hậu cung Văn miếu Mao Điền (Hải Dương). (https://vi.wikipedia.org)

Công trạng để đời

Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại.

Điều kỳ lạ, bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm đúng 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, bà thấy hay bèn tâu vua: "Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ". Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi.Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về bà. Năm Đức Long thứ 3 (vua Lê Thần Tông) bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ (1631), được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương. Có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có Nguyễn Minh Triết (sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân - PV) quê tại Hải Dương. Sau khi thi xong, quan giám khảo lọc ra các bài đỗ, trong đó có bài của Nguyễn Minh Triết.

Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta.

Là một vị quan thanh liêm, Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi. Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là  “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”.

Sinh thời, Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc hết. Về già, bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời. Sau khi mất, bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần.

Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...”. Tại đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng còn tượng “Bà chúa sao sa” và một sắc phong của triều đình để lại.  Trong Hậu cung Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương, bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.(http://quehuongonline.vn, 22/03/2011 )

6.10. Nguyễn Thị Niên (chữ Hán: 阮氏年, ? - 1600?)

Nguyễn Thị Niên người làng Canh Hoạch, phủ Thanh Oai nay là huyện Thanh OaiHà Nội. Giai nhân là con gái thứ ba của lão tướng Nguyễn Quyện, lấy võ tướng Bùi Văn Khuê. Do có chị là hoàng hậu của vua Mạc Mậu Hợp nên giai nhân thường hay ra vào cung cấm thăm chị. Nhìn thấy giai nhân, Mạc Mậu Hợp sinh lòng muốn chiếm đoạt, nên đã ngầm mưu giết Bùi Văn Khuê. Ai hay giai nhân biết được liền thông báo ngay cho chồng. Bùi Văn Khuê biết chuyện, bèn mang quân tự rút về Gia Viễn rồi sai con là Bùi Văn Nguyên chạy vào Thanh Hóa xin hàng nhà Lê. Trịnh Tùng nghe tin, bèn khởi binh ra cứu Bùi Văn Khuê nhân thể xử luôn nhà Mạc. Quân Mạc đại bại. Nguyễn Quyện cha bà cũng dự trận này và bị bắt, sau đó bị giết trong ngục cùng các anh em của Nguyễn Thị Niên. Không lâu sau, Mạc Mậu Hợp bị Trịnh Tùng bắt và chém, chấm dứt một đời đế vương.

Em vợ Trịnh Tùng là Nguyễn Hoàng giữ chức trấn thủ Thuận – Quảng, ra bắc cầm quân giúp nhà Lê đánh tàn dư họ Mạc. Năm 1600, Nguyễn Hoàng sợ bị Trịnh Tùng thanh trừng không cho về Nam, bèn bàn mưu với Bùi Văn Khuê cùng các tướng cũ của nhà Mạc là Phan Ngạn và Ngô Đình Nga dấy binh làm phản để mình có cớ đi dẹp mà bỏ trốn về nam.

Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn, Ngô Đình Nga đem quân phụ trợ theo họ Mạc, chiêu an các thành thị. Nhưng chỉ được ít lâu, Phan Ngạn nghi ngờ Bùi Văn Khuê có mưu khác, liền sai người bắn chết Văn Khuê ở giữa sông. Nguyễn Thị Niên nghe tin chồng bị hại, khóc bảo quân lính bản bộ của Bùi Văn Khuê rằng “Người nào dốc sức đền ơn, giết được Ngạn sẽ có trọng thưởng”Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn và Ngô Đình Nga dấy binh phản lại nhà Lê thật, trở lại giúp họ Mạc. Nguyễn Hoàng được cử đi dẹp, liền mang quân đến bờ biển, đốt hết doanh trại rồi trốn về Thuận Hoá.

Phan Ngạn nghe thế liền tức tốc đem quân đến sông Hoàng Giang đánh nhau để thị uy với người đẹp, ai hay đâu lại bị quân của người đẹp bắn chết ở giữa sông.

Đại Việt sử ký toàn thư sau đó không nhắc tới bà. Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn một thuyết nữa về việc giết Phan Ngạn và việc tự vẫn của Nguyễn Thị Niên sau khi báo thù cho chồng như sau:

Truyền thuyết ở đền Vực Vông tại quần thể di tích cố đô Hoa Lư, ngay bên dòng sông Hoàng Long, thuộc thôn Chi Phong - Trường Yên - huyện Hoa LưNinh Bình cũng kể về cái chết của Nguyễn Thị Niên sau khi báo thù cho chồng.Ngạn nghe biết Thị Niên sắc đẹp, sai người đi lại cùng thông tin ước hẹn kết duyên. Nguyễn Thị giả vờ nhận lời, bèn kén hơn mười người trẻ tuổi đẹp trai, ăn mặc giả làm con gái sung vào làm thị tỳ. Nguyễn Thị giao ước với bọn thị tỳ giả nếu ai giết được Phan Ngạn thì sẽ được trọng thưởng. Muốn để Ngạn khỏi nghi ngờ, Nguyễn Thị Niên hẹn: đêm hôm nào đó thị sẽ đi một chiếc thuyền lớn đến hội kiến. Ngạn hí hởn mừng. Đến kỳ hạn, Nguyễn Thị ăn mặc lộng lẫy, đi thuyền ngược dòng sông Hoàng Giang ra sông Nha Giang, Ngạn cho người thăm dò, thấy trong thuyền la liệt những gái đẹp, Ngạn yên tâm không nghi ngờ gì cả, bèn ra ám hiệu cho thuyền tuần tiễu đi nhanh, khi thuyền tuần tiễu sắp đến gần chỗ thuyền Nguyễn Thị thì dừng chèo ở giữa dòng sông. Điều khiển đâu vào đấy rồi, Ngạn mừng rỡ cuống quýt, cũng dùng một chiếc thuyền lớn đến để cùng Nguyễn Thị hội hợp. Sau khi Ngạn đã sang thuyền Nguyễn Thị, liền vẫy cho thuyền mình rút lui. Lúc ấy thị tỳ đứng hai hàng rót rượu. Khi cuộc rượu đang nồng nàn, thị tỳ rút dao ở trong tay áo ra chặt lấy đầu Phan Ngạn, rồi nhân đêm nước thủy trào xuống, gió thổi mạnh quay chèo trở về như bay, quân lính của Ngạn vẫn chưa biết có chuyện ấy. Khi về, Nguyễn Thị đem đầu của Ngạn làm lễ tế ở bàn thờ chồng, rồi dặn hai con đến hành tại An Trường (Thanh Hóa) quy thuận với vua Lê. Còn thị thì tự gieo mình xuống sông.

Theo truyền thuyết này, Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn đều là bộ tướng của Nguyễn Quyện và đều mang lòng yêu bà. Nhờ tài năng chinh phục được vực xoáy ở Vực Vông, cho người kê đá xoay lại dòng chảy thì không còn vực xoáy nữa, Bùi Văn Khuê được Nguyễn Quyện gả Nguyễn Thị Niên cho.

Phan Ngạn căm tức vì không lấy được Nguyễn Thị Niên, bèn vu cáo Nguyễn Quyện khiến Nguyễn Quyện bị mất chức và chính Phan Ngạn được lên thay. Sau đó Ngạn sai người ám sát Bùi Văn Khuê để mưu chiếm Nguyễn Thị Niên.

Để trả thù, Nguyễn Thị Niên cũng giả cách nhận lời lấy Phan Ngạn và dụ Phan Ngạn lên thuyền giữa sông Hoàng Long rồi giết Ngạn, như thuyết kể trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bà sai chặt đầu Phan Ngạn đem tế chồng. Sau đó, bà nhảy xuống sông tuẫn tiết.

Thi hài bà trôi dạt vào vực Vông. Thương tiếc và biết ơn bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ bà ngay cạnh đó và gọi là đền Vực Vông (https://vi.wikipedia.org)

6.11. Nguyễn Kỳ (chữ Hán: 阮琦, ? - ?), người làng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Hạ (nay là huyện Khoái Châu,Hưng Yên). Đỗ trạng nguyên khoa Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hoà thứ nhất (1541), đời Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải). Làm quan đến Hàn lâm thị thư.( https://vi.wikipedia.org /)

6.12. Nguyễn Ngọc Liễn tức Mạc Ngọc Liễn (chữ Hán: 莫玉璉, ?-1594) là đại thần nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, người xã Dị Nậu, huyện Thạch ThấtHà Nội,Việt Nam.

Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn Ngọc Liễn (阮玉璉), là con của Thái sư Tây quốc công Nguyễn Kính – công thần khai quốc nhà Mạc. Do cha con Nguyễn Kính có công lao lớn với nhà Mạc nên anh em Ngọc Liễn 3 người đều được ban họ vua. Mạc Ngọc Liễn đồng thời còn là phò mã nhà Mạc, chồng công chúa Mạc Kim Dung.

Mạc Ngọc Liễn lớn lên thời kỳ Đại Việt chia cắt Nam Bắc triều: phía bắc là nhà Mạc, phía nam từ Thanh Hoá là nhà Lê trung hưng.

Năm 1546Mạc Hiến Tông mất, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ 2 của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Nguyễn Ngọc Liễn cùng cha đứng về phía Mạc Kính Điển, dốc sức phò tá vua nhỏ Tuyên Tông, trường kỳ đánh bại Tử Nghi năm 1551.

Năm 1549, do công phò tá Mạc Phúc Nguyên, cha con Nguyễn Ngọc Liễn trở thành công thần hàng đầu ngoài hoàng tộc nhà Mạc, được cải sang họ vua. Mạc Kính làm thái úy Tây quốc công, Mạc Ngọc Liễn được phong làm Ngạn quận công.

Năm 1550, trong khi chưa dẹp xong Mạc Chính Trung thì trong triều lại xảy ra biến loạn khác. Thái tể Lê Bá Ly bất mãn với nhà Mạc, cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê. Năm 1552, cậu Ngọc Liễn là Nguyễn Khải Khang cũng mang quân sang hàng Lê.

Vợ Nguyễn Kính, mẹ Ngọc Liễn lại là con gái Nguyễn Thiến, chị của Nguyễn Khải Khang. Nhà Mạc bị tổn thất nặng về nhân sự, nhân tâm dao động, quân Lê-Trịnh thừa cơ hợp binh với chúa Bầu ở Tuyên Quang là Vũ Văn Mật tiến đánh. Ngọc Liễn cùng cha và anh là Hữu Mệnh vẫn tận lực giúp Mạc Kính Điển phò tá Mạc Tuyên Tông, đốc suất quân sĩ chống cự. Quân Lê-Trịnh không đánh nổi phải rút lui.

Tháng 8 năm 1557, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến chết. Anh em Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn bỏ trốn về hàng nhà Mạc, nhưng Khải Khang và Lê Khắc Thận không về. Tháng 9 năm 1558, nhà Mạc sai thổ dân ở Mỹ Lương trá hàng Khải Khang để dụ, rồi lừa bắt Khải Khang mang về. Mạc Tuyên Tông sai dùng hình xé xác Khải Khang. Năm 1549, khi Khải Khang còn ở bên Mạc cũng từng được ban họ Mạc và tước Thái úy Đoan quốc công. Lê Khắc Thận tới tháng 8 năm 1572 cũng lại chạy về phía nhà Mạc.

Tháng 1 năm 1575, Mạc Ngọc Liễn cùng Khiêm vương Mạc Kính Điển mang quân đánh Nam triều ở Thanh Hoá. Kính Điển đánh hai huyện Thuỵ Nguyên và Yên Định, Ngọc Liễn đánh hai huyện Đông Sơn và Lôi Dương. Cùng lúc đó Kính Điển sai cậu Ngọc Liễn là Nguyễn Quyện đánh Nghệ An. Tháng 8 năm 1575, trong khi Quyện đánh thắng quân Lê thì Vũ Sư Thước cùng cháu Nguyễn Khải Khang là Nguyễn Hữu Liêu lại đánh thắng quân Mạc. Kính Điển và Ngọc Liễn rút quân về.

Tháng 4 năm 1576, Mạc Ngọc Liễn lại cùng Mạc Kính Điển đánh Thanh Hoá lần nữa. Lần này Kính Điển đánh Thuỵ Nguyên còn Ngọc Liễn đánh Yên Định và lại chia quân cho Nguyễn Quyện đánh phá Nghệ An. Sau một thời gian đánh phá không chiếm được lại lui về.

Tháng 10 năm 1578, Mạc Ngọc Liễn mang quân đánh chúa Bầu Vũ Công Kỷ ở châu Thu Vật thuộc Tuyên Quang nhưng bị thua trận, phải lui binh.

Tháng 7 năm 1580, ông cùng Nguyễn Quyện và Hoằng quận công mang quân vào đánh phá ven biển Thanh Hoá một trận nữa.

Tháng 10 năm 1580, Khiêm vương Kính Điển mất. Đến mùa thu năm 1581, em út là Mạc Đôn Nhượng thay làm Phụ chính. Mạc Ngọc Liễn trở thành đại thần quan trọng bậc nhất nhà Mạc. Ông được phong Đà quốc công năm 1584. Tuy nhiên, Đôn Nhượng không đủ tài năng và uy tín như Kính Điển nên quân Nam triều dần dần chiếm ưu thế.

Tháng 10 năm 1587, chủ soái Nam triều là Trịnh Tùng mang quân bắc tiến, theo đường Thiên Quan và phủ Thiên Trường. Khi quân Lê tới Mỹ Lương, ông được lệnh cùng cậu Nguyễn Quyện chia quân ra cự. Ngọc Liễn ra Ninh Sơn đánh mang vào bên tả, Nguyễn Quyện ra đường Chương Đức đánh bên hữu. Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu cầm cự với Ngọc Liễn, Hoàng Đình Ái về giữ Thanh Hoá, còn đích thân Trịnh Tùng cự với Nguyễn Quyện. Ngọc Liễn đang cầm cự thì nghe tin Nguyễn Quyện bị bại trận, bèn rút quân về. Nhưng Trịnh Tùng sau khi đánh phá huyện Thạch Thất cũng không thể ở lại lâu, phải thu quân về Thanh Hoá.

Cuối năm 1589, Mạc Đôn Nhượng lại vào đánh Thanh Hoá nhưng thất bại. Trong khi đó, vua Mạc Mậu Hợp không chú trọng tới chính sự, nhà Mạc ngày càng suy yếu.

Cuối năm 1591Trịnh Tùng khởi đại quân đánh ra Bắc. Mạc Mậu Hợp huy động toàn quân Bắc triều hơn 10 vạn người, sai Mạc Ngọc Liễn giữ Tây đạo, Nguyễn Quyện giữ Nam đạo, tự Mậu Hợp cũng tham gia đi trung quân. Ngày 27 tháng 12 năm 1591, quân Mạc đi đến Phấn Thượng gặp quân Lê, cùng dàn trận. Mạc Ngọc Liễn bên phải, Nguyễn Quyện bên trái. Hai bên đánh nhau to từ hôm đó sang đầu năm sau, tới ngày 3 tháng giêng năm 1592, quân Mạc thua trận. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy sang Bồ Đề, để Mạc Ngọc Liễn và các tướng ở lại chống giữ.

Ông lĩnh quân bản bộ giữ từ cửa Bảo Khánh tới cửa Nhật Chiêu, Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê giữ từ Cầu Da tới Cầu Dền; Nguyễn Quyện giữ từ Mạc Xá sang phía Đông kinh thành.

Ngày 6 tháng giêng, hai bên hỗn chiến một trận ác liệt nữa. Trịnh Tùng tiến đến gò tập bắn (Giảng VõHà Nội) bày trận, chia đường cho các tướng tiến đánh. Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê thua trận bỏ chạy, Nguyễn Quyện đặt phục binh không kịp trỗi dậy nên bị bắt và tới ngày 4 tháng 11 nhuận năm 1593 chết trong ngục; Mạc Ngọc Liễn cô thế phải bỏ luỹ rút lui. Thăng Long thất thủ.

Tháng 3 năm 1592, Trịnh Tùng san phẳng thành luỹ Thăng Long rồi lại phải rút về Thanh Hoá.

Mạc Mậu Hợp trở về kinh thành lại hưởng lạc như cũ, định giết tướng Bùi Văn Khuê để chiếm vợ ông này là Nguyễn Thị Niên (con gái thứ ba của Nguyễn Quyện). Văn Khuê bèn sang hàng Nam triều. Sau khi đánh tan quân Nam đạo của Nghĩa quốc công nhà Mạc thì liên tiếp hơn 10 tưóng Mạc sang hàng Lê. Tình hình nhà Mạc ngày càng nguy cấp, khi đó trong triều chỉ còn trông cậy vào một mình Mạc Ngọc Liễn.

Ngày 14 tháng 11, quân Nam triều chia hai đường thuỷ lục cùng đánh từ Hát Giang. Mạc Ngọc Liễn dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới lòng sông, đắp luỹ trên bờ cố thủ. Sau đó luỹ bị quân Nam triều phá, ông bỏ thuyền chạy về núi Tam Đảo, quân Mạc tan vỡ. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy về Kim Thành (Hải Dương). Ngày 25 tháng 11, Trịnh Tùng đánh vào Kim Thành. Mạc Mậu Hợp thua trận bỏ chạy, không lâu sau bị quân Nam triều bắt sống và xử tử.

Biết tin Mạc Mậu Hợp thua trận, Mạc Ngọc Liễn bèn bỏ trốn, mưu lập tông thất nhà Mạc nối dõi khôi phục. Tháng 3 năm 1593, ông gặp được con Khiêm vương Kính Điển là Mạc Kính Cung ở Văn châu, bèn lập làm vua, lấy niên hiệu là Càn Thống.

Lúc đó nhân tâm phía bắc còn nhớ nhà Mạc nên nhiều vùng Hải Dương, Kinh Bắc, Thái Nguyên sau khi thất thủ lại nhanh chóng quy phục vua mới họ Mạc. Họ Mạc mang quân về đánh tới, lấy lại bờ bắc sông Hồng.

Ngày 21 tháng 3 năm 1593, Trịnh Tùng lại điều quân đi đánh. Các con Ngọc Liễn là Lập quận công, Đông Sơn hầu và Phù Cao hầu (Sử không chép rõ tên) thua trận đầu hàng nhà Lê, đến tháng 7 năm này lại trốn về theo Mạc. Lập quận công trốn không thoát bị giết.

Tháng 1 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn mang Mạc Kính Cung chạy về An Bắc.

Tháng 2 năm 1594, Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái đánh tới, quân Mạc thua trận. Mạc Ngọc Liễn cùng Kính Cung bỏ chạy sang phủ Tư Minh ở nhờ đất nhà Minh.

Tháng 5 năm 1594, Kính Cung cử ông làm thái phó, mang quân về chiếm cứ Yên Tử (Quảng Ninh) rồi đánh phá Vĩnh Lại. Trịnh Tùng sai Nguyễn Hoàng mang quân tới đánh. Quân Mạc thua trận, chạy sang đất Trung Quốc. Kính Cung chạy vào Long châu, còn Ngọc Liễn chạy về Vạn Ninh.

Tháng 7 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn ốm nặng, khi sắp mất ông để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung như sau:

Ông mất ngày 2 tháng 7 âm lịch năm đó. Sau khi ông qua đời, con ông là phò mã Đông Sơn hầu chạy sang Long châu, theo Mạc Kính Cung tiếp tục chống chính quyền Lê-Trịnh. Mạc Kính Cung và các vua Mạc sau tiếp tục làm theo lời dặn của ông, tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh để cát cứ ở đất Cao Bằng nhưng tuyệt nhiên không mượn quân Minh sang đánh nhà Hậu Lê.“"Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”

Một làng ở xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng mang tên là làng Đà Quận, tức là đặt theo chức Đà quận công của Mạc Ngọc Liễn. Nhân dân tại đây có dựng chùa Đà Quận để tưởng nhớ ông. Hội chùa Đà Quận diễn ra vào ngày 9 tháng giêng hằng năm.

Tương truyền thuở sinh thời, khi chiến tranh còn chưa ác liệt, Mạc Ngọc Liễn cùng vợ là công chúa Mạc Kim Dung đã đại tu Linh Tiên Quán (làng Cao Thượng, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) vào năm Giáp Thìn (1544). Đây là di tích gắn liền với tể tướng Lữ Gia nhà Triệu nước Nam Việt. Trước đây, Linh Tiên quán đã nhiều lần được sửa chữa nhưng tới lần tu sửa do ông thực hiện đã để lại cho đời sau một công trình văn hóa quy mô và bề thế bằng gỗ như ngày nay.

Ngoài ra, ông còn là người tu bổ đền Lũng ở Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) thờ Sĩ Nhiếp, người được xem là ông tổ Hán học ở Việt Nam. Đền Lũng được xây dựng quy mô to lớn từ khi Mạc Ngọc Liễn thực hiện, với 5 toà nhà liền nhau, hai bên tả hữu có lầu, phía trước là hồ nhỏ có cầu đá bắc qua, bên ngoài dựng Môn Lâu, ngoài nữa sát sông Dâu là Vọng Giang Lâu.

Trên địa bàn Thị xã Cao Bằng có Chùa Đà Quận thờ Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn

Nhận định: Mạc Ngọc Liễn xứng đáng là con của danh tướng Nguyễn Kính. Hai đời cha con ông phò tá cả 5 đời vua nhà Mạc, từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc một triều đại. Sau Mạc Kính Điển, có lẽ Mạc Ngọc Liễn là chỗ dựa lớn nhất của nhà Mạc thời hậu kỳ. Mạc Ngọc Liễn một đời tận trung với nhà Mạc, dù vật đổi sao dời vẫn không lay chuyển lòng trung. Do Mạc Mậu Hợp bỏ bê chính sự, làm hỏng cơ nghiệp của cha ông, Mạc Ngọc Liễn dù tận tâm cũng không thể cứu vãn.

Các sử gia ngày nay đánh giá rất cao lời thư trăng trối của ông. Về mặt chiến thuật với họ Mạc, đó là mưu kế “tẩu vi thượng sách”, phải tránh thế mạnh của kẻ địch. Chiến thuật đó là hợp lý đối với phe yếu như tương quan lực lượng giữa Lê và Mạc thời kỳ sau. Vua tôi họ Mạc nhờ theo kế của ông đã giữ Cao Bằng trong mấy đời, gần 100 năm nữa sau khi ông mất.

Nhà Mạc sau Thái Tổ và Thái Tông không có thêm vua giỏi, nhưng có các bầy tôi như Mạc Kính Điển, Mạc Ngọc Liễn cứu vãn hình ảnh nhà Mạc. Dù thua trận, mất quyền cai trị, nhà Mạc không cố giành lại ngôi vị bằng mọi giá. Đặt lợi ích của nhân dân Đại Việt lên trên lợi ích của mình.Nhưng lớn lao hơn, các sử gia nhìn nhận lời trăng trối của ông là lời dặn của người có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc. Trước đây thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung phải chấp nhận nỗi nhục trói mình hàng nhà Minh để tránh hoạ xâm lăng của phương Bắc (mà nhà Mạc nếu đương đầu khó tránh khỏi số phận như nhà Hồ) và dường như điều đó tác động lớn tới tư tưởng của Mạc Ngọc Liễn. Ông thấm thía bài học về hậu quả đô hộ, dù chỉ 20 năm (1407-1427) của nhà Minh trước đây, quá nặng nề cho đất nước. Suốt gần 200 năm từ khi nhà Lê thành lập tới khi trung hưng (1428-1593), binh hoả liên miên, các nhân vật cao cấp của các chính quyền cai trị chỉ say sưa chiến trận và bảo vệ quyền lợi của mình; nhưng trong đó đã loé sáng lời dặn của Mạc Ngọc Liễn. Trong quãng thời gian dài đó, sau Nguyễn Trãi, tới tận khi nhà Mạc mất mới lại có một đại thần biết lo tới nỗi thống khổ của nhân dân Đại Việt về nạn binh đao và hoạ ngoại xâm, biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích của mình.

Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: "Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử" có đoạn bình luận về lời trăng trối của ông:

Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng ĐạoTrần Bình TrọngĐặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn - nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc”.(https://vi.wikipedia.org/)

6.13. Nguyễn Lượng Thái (chữ Hán: 阮亮采, ? - ?), người xã Bình Ngô, huyện Gia Định, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trú quán xã Trạm Lộ (cùng huyện). Ông đỗ đệ nhất giáp đồng tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên), khoa Quý Sửu niên hiệu Cảnh Lịch thứ 6 (1553) đời Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lễ, kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Định Nham hầu. (https://vi.wikipedia.org).

 

 

Trích nguồn: Lịch sử họ Nguyễn Việt Nam NXB Hồng Đức xuất bản 2018

Thư viện ảnh