Video
Công đức
Giới Thiệu Chung

CHUYỆN NÚI BA VÌ – NÚI TỔ CỦA VIỆT NAM , NƠI NGỰ TRỊ CỦA ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN NGUYỄN TUẤN (Bài 1)

Ngày đăng: 26/03/2023
Tóm tắt:

CHUYỆN NÚI BA VÌ – NÚI TỔ CỦA VIỆT NAM , NƠI NGỰ TRỊ CỦA ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN NGUYỄN TUẤN (Bài 1)

Nội dung:

Theo https://vi.wikipedia.org/: Ba Vì là một dãy núi đất và đá vôi nhỏ, trải dài trên các huyện Ba VìThạch Thất của Hà Nội và thành phố Hòa Bình của tỉnh Hòa Bình. Đỉnh núi Ba Vì cao 1296m với ba chóp nhọn đặc trưng có thể quan sát được từ rất xa. Núi Ba Vì có tên chữ là Tản Viên (傘圓 - nghĩa là Tán Tròn) do nhìn từ xa, "hình núi tròn như cái tán" (trích Bắc Thành Địa dư chí của Lê Đại Cương).

Núi Ba Vì có ba đỉnh chính là đỉnh Vua, đỉnh Tản Viên và đỉnh Ngọc Hoa, lần lượt cao 1296 m, 1227 m và 1131 m.

Nổi tiếng nhất và có sự tích trong văn học Việt Nam là Đỉnh Tản Viên (còn gọi là Ngọc Tản, Tản Sơn, hoặc Phượng Hoàng Sơn). Đỉnh Vua hiện là điểm cao nhất của thành phố Hà Nội; trên đỉnh có đền thờ Hồ Chí Minh. Đỉnh Ngọc Hoa đặt theo tên của công chúa con vua Hùng thứ XVIII - tương truyền được gả cho Sơn Tinh.

Ngoài ba đỉnh trên, trong dãy Ba Vì còn có các đỉnh khác như Ngọc Lĩnh, Tương Miêu, U Bò, Núi Tre, Ghẹ Đùng, Trăm Voi,...

Ở chân núi phía tây của dãy Ba Vì có dòng sông Đà, phía đông có hồ nhân tạo Suối Hai dài 7 km, rộng 4 km với 14 đảo lớn nhỏ thực chất là những ngọn đồi nhô lên mặt nước.

Ba Vì còn là một khu du lịch sinh thái nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam với các điểm du lịch như Khoang Xanh-Suối Tiên, Ao Vua, Đầm Long, Thác Đa, hồ Tiên Sa, suối nước khoáng Tản Đà và các đền thờ. Ở các độ cao 400m và 600m còn có hai khu nghỉ mát được xây dựng từ thời Pháp thuộc.

Lịch sử: Dấu vết của con người đã xuất hiện ở vùng núi Ba Vì từ thời cổ đại. Theo các tài liệu nghiên cứu về khảo cổ học thì vùng đất xứ Đoài, nơi có núi Ba Vì còn rất nhiều các hiện vật bằng đá như rìu, bàn mài, chì lưới, mũi nhọn, bàn dập, hòn kè, giáo, đục, mũi tên, đồ trang sức và nhiều các hiện vật là đồ đồng, đồ gốm có niên đại từ thời văn hóa Sơn Vi, tồn tại qua bốn giai đoạn văn hóa kế tiếp nhau từ thời Phùng NguyênĐồng ĐậuGò Mun, đến Đông Sơn cách ngày nay hang nghìn năm. Tại di chỉ Phương Khê dưới chân núi Ba Vì, các nhà khảo cổ học đã tìm được hai chiếc trống đồng loại I tiêu biểu cho những thành tựu đúc đồng rực rỡ thời đại kim khí.

Núi Ba Vì là nơi xuất phát của rất nhiều phong tục và tín ngưỡng của người Việt thời cổ đại và phong kiến. Theo “Đại Việt sử ký”, đền thờ Tản Viên thánh trên đỉnh Ba Vì đã có từ thời .

Núi Ba Vì trong văn hóa của người Việt: Núi Ba Vì chiếm một vị trí quan trọng, không những về mặt địa lý mà còn có địa vị độc tôn trong tâm linh người Việt. Trong nhiều thế kỷ qua, nhiều sách vở, công trình nghiên cứu đã có một số kết luận về nền văn hóa dân gian xứ Đoài gắn với truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh liên quan đến núi Ba Vì.

Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang thời tiền sử) làm tâm điểm thì núi Ba Vì và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành "Thế tay ngai" trong luật phong thủy. Trên thượng nguồn thì ba con sông lớn là sông Đàsông Thao, và sông Lô đều đổ về đây. Ngã ba Bạch Hạc là nơi hợp thành của ba dòng sông ấy để rồi tụ thủy ở đầu sông Cái (sông Hồng), tạo dựng thành vùng châu thổ trù phú của đồng bằng Bắc Bộ ngày nay.

Ca dao có câu:

Nhất cao là núi Ba Vì

Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.

Sự thực núi Ba Vì chỉ cao 1.296 mnúi Tam Đảo lại cao đến 1.591 m, nhưng vì núi này là nơi ngự của Tản Viên Sơn Thánh - vị thánh đứng đầu trong Tứ bất tử, nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi cao ở đây là cao trong tâm thức, không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý (núi Độc Tôn là nơi ngự của Phù Đổng Thiên Vương - cũng là một vị trong Tứ bất tử, còn Tam Đảo là nơi ngự của Quốc mẫu Tây Thiên). Truyền thuyết kể lại rằng núi Ba Vì là do Sơn Tinh dùng sách ước nâng núi lên cao để ngăn nước lũ chống Thủy Tinh.

Trên núi có ngôi đền cổ thờ vị thần núi với đôi câu đối:

Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không

Hạo khí quan mang vạn cổ tồn

Có nghĩa là:

Dáng hình sừng sững ngang trời rộng

Hạo khí mênh mang vạn thuở còn.

Cả trong chính sử như sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng dành nhiều sự chú ý đến núi Ba Vì và cho rằng "Núi ấy là núi tổ của nước ta đó".

Theo sách Bắc Thành Địa dư chí của Lê Đại Cương chép: "Núi này ở huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai (nay là huyện Ba VìHà Nội). Hình núi tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng rãi bao la, đứng cao hùng vĩ, làm trấn sơn cho cả một vùng, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây có sông Đà chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cảnh trí đẹp".

Dưới triều Nguyễn, năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua truyền đúc Cửu Đỉnh làm biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của triều đình. Hình núi Tản Viên được khắc vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng 1.950 kg) cùng với cửa Cần Giờ và sông Thạch Hãn. Triều Tự Đức năm thứ 3, Canh Tuất (1850) thì núi Tản Viên được liệt vào hàng những núi non hung vĩ của đất nước. Hàng năm triều đình làm lễ cúng tế.

Ba Vì, Sơn Tinh và Xứ Đoài Sơn Tây

Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy Tinh mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Những phát hiện về khảo cổ học vùng văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng truyền thuyết lớn phát triển sớm trong lịch sử hình thành dân tộc. Đây là nơi ngự trị muôn đời của Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, vị thần tối linh trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Vua nhà Đường đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tới phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay). Để nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đã cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy) dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm tà triệt long mạch. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng của nước Đại Việt.

Quanh núi Ba Vì nhiều tên đất, tên làng, tên vạt đồi đồng nội, tên dòng sông, khe suốiđịa danhđịa hình, địa vật, đầm hồ, bờ bãi, đìnhđềnmiếu mạo và những con người còn in đậm trong sự tích và chuyện kể dân gian xứ Đoài gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh.

Những quả đồi Mòm, dẫy gò Choi thuộc vùng Tòng Lệnh, ở phía Bắc núi Ba Vì; những trái núi ở vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán; những hòn núi Chẹ và dãy nũi đá Chèm ở phía Tây thuộc mạn Sông Đà; những dãy đồi Máng Sòng, Đồi Giếng ở phía Đông núi Ba Vì là những chiến tích của Sơn Tinh, ngày đêm gánh đất để lập thành phòng tuyến chống lại Thủy Tinh. Về sự tích "Đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt". Chuyện xưa kể lại rằng đồi Vai cao nhất ở xã Kim Sơn là tảng đá rơi vì sọt thủng, còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều trên dọc con đường Sơn Tinh gánh đất. Chuyện cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt mây thành rừng quanh núi U bò, ném lạt tre tạo thành lũy tre dày ở vùng ngòi lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống tạo thành mười sáu ngả ở vùng Đầm Đượng v.v… là những phương kế của Sơn Tinh.

Trên bãi chiến trường xưa còn có nhiều dấu tích như suối Di, sông Tích, ngòi Tôm, đầm Mom, đầm Mít, đầm Sui, xóm Rùa, xóm Cá Sấu ở Vân Sơn xã Vân Hòa; thôn Rắn Giải ở Phụ Khang thuộc xã Đường Lâm; Thuồng Luồng ở Cầu Hang vùng sông Tích thuộc xã Thanh Mỹ; Thủy quái ở Ghềnh Bợ trên dải sông Đà… là những trận đồ tàn binh, bại tướng của Thủy Tinh.

Những truyền thuyết dân gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh chứng tỏ tổ tiên ta đã bắt đầu cuộc trị thủy mở mang bờ cõi từ hạ lưu sông Đà, sông Tích để tạo ra một vùng núi Ba Vì trù phú như ngày nay.

Khu vực quanh núi Ba Vì hiện có gần 100 ngôi đình, đền thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như đền Trung, đền Hạ, đền Thượng, đền Đá Đen, đền Vật Lại, đền Măng Sơn, đền Khánh Xuân, đình Yên Nộiđình Tây Đằng, đình Mỗ Lao, đình Quất Động, đình Đông Viên, đình Quan Húc, đình Phú Thứ, đình Thanh Hùng, đình Thụy Phiêu v.v…

Hà Nội, ngày 26/3/2023

Người sưu tầm: Ts. Nguyễn Văn Kiệm

 

Trích nguồn: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM

Thư viện ảnh