Video
Công đức
Sách: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM (NXB VH - TT XB 2014)

CHƯƠNG I: ÔNG TỔ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM: ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN NGUYỄN TUẤN

Mỗi dân tộc cũng như mỗi dòng họ đều xác định ông tổ của dân tộc hay dòng họ mình. Dân tộc Việt Nam tôn vinh vua Hùng Vương là ông tổ theo truyền thuyết “Con Rồng cháu Lạc” và lấy đó là niềm tự hào của dân tộc Việt.

Họ Nguyễn Việt Nam có thể có nhiều người mang họ Nguyễn từ thời trước vua Hùng. Nhưng theo truyền thuyết:”Tản Viên Sơn Thánh” thì Sơn Tinh người con rể vua Hùng Vương thứ 18 là một vị Thánh mang họ Nguyễn. Vậy nên Hội người họ Nguyễn Việt Nam đã tôn vinh đức thánh Tản Viên-Nguyễn Tuấn là ông tổ họ Nguyễn Việt Nam với một niềm tự hào và tôn kính.

Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) được coi là vị đệ nhất phúc thần của nước Việt, đứng đầu trong tứ bất tử. (tứ bất tử: Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh mẫu Liễu Hạnh). Tản Viên Sơn Thánh là con ông Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh Thị Đen quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Như vậy Thánh Sơn Tinh là người mang họ Nguyễn. Một người không chỉ có trong truyền thuyết mà còn là người có thật, có cha, có mẹ có nơi chôn rau cắt rốn.

1.1. Núi Tản Viên

Theo Lĩnh Nam chích quái về truyện núi Tản Viên (Văn thư lưu trữ mở Wikisource 2012). Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm trượng. Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên Tản. Theo sách Ai giao châu tự của Đường Tăng thì Đại Vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Lần theo thần tích Việt và thần thoại Trung Hoa, sẽ cho câu trả lời về phép thần của Sơn Tinh và long mạch của núi Tản. Cao Biền nhà Đường muốn yểm những nơi linh tích của Nam Việt bằng bùa phép. Biền đem thuật bùa để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương (Tản Viên) cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng: "Linh khí ở phương Nam không thể lường được”.

Theo sách “Bắc – Thành Địa dư chí” của Lê Đại Cương (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tháng 2/2012): “ Núi này ở huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Hình núi tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng rãi bao la, đứng cao hùng vĩ, làm trấn sơn cho cả một vùng, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây có sông Đà chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cảnh trí đẹp”. Tại Đền Và thờ Thánh Tản Viên (Sơn Tinh) có đôi câu đối:

Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không

Hạo khí quan mang vạn cổ tồn

Có nghĩa là:

Dáng hình sừng sừng ngang trời rộng

Hạo khí mênh mang vạn thuở còn.

Dưới triều Nguyễn, năm Bính Thân, Minh mạng thứ 17 (1836) đúc “ Cửu Đỉnh” biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của nhà nguyện. Minh Mạng cho chạm hình núi Tản Viên vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng 1.950 kg)

Nhất cao là núi Ba Vì, Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.Núi Ba Vì chiếm một vị trí quan trọng, không những về mặt địa lý mà còn có địa vị độc tôn trong tâm linh người Việt, trong sách “ Dư địa chí” Nguyễn Trãi viết : “Núi ấy là núi tổ của nước ta đó”.

Sự thực núi Ba Vì chỉ cao 1.296m, núi Tam Đảo lại cao đến 1.581m, nhưng vì núi này là nơi ngự của Thần núi (thần Tản Viên), nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi cao ở đây là cao trong tâm thức, không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý.

Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy Tinh mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Vua nhà Đường đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tới phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay).

Truyền tích núi Ba Vì(Wikipedia tháng 2/2012) Núi Ba Vì là ngọn núi thần kỳ, là một trong những ngọn núi cổ nhất của nước Đại Việt. Những phát hiện về khảo cổ học vùng văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng truyền thuyết lớn phát triển sớm trong lịch sử hình thành dân tộc. Núi Ba Vì còn là nơi ngự trị muôn đời của Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, Ngài là vị thần tối linh trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Khu vực núi Ba Vì hiện có gần 100 ngôi Đình, Đền thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như Đền Trung, Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Đá Đen, Đền Vật Lại, Đền Măng Sơn, Đền Khánh Xuân, Đình Yên Nội, Đình Tây Đằng, Đình Mỗ Lao, Đình Quất Động, Đình Đông Viên, Đình Quan Húc, Đình Phú Thứ, Đình Thanh Hùng, Đình Thụy Phiêu

1.2. Sơn Tinh là con họ Nguyễn

Theo các thần tích vùng Sơn Tây, Vĩnh-Phú thì Tản Viên Sơn Thánh là người ở động Lăng Xương (Thanh Thủy – Phú Thọ ngày nay), tên là Nguyễn Tuấn, con ông Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh Thị Đen. Khi lớn lên nhận bà Ma Thị Cao Sơn ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi.

Động Lăng Xương và truyền tích sinh Thánh Tản Viên

Nói đến thánh Tản Viên (hay còn gọi Sơn Tinh), ta dễ tưởng tượng đến một vị thần với tài phép khôn lường, đã chiến thắng Thủy Tinh trong cuộc đua để lấy con gái vua Hùng. Tuy nhiên, tại một ngôi đền ở Phú Thọ có một cuốn Ngọc phả, trong đó viết rõ ràng Sơn Tinh là một người có thật, nhân thân rất rõ ràng.

Nằm phía bên kia sông Đà, về phía huyện Thanh Thủy, Phú Thọ có một ngôi đền mà theo Ngọc phả, chính là ngôi đền đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Ngôi đền có tên là đền Lăng Sương, hiện nằm ở xã Trung Nghĩa, Thanh Thủy, Phú Thọ.

Theo Ngọc phả đền Lăng Sương: Đền đặt trên nền đất cũ nơi thánh Tản Viên sinh ra và lớn lên. Ông Tăng Văn Tuất, một trong ba thủ nhang của đền cho biết: “Mọi người thường lầm tưởng thánh Tản Viên là trong truyền thuyết nhưng ngọc phả còn lưu ở đây cho biết ngài là một người có thật, tên là Nguyễn Tuấn. Thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là Đinh Thị Đen, vốn là những người tu nhân tích đức nhưng hiếm muộn con cái.

Một hôm mẫu Đen (Cách người dân ở đây gọi những bậc sinh thành ra thánh Tản Viên một cách kính trọng) ra giếng gánh nước thì gặp rồng vàng phun châu nhả ngọc. Mẫu gánh nước về tắm thì đột nhiên mang thai. Người thường chỉ mang thai 9 tháng nhưng mẫu mang thai đúng 14 tháng mới sinh. Đến thai kỳ thì sinh được một con trai có tướng mạo khôi ngô, đặt tên cho là Nguyễn Tuấn”. 

nước nên in thành vết. Độ sâu của giếng chỉ khoảng 3 đến 4m. Tuy vậy, ông Tuất cho biết rằng chưa bao giờ giếng này cạn nước: “Như năm 1954, ở khu vực xung quanh đại hạn, ruộng đồng rồi ao hồ đều cạn nước mà giếng nước này vẫn có nước, nước vẫn trong. Không rõ là có mạch nước ở đâu mà như vậy”.Ngày nay, trong khuôn viên ngôi đền vẫn còn di tích cái giếng và phiến đá bên miệng giếng có in dấu chân người Việt cổ. Tương truyền rằng những dấu vết đó là dấu ấn do mẹ Nguyễn Tuấn thường ngồi trên phiến đá cúi xuống lấy

Cũng theo ngọc phả, Nguyễn Tuấn sau này lấy con gái Hùng Vương và được truyền ngôi vua. Nhưng đến năm Đinh Thìn thì ngài nhường ngôi cho Thục Phán An Dương Vương để lập ra nước Âu Lạc. Nhờ những công lao trị thủy và hộ quốc an dân, sau khi ngài hóa, nhân dân thờ phụng và tôn làm Tản Viên Sơn Thánh, đứng đầu trong bộ Tứ Bất Tử của người Việt.

Ngày nay, truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh đã đi vào tiềm thức của hàng triệu người Việt qua đường truyền miệng hoặc qua sách giáo khoa tiểu học.

Ở đền Lăng Sương, tiền đường đặt thờ ba pho tượng. Pho tượng lớn chính là hiện thân của mẹ ngài, bà Đinh Thị Đen; hai bức tượng ngồi là hiện thân của ngài – thần Sơn Tinh và vợ ngài – công chúa Mị Nương. Ban thờ bên phải là ban thờ cha ngài; ban bên trái là thờ Dưỡng mẫu của ngài – bà Ma Thị Cao Sơn.

Hàng năm cứ vào dịp xuân về, nhân dân đến chiêm bái khu di tích Tản Viên thì đều qua sông sang đền Mẫu Lăng Sương để dâng hương lên đức thánh Mẫu. Bên ngoài cửa đền còn lưu giữ nhiều dấu tích của bà trong kỳ sinh nở. Dấu chân, dấu tay, của bà còn hằn sâu trên trên phiến đá, cho thấy sự đau đớn, vất vả của người mẹ khi sinh con.

Theo xuanthu.vnweblogs.com Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống các di tích thờ Tản Viên vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thờ Tản viên Sơn Thánh là một trong bốn vị thần "tứ bất tử" của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần "Thượng đẳng tối linh", "Đệ nhất phúc thần" đứng đầu "Tứ bất tử" trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt. Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Thánh Tản. Đây có thể coi là mảnh đất "chôn nhau, cắt rốn" của vị thần linh tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu - người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước... làm nên bản sắc của văn hóa tâm linh Việt Nam. Vì vậy, người Mẹ được thờ tự ở vị trí rất trang trọng ở đền Lăng Sương.

Theo các tư liệu còn lưu giữ tại Đền, đền Lăng Sương được xây từ thời Thục An Dương Vương. Đến đời Lý vào năm 1011, đời Lê được trùng tu. Năm Thiệu Trị thứ 7 thời Nguyễn (1847) ngôi đền được tu sửa lớn. Năm Tự Đức nguyên niên (1848) khắc bia đá lưu truyền cho hậu thế. Trải qua mưa nắng và giặc giã, ngôi đến bị hư hỏng nhiều. Năm 1991, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn tạo đến Lăng Sương trên khu đất rộng với diện tích 3.000 mét vuông, bao gồm các công trình: cổng đền, miếu Hai Cô, giếng Thiên Thanh, nhà bia, nhà võng, tả mạc, hữu mạc và lăng thánh Mẫu.

Cổng đền có đôi câu đối "Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch/ Địa lưu thần tích hiển Nam bang" (tạm dịch: Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc/ Đất lưu thần tích hiến Thánh trời Nam). Và "Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần/ Bả thác long linh giáng hạ trần" (tạm dịch nghĩa: Lăng Sương ngọc sáng, ngọc tinh thần/ Mang dấu rồng thiêng xuống hạ trần).

    Qua cổng Đền là miếu Hai Cô (còn gọi là miếu Nhà Bà) thờ Bạch tinh thần nữ là thần giữ đất cùng hai người hầu là Đào Hoa và Quế Hoa. Sau miếu, về phía tây là giếng Thiên Thanh quanh năm có nước, trong vắt, nhìn thấy tận đáy. Cạnh giếng Thiên Thanh là nhà bia được xây theo kiểu kiến trúc nhà 4 mái, trong đặt tấm bia khắc năm Tự Đức nguyên niên (1848) ghi công đức của những người có công tu sửa lại đền. Trước sân đền chính là nhà võngTương truyền là nơi Tản Viên lúc còn nhỏ thường nằm võng. Trong nhà có một chiếc võng phủ vải đỏ, gọi là võng đào. Đặc biệt có 8 cột đá cao 2,1 m được xây vào thời Lê. Ở giữa nhà võng đặt một chậu bằng đá xanh hình vuông, tương truyền là chậu đá để Tản Viên tắm khi còn nhỏ. Trên chậu đá có đặt một bòn đá tương truyền khi Thánh Mẫu sinh Tản Viên xong đã dùng để chèn bụng.

Đền chính có kiến trúc kiểu chức công (I) gồm 3 gian đại bái, ống muốn và 3 gian hậu cung. Trong tòa đại bái có xây bệ thờ tượng Cao Sơn và Quý Minh là bộ tướng có công giúp Tản Viên dẹp giặc Thục. Tòa hậu cung bài trí long ngai thờ Thánh Mẫu Đinh Thị Đen (mẹ của Tản Viên) và thờ đức Thánh Tản. Trong tòa hậu cung còn thờ Thánh phụ Tản viên là ông Nguyễn Cao Hanh, bà dưỡng mẫu (mẹ nuôi) là Ma Thị và công chúa Ngọc Hoa (vợ Tản Viên). Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía đông bắc, tương truyền có ngôi mộ của Thánh Mẫu nay ở đó đã được xây thành lăng tẩm.  

Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản). Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25 tháng mười hôm sau. Còn ngày giỗ chính của đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội. Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt xa xưa.

Trong lễ hội chính rằm tháng giêng hàng năm, đoàn rước có 100 thanh niên trai tráng rước 3 kiệu (kiệu rước hoa quả, kiệu rước nước, kiệu rước lư hương), 8 người khiêng một kiệu (bát cống), có phường bát âm, múa lân tưng bừng rộn rã. Dân làng hòa vào đoàn rước kín chật đoạn đường gần cây số từ đền ra sông. Khi về đến Đền, sau lễ tế chính, 8 dòng họ trong xã lần lượt vào tế. Cuối cùng là du khách thập phương vào thắp hương bái lễ cầu cho một năm mới an lành, phát đạt. Đội rước tế Lăng Sương đã đạt giải nhất cuộc thi rước tế tỉnh nhân dịp kỷ niệm 115 năm thành lập tỉnh Phú Thọ.

Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương Đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy...

Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày 12/7/2005 xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

1.3.Truyền Thuyết Sơn Tinh-Thuỷ Tinh

Thuở ấy, vua Hùng Vương thứ 18 có một cô con gái rất xinh. Vua muốn chọn chàng rể vừa hiền, vừa tài, nên truyền lệnh mở hội kén rể. Trai tráng khắp nơi nô nức kéo về kinh đô thi tài. Đã mấy ngày qua, biết bao nhiêu chàng trai tuấn tú, võ nghệ tài ba lần lượt ra trổ tài, nhưng vẫn chưa được nhà vua ưng chọn. Vua đã hơi thất vọng thì bỗng nhiên có hai người cùng một lúc tiến vào xin thi tài, một người tên là Sơn Tinh, còn người kia tên là Thủy Tinh. Vua truyền cho hai người cùng trổ tài. Lời vua truyền vừa dứt, Thủy Tinh đã vội ra oai, gây sấm sét đùng đùng, mây tuôn gió nổi, bốn bề nước đổ, trời đất tối tăm. Cả một vùng đất rung chuyển, thật là rùng rợn. Đến lượt Sơn Tinh liền khoan thai vẫy tay hóa phép dời núi, đổ cây, phá rừng vung đất chống lại trận nước dâng lên của Thủy Tinh. Sơn Tinh giơ gậy thần chỉ bốn phương, lập tức cảnh vật trở lại bình thường, trời trong, sông lặng, cây cỏ xanh tươi.

Vua Hùng thấy hai người cùng tài giỏi không biết nên gả con gái cho ai. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi phán rằng:

- Sơn Tinh và Thủy Tinh đều tài giỏi cả. Nhưng muốn lấy công chúa thì phải có lễ vật ra mắt ta. Vậy rạng sáng mai, ai đem của lạ vật quý đến trước, ta sẽ gả con gái cho người ấy.

Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến dâng vua, lễ vật của Sơn Tinh có voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao và bao nhiêu vàng bạc, châu báu. Vua Hùng giữ lời hẹn gả công chúa cho Sơn Tinh.

Thủy Tinh cũng đem ngọc châu, đồi mồi, san hô, bao giống tôm cá quý đến dâng vua. Nhưng Thủy Tinh đến chậm quá. Sơn Tinh đã rước công chúa về núi mất rồi.

Thủy Tinh không lấy được công chúa nổi giận dâng nước lên bao vây núi. Suốt ngày đêm, đất trời đen tối, mưa gió mịt mùng, đồng ruộng, đất đai ngập nước. Sơn Tinh bình tĩnh tìm cách chống trả lại Thủy Tinh. Nước dâng cao bao nhiêu thì Sơn Tinh lại hóa phép làm cho núi dâng cao lên bấy nhiêu. Quân của Sơn Tinh từ trên núi ném đá tới tấp xuống nước làm cho quân lính của Thủy Tinh chết rất nhiều. Xác cá, xác ba ba, thuồng luồng… nổi đầy mặt nước.

Là người Việt, ai cũng thông thuộc truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, Truyền thuyết vua Hùng kén rể gả công chúa Mỵ Nương cho Sơn Tinh đã được đề cập trong rất nhiều sử liệu như Đại Việt sử kí toàn thư, Lĩnh Nam chích quáiViệt sử diễn âm,Thiên Nam ngữ lụcĐại nam quốc sử diễn ca và nhiều thần tích thần phả...

Ấn tượng sâu đậm nhất mà truyền thuyết này để lại là cuộc chiến khốc liệt do Thủy Tinh – vị thần có tài hô mưa gọi gió tiến hành để giành lại nàng Mỵ Nương từ tay Sơn Tinh - vị thần cai quản dãy núi Ba Vì.

Sức mạnh bão tố của Thủy Tinh ghê gớm đến mức phá tung cả những dãy gò đồi ở phía Bắc Ba Vì tạo thành suối Di, kể cả ruộng đồng ở phía Đông núi cũng thành sông Tích, húc nghiêng cả hòn Chàng Rể án ngữ phía Tây dãy Ba Vì, đến nỗi trái núi này bây giờ vẫn còn gù lưng, gây ra vô vàn thiệt hại khiến nhân dân khốn khổ…

Sơn Tinh nghĩ ra trăm phương nghìn kế để đối phó như việc cắm chông ở bãi Đá Chông, thả rong rào, giăng lưới ở vùng Suối Cái, cho quân gieo hạt thành rừng xung quanh ngọn U Bò, ném lạt tạo thành lũy tre dày ở vùng Ngòi Lạt…, nhờ vậy mới đánh bại được Thủy Tinh.

Dù bị đánh bại nhưng Thủy Tinh không chịu bỏ cuộc, hàng năm lại làm mưa gió để đánh ghen Sơn Tinh, làm nước ngập mênh mông khắp đồng ruộng. Và lần nào Thủy Tinh cũng thua, phải rút quân về.

Cuộc chiến chống Thủy Tinh của Sơn Tinh và muôn loài phản ánh lịch sử tự nhiên của một đất nước lưng dựa vào núi, mặt hướng ra biển, quanh năm chống thiên tai địch họa. Thánh Tản Viên là biểu tượng của lòng tin cậy vào sức mạnh thiêng liêng, vào đức nhân nghĩa, tin vào cái thiện thắng cái ác, nỗ lực sinh tồn của con người

Trở lại câu chuyện về Nguyễn Tuấn, đến năm Tuấn lên 12 tuổi thì mẹ là bà Đinh Thị Đen cũng qua đời. Cùng năm đó người chú và thím ruột của Tuấn cũng qua đời để lại hai người con trai còn nhỏ tên là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển. Hàng ngày ba anh em vẫn bơi qua sông, lên núi Tản Viên kiếm củi nuôi thân. Đến mùa nước lên, ba anh em không thể qua sông kiếm ăn, vì thế họ quyết định chuyển hẳn nhà sang chân sườn núi Tản để ở

Ba anh em Nguyễn Tuấn lập nhà dưới chân sườn núi, hàng ngày lên núi kiếm củi, khai hoang. Một ngày, ba anh em được một người phụ nữ trên núi nhận làm mẹ nuôi – bà tên là Ma Thị Cao Sơn. Bà đã truyền dạy cho 3 anh em họ Nguyễn các chú thuật và phép thiền định. Ba anh em tiếp thu rất nhanh, không chỉ giỏi các chú thuật mà ba anh em còn được học các môn như binh pháp, y pháp và các nghề thủ công, đặc biệt là việc trị thủy, trồng lúa nước và nuôi tằm dệt lụa. Dấu vết của nghề dệt lụa vẫn còn được lưu giữ tại làng Cổ Đô dưới chân núi Ba vì... Trải qua 6 năm học tập chuyên cần, ba anh em họ Nguyễn đã tới lúc trưởng thành. Một hôm bà Ma Thị cho gọi ba anh em lên mà dặn rằng: “Nay các con đã trưởng thành, các pháp ta cũng đã dậy xong, núi này thuộc Kim Sơn, nguồn dương khí chốn trời Nam, rất thích hợp cho các con cư trú. Còn ta sẽ về Hương sơn để khai tràng thuyết pháp. Nay các con là đệ tử của ta, phải khuông phù đạo ta, chăm lo cho dân, giữ cho dân chúng trời Nam được hưởng thái bình”. Nói rồi bà bay đi. Kể từ đó, ba anh em chuyên tâm chăm lo, dạy dỗ dân chúng, chữa bệnh, dạy học cho dân, được dân kính trọng và tôn 3 anh em ngài lên làm Thủ Lĩnh, cai quản dãy núi Ba Vì.

Theo thần tích đền Và, phép thuật của Tản Viên bắt đầu từ việc đi chặt cây trên núi Tản gặp Thái Bạch Thần Tinh, được truyền cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử.

Truyền thuyết kể rằng: Ba anh em Nguyễn Tuấn vào rừng kiếm củi, một hôm chặt một cây to mãi không đổ trời tối nên đành để lại hôm sau ra chặt tiếp. Ngày hôm sau ra thấy cây chặt hôm trước lại liền như chưa bị chặt. Thấy lạ Nguyễn Tuấn chặt tiếp và tối đó không về nhà mà ngồi ở gốc cây gần đó, nửa đêm thấy xuất hiện một ông lão râu tóc bạc phơ cầm cây gậy chỉ vào cây Tuấn chặt nói gì không rõ. Bỗng nhiên cây được lành lại như cũ. Nguyễn Tuấn chạy ra vái lạy: “Xin cụ tha cho vì con nghèo lên đây kiếm củi nếu cụ cho liền cây lại thì chúng con sẽ không có củi kiếm ăn”. Cụ già đó chính là Thái Bạch Thần Tinh thấy Tuấn khôi ngô, thật thà bèn trao cho Tuấn cây gậy đó, đó chính là cây gậy thần đầu sinh đầu tử, chỉ cho cách dùng và câu thần chú để Tuấn đi cứu người.

Một hôm ngài thấy lũ trẻ chăn trâu đánh chết một con rắn to, trên đầu có chữ vương nên biết là rắn lạ, liền dùng gậy thần gõ vào đầu rắn làm rắn sống lại, rắn hồi sinh bò xuống sông đi mất. Vài hôm sau, một chàng trai xuất hiện đem vàng bạc châu báu tới biếu ngài xưng là Tiểu long hầu, con Nam Hải Long Vương, mải đi chơi trên trần chẳng may bị bọn trẻ con đánh chết, Tiểu long hầu được thánh Tản cứu sống nên tới tạ ơn. Ngài nhất định không nhận đồ biếu nên Tiểu long hầu mới biếu ngài một cái ống linh tê có thể rẽ sóng xuống thăm Thủy cung. Ngài nhận lời xuống thăm Long cung, Long Vương gặp ngài mừng rỡ mở tiệc 3 ngày khoản đãi, trước khi ra về Long Vương tặng gì ngài cũng không nhận, sau Long Vương mới tặng ngài một cuốn Sách Ước, ước gì được nấy. Từ đó trở đi, thánh Tản trở thành vị thánh thượng đẳng, không thánh thần nào sánh được. Ngài hóa thân quanh vùng tế độ dân gian, giúp dân diệt trừ yêu quái. 

Truyền thuyết cũng kể rằng sau khi lấy được công chúa Mỵ Nương, là con rể của vua Hùng Vương thứ 18, (hiệu là Hùng Huệ Vương). Biết chàng là người có tài, có đức qua việc đánh thắng Thủy Tinh và quân Thục. Hùng Vương đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho đi du ngoạn khắp nơi để giúp dân. Sự đức độ của Ngài còn được thể hiện qua việc đánh Thục Phán.  Khi quân của Thục Phán tiến vào Phong Châu thì thế trận của Sơn Tinh cũng bày đặt xong. Ý định của Sơn Tinh là đánh cho Thục Phán một trận thua nhớ đời, không còn bao giờ dám đem quân tới xâm lấn nữa. Vì vậy, chàng đã không mở sách ước và gậy thần ra, bởi vì nếu không, Thục Phán và quan quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi. Nhờ tài binh của Sơn Tinh, cuộc chiến tranh Hùng Thục chấm dứt, Thục Phán phải cầu hòa, từ đấy vĩnh viễn từ bỏ ý đồ xâm lược.

Sơn thánh Tản Viên là người vì dân, hết lòng lo cho dân. Khi vua Hùng già yếu, Nguyễn Tuấn vốn bản tính không thích làm vua mà chỉ muốn sống cuộc đời dân giã nên đã khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán để tránh cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt. Để ghi nhớ công ơn của Sơn Tinh, và cũng để tỏ lòng biết ơn vua Hùng nhường ngôi cho mình, An Dương Vương đã cho lập ở Nghĩa Lĩnh (trước đền thờ Vua Hùng) một cột đá thờ rất lớn, rồi tới các ngày tuần tiết, đều tự đến đây thắp đèn hương dâng lễ vật và đọc lời thề nguyện. 

Hiện nay ở các cung điện cũ của thần Tản Viên đều có nhắc đến 2 bảo vật gậy thần sách ước trên. Câu đối ở đền Và (Đông Cung) ở thôn Vân Già, Sơn Tây:

Tiên trượng ước thư truyền dật sử

Đông cung Tây trấn ngật linh từ.

Dịch:
Gậy thần sách ước dã sử truyền

Cung Đông trấn Tây đền linh tỏ

Hay câu đối khác cùng một ý tại đền Và:

Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ Đông cung Tây trấn
Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, túc kim dục đắc kỳ thuật, diêu hô tiên trượng ước thư.
Dịch:
Thần linh thiêng, đất linh thiêng, vĩ nhân linh thiêng, Cung Đông trấn Tây cao ngất

Núi thành thuật, sông thành thuật, đạo đức thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ.

Dù là truyền thuyết gì cũng đều nói lên đức Thánh Tản Viên có xuất thân từ một người áo vải như bao người dân bình thường khác nhưng có trí dũng song toàn và hết lòng vì dân, vì nước.

Đức thánh Tản Viên là một trong bốn vị thần "bất tử" trong thần thoại Việt Nam. Người đã đi khắp mọi nơi dạy dân làm ăn sinh sống.

Dạy dân làm ruộng và mở hội: Ở xã Liệt Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Tây, đất đai màu mỡ nhưng bị ngập nước. Thần đưa ra một nắm hạt giống, dạy cho mọi người cách chọn, cách gieo. Khi mạ lên xanh, thần nhổ lên đem trồng ở các bãi phù sa. Thần xuống cấy để cho mọi người bắt chước rồi thần từ biệt ra đi. Khi lúa chín, thần quay trở lại dạy cho dân làng cách múa hát và dặn cứ thu hoạch xong thì mở hội như thế mà mừng được mùa. Text Box: Nghi môn đền Và (Đông cung) (ảnh www.google.com.vn)


Dạy dân làm ra lửa: Ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây lúc ấy đang sống trong cảnh tối tăm, lạnh lẽo. Dân chưa có lửa mà cũng không biết lấy lửa vì nơi đây còn là đất hoang, cây cối mọc thành rừng. Đêm nằm Sơn Tinh nhìn thấy những bụi dang, bụi nứa khô hanh gặp gió núi, cọ sát vào nhau và tự bật ra lửa. Hôm sau, Sơn Tinh đã gọi một cụ già thổ dân lại và cùng với ông già lấy hai ống dang già cọ sát vào nhau và lấy nắm rơm rạ để châm lửa. Lửa có từ ngày đó. 

Dạy dân săn bắn: Ở núi Ba Vì (Tản Viên) lúc bấy giờ có một đám đông chạy theo con thú ném đá, quăng lao, hò reo đuổi bắt nó mãi mà không được. Sơn Tinh liền gọi mọi người lại dạy cho cách săn bắn. Thần chỉ cho cách làm hầm gài tên, căng lưới để vây các loại thú. Phường săn biết dùng lưỡi đi săn từ đấy.

Dạy dân kéo vó: Một lần đi qua vùng sông Hồng nước mênh mông, thấy dân chúng chỉ biết mò cá và úp cá, rất vất vả, Sơn Tinh bày cách cho họ kiếm dây để đan vó: vó có cần, vó có trục, vó có dây kéo. Nghề kéo vó từ đấy hình thành và phát đạt. Nhớ Sơn Tinh, dân có tục đánh cá thờ. Cá đánh được phải chọn con to nhất, góp làm cỗ cúng đức Thánh Tản. Tại đền Và thuộc xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Tây thờ thần Tản Viên. Hiện nay mở lễ hội 3 năm một lần vào ngày 15 tháng 1 âm lịch. Mở đầu là lễ rước kiệu Thánh Tản Viên từ Đông cung lên đền thờ Thánh trên núi Ba Vì. Sau đó có tục lệ đánh cá, lấy nước sông Hồng tắm tượng Thánh ở đền. 

Dạy dân luyện võ: Những ngày chiến đấu với Thuỷ Tinh và với quân Thục Phán, Sơn Tinh đã dạy cho dân chúng võ nghệ, cả phép đánh dưới nước và đánh trên bờ. Để tưởng nhớ Sơn Tinh, vùng Thanh Thuỷ (Phú Thọ) và Ba Vì có tục bơi thuyền rước quân, đấu vật và mở hội Chém May. Những trai tráng được kén vào hàng võ sĩ tay trái cầm thuyền giấy đỏ, tay phải cầm con dao dài múa theo nhịp trống. Họ phải chém sao cho ngọt, chỉ một nhát là đứt ngang cây chuối. Đó là lễ cung nghinh Thánh Tản và người dân tin rằng "Chém May" mà thực hành tốt đẹp thì năm đó mùa màng tươi tốt.

Dạy dân dệt lụa: Người dạy dân dệt lụa là Mỵ Nương, vợ của Sơn Tinh. Nàng đã dạy người dân vùng đất bãi sông Thao, sông Hồng ươm tơ, dệt lụa, dệt ra những tấm the đẹp nhất để tiến Vua Hùng. Hàng năm, làng lại tổ chức ngày hội thi chọn lụa tốt tiến vua và trình làng lĩnh thưởng. 

Dạy dân múa hát: Theo truyền thuyết, khi Thánh Tản Viên rước công chúa Mỵ Nương về quê mình, đi gữa đường Mỵ Nương không chịu đi nữa. Dân làng kéo ra cùng Sơn Tinh khuyên dỗ, ca hát, cười múa cho Mỵ Nương khuây khoả. Thế là Mỵ Nương hoà mình vào đám múa hát, dạy dân thêm nhiều hình thức nghệ thuật khác nữa. Tục rước chúa trai chúa gái, trò diễu bách nghệ khôi hài đến nay vẫn còn là có nguồn gốc từ cuộc rước Mỵ Nương về núi Tản Viên. Trò này có ở nhiều làng. Ở làng Hy Cương tổng Xuân Lũng nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ, lễ hội tổ chức từ ngày 30 tháng Chạp đến ngày 8 tháng Giêng, trong đó có rước voi mã tượng trưng cho quân tướng của Sơn Tinh đi đón Mỵ Nương (Cuocsongviet.com.vn) .

1.4. Dân tôn thờ đức Thánh Tản Viên bằng nhiều đền thờ được xây dựng ở khắp mọi miền đất Việt và trở thành một tín ngưỡng của người dân Việt.

Trước khi các tôn giáo lớn định hình trên mảnh đất hình chữ S, người Việt đã phát triển tín ngưỡng của riêng mình. Ngoài thờ gia tiên, tổ nghề, các anh hùng chống ngoại xâm..., tục  thờ đức thánh Tản Viên đã trở thành một tín ngưỡng của người Việt., cũng như tục thờ cúng các vua Hùng, Thánh Gióng, thánh Chử Đồng Tử và Thánh Bà Chúa Liễu Hạnh…

Tản Viên biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụt; cái thiện thắng cái ác; Thánh Gióng kết tinh ý chí chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu; Bà Chúa Liễu biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh, phong phú về tinh thần.

Tục thờ Đức Thánh Tản có từ rất lâu. Khoảng 250 năm trước Công Nguyên, An Dương Vương cho lập đền thờ đức Thánh trên núi Tản Viên, gọi là Đền Thượng, nay thuộc Ba Vì, Sơn Tây, ngoại thành Hà Nội. Cứ ba năm một lần, vào 15 tháng giêng âm lịch, tại đây diễn ra lễ hội lớn, với hàng vạn người tham dự. Lễ hội gồm nhiều hoạt động như rước bài vị thánh Tản, đánh cá sông (99 con) làm gỏi dâng tế, lễ rước Thánh bà Mỵ Nương, múa gà, đấu cờ, hát đúm…

Vào ngày hội lễ, nhà Vua hoặc tự thân hoặc cử đại quan tới dâng hương. Ngày nay, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính phủ cũng thường tới dự lễ tại đền chính trên núi Ba Vì, Hà Nội.

Sự tích về Thánh Tản Viên không do một ai sáng tác. Chúng được nhân dân ngàn đời thêu dệt. Đức Thánh độ trì cho lĩnh vực cốt yếu trong đời sống người dân Việt, là sự dũng cảm, lòng từ bi nhân ái, biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụ đã, đang và mãi mãi được tôn thờ. Đó là một nét độc đáo trong tín ngưỡng của người Việt.

Tản Viên Sơn Thánh là vị thần đứng đầu trong Tứ bất tử của Việt Nam-vị thần được thờ nhiều nhất ở miền Bắc.

heo tryền thuyết, Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, những nơi Người đến đều được người dân dựng hành cung  để thờ cúng. Hiện tại hệ thống các hành cung của Tản Viên còn lại gồm:

Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của núi Ba Vì.

Theo truyền thuyết Sơn tinh cùng Mị Nương sau khi đã hoàn thành sứ mệnh đã về ẩn cư tại sườn núi Tản. Về sau không ai còn thấy Sơn Tinh nữa, nhân dân cho rằng Sơn Tinh và công chúa Mị Nương đã đắc đạo và về trời. Cũng không ai biết chính xác nơi thần thoát xác, vì thế nhân dân nơi đây đã chọn đỉnh núi Tản là nơi thờ vọng thần và coi đó là nơi ngài thoát xác khi đắc đạo. Do thế mà đền Thượng được xây dựng lên. Đền Thượng xưa kia chỉ là một thảo am nhỏ, được tu tạo lại vào năm 1993 với kiến trúc khá độc đáo, ba gian hai trai, một nửa mái sau ấp vào vách đá. Vì thế nên đền Thượng còn được gọi bằng một cái tên khác là đền Một Mái.

Đền Thượng nằm ở độ cao hơn 1281 mét so với mực nước biển. Đại đức Thích Đạo Thịnh cho biết, bình thường ở đây quanh năm sương phủ không thể nhìn xa được, nhưng vào ngày có nắng, trời trong xanh và quang mây thì có thể phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng phong cảnh nên thơ của vùng đất xứ Đoài cổ kính này... Đứng từ đây, có thể nhìn rõ dòng sông Đà chảy êm đềm, bao bọc dãy núi Tản, ôm ấp những xóm làng yên bình vùng trung du Bắc Bộ. Nếu xét về độ cao, núi Tản Viên chưa phải là ngọn núi cao nhất nước ta, nhưng từ xa xưa đã có câu ca rằng: “ Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. Phải lên đền Thượng, phải đứng ở vị trí mà con người có thể cảm nhận được từng lớp mây trắng đang vây quanh mình, được hòa mình vào một thiên nhiên trong lành đến tinh khiết và ngẫm nghĩ về công lao của người anh hùng dân tộc, vị thánh muôn đời trong lòng người dân Việt thì ta mới thấy hết được câu nói trên.

Không phải ngẫu nhiên mà hàng triệu lượt người dân Việt từ Nam ra Bắc - hàng năm vẫn lũ lượt về đây dâng hương, tưởng nhớ tới công lao to lớn của đức thánh Tản. Người ta vẫn truyền tai nhau rằng, đứng ở đền Thượng, đánh một tiếng chuông thì tiếng chuông ấy sẽ vang lên thấu trời xanh... Đó là một mơ ước, hơn thế- là niềm tin, là khát vọng của mỗi người Việt nam về những gì tốt đẹp dành cho cuộc sống, về tình nghĩa gắn bó đồng bào- tức là con từ cùng một bọc sinh ra; tình nghĩa ấy sẽ mãi mãi trường tồn. (theo Posted by Admin on 22/10/2009)

Từ bãi đậu xe rẽ phải là cổng đền Thượng uy nghi. Qua cổng, du khách còn phải leo hơn 500 bậc đá nữa mới tới cửa đền chính ở chót vót trên cao. Ngôi đền nhỏ được xây theo hình chữ Nhất. Đền chỉ có  một mái lộ thiên lợp ngói nghiêng bên của hang. Mái sau Đền nằm ngầm dưới lòng tảng đá nên ngôi đền có thế vững chãi, trang nghiêm khá độc đáo.

Qua sân đền chính, leo thêm  vài chục bậc đá nữa du khách sẽ tới điểm cao nhất của Đền Thượng. Nơi đây có một chiếc lầu tám góc nhỏ thoáng, mát. Trong lầu có đặt tượng Địa mẫu đứng trên quả địa cầu dịu dàng thuỳ mị. Cạnh đó là bệ thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên, Quỳnh Hoa và Quế Hoa Công chúa quanh năm nghi  ngút hương... Từ nơi đỉnh cao này du khách có thể phóng tầm mắt ra xa thưởng ngoạn phong cảnh của thiên nhiên trong bầu không khí cực kỳ thanh khiết của núi rừng: Những dải mây như những chiếc khăn voan trắng tung bay trên tấm áo choàng xanh của non ngàn. Thấp thoáng xa xa những bóng cô gái dân tộc như những bông hoa rừng trong nắng mai. Màu xanh mượt mà trên cánh đồng ngô uốn lượn theo dòng sông Đà lăn tăn sóng... càng tô đẹp thêm cho cảnh vật quanh khu Đền Thượng - Nơi giữ bao ẩn tích gắn với truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh...

Theo www.thanhtanvien.com (tháng 8/2009) Đền Thượng khởi dựng từ bao giờ, đến nay vẫn là một câu hỏi đặt ra với các nhà nghiên cứu. Truyền thuyết và các Ngọc Phả có liên quan cho rằng Đền Thượng có từ thời Vua An Dương Vương. Đền Thượng thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh trên một mái núi thắt cổ bồng có hình tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên. Phía Tây có Đà Giang, chảy về hướng Bắc, xung quanh có nhiều cây cổ thụ cảnh trí đẹp.

Một số tài liệu chép “Đền Thượng khởi dựng từ thời Bắc thuộc, trùng tu vào đời Đường Ý Tông (860 – 874). Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, phần phụ lục có ghi: “Nhân Tông triều Lý sai thợ làm thuyền ở ngọn núi thứ nhất, có lầu 20 tầng”. Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép về đời Lý Nhân Tông (1073) có ghi: “Bấy giờ mưa dầm rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh và cúng thánh núi Tản Viên”. Đời Vua Lý Anh Tông (1145) có ghi : “Mùa thu, tháng 7 làm đền thần núi Tản Viên”. Như vậy qua các thư tịch cổ thì Đền Thượng đã có từ thời Lý Nhân Tông.

Trong cuốn sách “Les Mường” của tiến sỹ văn học người Pháp, bà Jeanne Cuisinier, xuất bản năm 1948, tại Paris (Pháp) bà viết “cứ ba năm một lần, người ta tổ chức lễ cúng ở đỉnh núi Tản Viên, trong một ngôi miếu ngày nay đã đổ nát…”. Ông S.Madro trong sách “ Miền bắc Đông Dương” có ghi “Vào dịp lễ cúng ba năm một lần những người làm lễ thuộc các huyện Tùng Thiện, Tòng Bạt dâng lên thần những lưỡi búa vằng đá và bằng đồng hun nhặt được ở chân núi Tản Viên trong những kho đồ tiền sử”.

Đền Thượng xưa thuộc đất Thủ Pháp, tổng Hoằng Nhuệ, huyện Bất Bạt, nay thuộc địa giới hành chính xã Ba Vì, huyện Ba Vì và nằm trong diện tích lân phần của Vườn Quốc gia Ba Vì quản lý.

Được sự giúp đỡ của Vườn Quốc gia Ba Vì, năm 1993 Đền Thượng đã được khởi dựng lại trên mái núi thắt cổ bồng thuộc đỉnh Tản Viên (độ cao 1.227m). Đền do kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính – Tổng Giám đốc Trung tâm thiết kế và tu bổ các công trình văn hóa (Bộ văn hóa) thiết kế. Đền Thượng được xây dựng lại ngay dưới chân vách núi đá dựng đứng dưới đỉnh Tản Viên, mà người ta cho rằng trên dấu tích của ngôi đền cổ xưa. Đền Thượng được xây theo hướng Bắc-Nam, cửa đền trông về phương nam. Bên trong đền phía trên chính điện có bức hoành phi ghi bốn chữ đại tự: “Tản Lĩnh Linh Thần”. Đền gồm ba gian hai trái, một nửa mái sau Đền là vách đá, không có mái, kết cấu công trình làm bằng bê tông xi măng theo kiểu kiến trúc xà, cột. Phần mái được lợp bằng ngói mũi hài với đầu đao cong vút. Hai tường hồi bố trí hai vòng tròn sắc không đối diện nhau mô phỏng biểu tượng của nhà Phật. Trên ban thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh có một khám thờ trong có ba ngôi tượng đá cổ, mỗi pho tượng được tạc ở ba tư thế khác nhau, theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Thức – Sở văn hóa thông tin Hà Tây thì pho tượng giữa là Sơn Tinh, bên trái là Thái Bạch Thần Tinh, bên phải là Quý Minh đại vương.

Người có công lớn xin được đứng ra làm việc công đức để xây Đền là bà Đặng Thị Mát, thủ nhang Đền “Cốc khẩu linh từ” (tức đền Chùa Hang) thuộc xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Đền được khởi công xây dựng từ ngày 09 tháng 10 năm Quý Dậu (1993) và hoàn thành ngày 20 tháng 12 năm Bính Tý (1996). Từ năm 1997 đến nay được sự hỗ trợ của Vườn Quốc Gia Ba Vì, các cá nhân, tổ chức, khách thập phương công đức, Đền Thượng đã có nhiều công trình được bổ sung, hoàn thiện thắp sáng, cổng đền, sân đền, nhà tiếp khách v.v… 

Đền Thượng có hai đôi câu đối do ông Vũ Tuyên Hoàng – Giáo sư – Viện sỹ - Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam sáng tác, chữ viết là của cụ Lê Xuân Hòa, nhà nho, nhà thư pháp của nước ta.

Câu đối thứ nhất:

Thần uy trăm trận tan kình ngạc

Thánh hiển muôn đời dựng núi sông

Câu đối thứ hai:

Núi Tản vượt tầng cao, ba đỉnh lừng danh từ vạn cổ

Sông Đà ngăn thác dữ, một dòng rực sáng đến mai sau. 

Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với Động Lăng Xương huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ - Nơi thờ đấng sinh thành Ngài là cha Nguyễn Cao Hạnh và mẹ bà Đinh Thị Đen.

Tây cung Đền Trung

 Hàng năm, rất đông du khách thập phương lũ lượt kéo đến chiêm bái, cầu an tại đây. Quần thể đền Hạ và đền Trung còn được gọi là Tây cung hay là chính cung thờ thánh Tản Viên.Đền Trung nằm trên lưng chừng núi Tản Viên, khoảng cốt 600. Đền Trung được người dân nơi đây truyền tụng là chốn hết sức linh thiêng. Trước đây, không có đường cho xe lên, chỉ có đường mòn, người dân phải đi bộ. Bây giờ thì ô tô, xe máy đều có thể lên được tận nơi. Đứng ở đền Trung, phóng tầm mắt ra xung quanh là những ngọn núi với mây trắng bồng bềnh ôm ấp, phía trên là bầu trời xanh thẳm – cảnh sắc như một bức tranh lụa tuyệt tác. Không gian nơi đây dường như tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, mang một không khí tĩnh mịch vô chừng, tưởng như có thể nghe thấy cả tiếng lá rơi, tiếng gió thổi...

Cuốn Ngọc Phả “ Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại Đền Và (Đông cung) do Quản giám bách thân Nguyễn Hiển sao lại năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) có ghi Đền Trung là nơi thờ bà Ma Thị, mẹ nuôi của Tản Viên. Truyền thuyết kể lại rằng bà Ma Thị đã lập chúc thư (di chúc) giao lại toàn bộ đất đai ở vùng núi và chân núi Ba Vì cho con nuôi là Nguyễn Tuấn và có trách nhiệm lập đền thờ để hương hỏa cho bà. Đền Trung được xây dựng từ triều Lý, đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng cho Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai trùng tu lại Đền.

 Nằm ở sườn núi trên một cánh rừng tương đối bằng phẳng, cửa Đền nhìn về hướng Tây, đối diện là núi Chàng Rể, phía dưới là dòng sông Đà như một dải mụa trắng vắt ngang, lại càng tôn lên vẻ thiêng liêng hùng vĩ. Bên tả có suối Đền, bên hữu có suối Tiên, cả hai suối ấy lấy nước từ núi Tản đổ xuống khe sâu hợp thành suối Cái. Từ Đền Trung phóng tầm mắt sang bên kia sông Đà là núi Lưỡi Hái, chân núi là đất xã Trung Nghĩa (thuộc tỉnh Phú Thọ), có đền thờ thân mẫu của Đức Thánh Tản (Đền Lăng Xương).

Đền Trung kiến trúc kiểu chữ TAM, phỏng quẻ Càn trong Kinh dịch, biểu tượng của sự bền vững. Hậu cung của Đền đặt ba pho tượng Tam vị Đức Thượng đẳng. Chính giữa là tượng thờ Tản Viên – Sơn Tinh, hai bên là tượng Cao Sơn đại vương và Quý Minh đại vương. Trong cung gian giữa bài trí tượng bốn vị quan ở tư thế đứng, mũ áo cân đai chỉnh tề, đứng hai bên đối diện nhau, biểu thị bốn vị đại thần trấn ở bốn cung Đông – Tây – Nam – Bắc. Trước Trung cung là nhà tiền tế năm gian còn lưu dấu tích lại bài thơ chữ Hán vịnh cảnh Đền Trung. Nằm ở bên phải Đền Trung còn có dãy nhà ba gian gọi là Đền Lang nay Đền Lang Mẫu, bên trong đặt ngai thờ bà Mai Thị. Trước Đền Lang là một ngôi nhà thờ Phật. Dưới chân Đền từ hướng hai cột đồng trụ trông ra là một ngôi đền nhỏ thờ Thái Bạch Thần Tinh, một vị tiên trên trời đã ban tặng cho Thánh Tản Viên – Sơn Tinh chiếc gậy thần để cứu nhân độ thế. Ngoài ra còn có bàn thờ lộ thiên thờ chúa sơn lâm (năm con hổ), nhà tiền tế, đền thờ Tả quan Nguyễn Hiển, là em con ông chú của Thánh Tản Viên. Đền Trung còn có tên gọi là “Đền ba dân” nghĩa là có dân Mường ở xã Thủ Pháp xưa và hai dân Kinh ở chân núi gọi là làng Vô Khuy và làng Ngọc Nhị cũng biện lễ chung để thờ cúng Thánh Tản.

Đền Trung là ngôi Đền có quy mô lớn, hoành tráng tạo thành quần thể di tích, là ngôi Đền có một vị thế đẹp nhất trong các ngôi Đền thờ Tản Viên ở sườn Tây núi Ba Vì.

Đền Trung có các ngày chính tiệc diễn ra trong năm như:

Ngày 03/01 âm lịch, tương truyền là ngày sinh Nguyễn Hiển (Tả quan)

Ngày 15/01 âm lịch, tương truyền ngày sinh Đức Thánh Tản Viên

Ngày 03/3 âm lịch tết Hàn Thực. Ngày 05/5 âm lịch tết Đoan Ngọ

Ngày 15/5 âm lịch tương truyền ngày hóa của công chúa Phương Dung (vợ Nguyễn Hiển)

Ngày 15/7 âm lịch lễ Vu Lan. Ngày 15/8 âm lịch tế mùa thu

Ngày 10/10 âm lịch tết cơm mới

Ngày 25/12 âm lịch, tương truyền là ngày hóa của Nguyễn Hiển (Tả quan).

Tây cung Đền Hạ

Ngôi nhà mà ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng, Nguyễn Hiển ở sau khi vượt sông, ngày nay được lập nên đền Hạ, thuộc địa phận xã Thủ Pháp xưa, nay là thôn Phúc Lộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Nhân dân xây dựng ngôi đền này để tưởng nhớ những công ơn to lớn của ngài khi còn sống. Ngôi đền Hạ nằm bên sông Đà. Bước qua cổng tam quan là một khoảng sân nhỏ, dưới tán cây cổ thụ là một con Sấu Đá đang ở tư thế trầu vào đền. Nhà Tiền tế là một ngôi nhà 3 gian tường hồi bít đốc, thiết kế đơn giản. Chính giữa nhà Tiền tế bài trí tượng bốn vị Thần Quan. Ngoài ra còn có hai con ngựa gỗ và hai con voi đá cũng được bài trí tại đây. Qua nhà tiền tế là hậu cung. Chính điện là nơi thờ tam vị đức thánh tản, chính là 3 anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng và nguyễn Hiển. Gian bên trái là tượng của dưỡng mẫu – bà Ma Thị Cao Sơn. Gian bên trái là tượng của dưỡng mẫu – bà Ma Thị Cao Sơn.

Theo Ngọc phả ”Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại Đền Và (Đông cung) thì đầu thế kỉ 18 đã có Đền Hạ, hay còn gọi là cung Hạ thận. Theo sách “Sơn Tây tỉnh địa chí” của Phạm Xuân Độ thì Đền Hạ gọi là tây cung thờ Tam vị đức thượng đắng (Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương).

Kiến trúc của Đền Hạ theo kiểu chữ TAM. Ngoài sân có tấm bia đá ghi dòng chữ “Tản viên từ ký” (ghi chép về Đền thờ Tản Viên), dựng vào năm Tự Đức thứ 1 (1848) triều Nguyễn.    

Nội dung bia cho biết đền Hạ được xây dựng quy mô lớn, vua Tự Đức đã cấp hai nghìn quan tiền để xây dựng Đền. Đền Hạ còn có tên gọi là “Đền năm dân” (dân Trung Nghĩa thuộc Tổng Tu Vũ, dân Đồng Luận, Lương Khê thuộc Tổng Lương Truyền, dân Đan Thê, Thạch Xá thuộc Tổng Lương Truyền). Đền Hạ có ba dãy nhà ngang, nhiều hạng mục lớn như cổng Tam quan, Đại bái, Tiền tế, Hậu cung, nhà thờ Mẫu. Đền Hạ có hai pho tượng Hộ pháp dáng oai phong, tay cầm giáo trấn giữ hai bên. Trên mái cổng Tam quan có lưỡng long chầu nguyệt, hai tầng, tám mái đao cong, lợp ngói ri. Giữa hai tầng mái là bốn chữ Hán "Quốc Sơn Từ Hạ" cùng nhiều các bức tranh chạm trổ mô phỏng hình tượng mặt trời, tia sét, chim phượng, con nghê, đao mác, lửa v.v... theo phong cách nghệ thuật điêu khắc, đặc trưng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Phía trên gian giữa treo bức cuốn thư, trên nền triện gấm khắc chạm năm chữ Hán: "Tản Viên Sơn Linh Thánh" cùng một số câu đối viết bằng chữ Hán.Trải qua thời gian, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền Hạ đã bị hư hỏng nặng, không còn dáng vẻ như xưa. Năm 1998 Đền Hạ được nhân dân xã Minh Quang công đức tu sửa để hàng năm mở lễ hội dâng hương tưởng nhớ Thánh Tản Viên.

Tháng 10 năm 2013 nhà tiền tế đã hoàn thành việc trùng tu, nội thất bên trong cũng được phủ kín bới các bức hoành phi, câu đối do các con nhang hiến tặng và đã trở nên rất trang nghiêm, hoàng tráng.Tháng 11 năm 2012 tức tháng 10 Nhâm Thìn Đền Hạ được khởi công xây dựng lại theo quyết định của Bộ Văn Hóa – Du lịch và thể thao. Đền được xây trên nền tảng của ngôi đền cũ có sự mở rộng với quy mô hình thái giống khu đền Trung. Kinh phí khoảng 65 tỷ. Theo nhà Đền nguồn kinh phí này được sự tài trợ của Nhà nước và một phần từ sự công đức của một số tổ chức, doanh nghiệp, con nhang, đệ tử nhà Đền

Một quả chuông đồng trên 2 tấn, theo ông Nấu chủ nhang nhà Đền cho biết đã được đúc tại đền do công đức của con nhang họ Nguyễn – bà Nguyễn Thị Hảo người Phú Lãm, Hà Đông kính tặng còn đang được để ở trước cửa tiền nhà tiền tế. Trên quả chuông cũng ghi rõ tên bà là người kính tặng

Cứ mỗi dịp xuân về, người dân nơi đây lại tổ chức lễ rước thánh rất long trọng vào chính ngày sinh của đức thánh Tản – ngày 15 tháng Giêng. Đây là lễ hội truyền thống không những là của người dân địa phương mà còn là lễ hội của thập phương tới lễ. Hội đền Hạ con được mở thêm vào ngày 6 tháng 11 âm lịch  là ngày hóa thân của đức thánh Tản Viên. Sau lễ tế, lễ rước thánh của nhân dân trong vùng và du khách thập phương, nhiều hoạt động văn hóa, dân gian đặc sắc như ném còn, cồng chiêng, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy… được tổ chức.

Đền Hạ  đã được xếp hạng Di tích Quốc gia

Trên lưng chừng sườn núi Tản về phía địa phận xã Tân Lĩnh, huyện Ba Vì, có một cái ao sâu. Ao nhỏ nhưng bốn mùa lúc nào nước cũng trong xanh và sâu thẳm. Dân địa phương gọi đó là Ao Vua.Nam Cung - đền Ao Vua

Tục  truyền, nước ở ao Vua vốn là nước “Vua Thủy” dâng lên để đánh Sơn Tinh ngày trước. Khi Thủy Tinh kéo quân lên đánh Sơn Tinh, hắn  dâng nước sông lên dữ dội. Quân của Thủy Tinh dựa vào thế nước dâng, tràn theo các ngả sông Hồng,  sông Tích, sông Đà, đổ vào mạn đầm Đượng, cầu hang, suối Bon, ngòi Tôm, ngòi Bún rồi bốn  phía ầm ầm kéo cả lên núi Tản.

 Chỉ trong vòng  mấy ngày, quanh núi Ba Vì nước đã ngập mênh mông  như biển. Thừa thế, Thủy Tinh tiến lên tận Ao Vua, hội quân ở đó để tìm đường đánh ngược lên đỉnh núi. Tình hình rất nguy ngập, nhưng Sơn Tinh vẫn bình tĩnh chỉ huy chống giặc.

Vào lúc đó, Sơn Tinh ra lệnh phản công  kịch liệt. Từ trên đỉnh núi cao, cầm trong tay  chiếc gậy thần đầu sinh đầu tử, chỉ núi núi tan, chỉ ngàn ngàn cháy. Sơn Tinh chỉ huy quân cùng  một lúc tiến đánh quân của Thủy Tinh ở khắp các   mặt xung quanh núi Ba Vì. Quân đôi bên đánh nhau   suốt một đêm ròng rã. Khoảng giờ Tý (nửa đêm),  từ trên đỉnh núi, Sơn Tinh vỗ tay giả làm tiếng gà đập cánh gáy. Gà rừng liền vỗ cánh gáy ran khắp núi. Thủy Tinh tưởng sắp sáng vội vã rút tất cả các cánh quân từ cầu Hang đến ngòi Bún,  chạy trốn theo đường sông Hồng ra bể.  Trước hết, để nhanh  chóng cản đường tiến của Thủy Tinh, Sơn Tinh lập   tức tách núi Ba Vì thành nhiều ngọn, cắt ngang  luồng nước dữ không cho tràn lên ngọn núi chính. Sau đó, Sơn Tinh lập kế bao vây quân của Thủy  Tinh đang tập trung ở Ao Vua. Ông cho quân đeo những chiếc giỏ lớn chứa đầy hạt mây, đi rải quanh Ao Vua và các nẻo đường dẫn lên núi. Hạt  mây gieo đến đâu thì chỉ trong chớp mắt, mây đã  mọc lên thành rừng đến đó. Quân Thủy Tinh bị rừng mây vây chặt, tiến không  được, lui cũng không xong, thảy đều hoang mang  sợ hãi.

 Trong dãy Ba Vì ngày nay cũng thường gặp những  giống mây sợi vừa dài vừa lớn, mọc rải rác khắp nơi trên núi, dưới khe. Người ta bảo rằng đó là giống mây Sơn Tinh cho quân gieo xuống để bao  vây quân của Thủy Tinh nơi Ao Vua  ngày trước.

Ngay phía trên Ao Vua độ vài trăm thước, ở giữa anh U Bò còn thấy một cái giếng sâu. Mặc dù  giếng ở trên đỉnh núi cao nhưng quanh năm lúc nào mạch nước cũng dâng đầy. Nước giếng ngọt và  rất mát. Tục truyền, khi xưa, trong những ngày đánh nhau với Thủy tinh ở Ao Vua, quân của Sơn Tinh trên núi  không có nước ăn. Sơn Tinh liền    rút gươm cắm xuống đỉnh U Bò, cho quân theo dấu   gương đào giếng lấy nước. Quả nhiên, mới đào  xuống mấy thước, đã thấy nước phun lên thành tia  rất mạnh. Quân của Sơn Tinh nhờ đó mà không bị khát. Chiếc giếng kỳ lạ ấy đến nay vẫn được dân  quanh vùng quen gọi là giếng Mũi Gươm.

 Ngày nay Ao Vua là một khu du lịch nổi tiếng của thủ đô Hà Nội

Đông cung - Đền Và

Đông cung- Đền Và ngự tại thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Dân sở tại Đền Và, dựa vào sự tích đám mây lành (chữ Hán là Vân già) xuất hiện trên bầu trời quê mình mà đặt tên là làng Vân Gia. Từ đó, dân thôn làm ăn phát đạt, càng chăm sóc việc hương khói thờ phụng Thánh Tản.Tương truyền thuở ấy, khi vua Hùng nghe lời Sơn Tinh trao ngôi vua cho Thục Phán, đất nước trở lại cảnh thanh bình. Sơn Tinh cùng Mỵ Nương về sống trên núi Ba Vì. Ngài thường du ngoạn bốn phương, hỏi thăm dân tình. Một lần Ngài nhằm hướng mặt trời mọc đi đến quả đồi thấp ven dòng sông Tích. Thấy đây là nơi thắng địa, Ngài dừng chân nghỉ ngơi vừa lúc trên trời xuất hiện đám mây ngũ sắc từ phía núi Ba Vì bay tới kịp che mát một vùng. Ngài cho đó là điềm lành, bèn cho lập tại chỗ một hành cung. Nơi ấy nay là đền Và.

Theo bia "Vân Già đông trấn cung ký" (雲 遮 東 鎮 宮 記) dựng ở đầu hồi hai bên nhà tiền tế ở đền năm Tự Đức thứ 36 (1883) thì đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ấy đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng. Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong đó có lần trùng tu lớn vào năm 1884. Sự mở rộng quy mô của đền gắn với sự thành lập và phát triển của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc. Sau khi tỉnh này được lập ra năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), tỉnh lỵ là nơi tập trung nhiều quan chức, thương gia chỉ cách đền Và khoảng 2 km nên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Trước đó, nhà tiền tế đã có nhưng quy mô nhỏ. Cho đến nay, nhà tiền tế đã trải qua 3 lần tu sửa lớn: tu tạo năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), đại tạo năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và lại tu tạo năm 1932 (Bảo Đại thứ 7). Dựa theo văn tự chữ Hán khắc ở cột thì hậu cung như hiện nay được làm vào các năm 1915-1919. Gần đây, dự án tôn tạo đền Và đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây phê duyệt với tổng kinh phí 18 tỷ đồng, dự kiến sẽ bắt đầu bằng việc tu bổ đền chính trong năm 2008 (nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Đền Và nằm giữa đồi Và, một đồi cây có diện tích khoảng 17.500 m² trồng nhiều cây lim cổ thụ, ngoài ra còn có mítthôngđạimuỗm... Trong đền trồng cây vóc vàng và hai bên nhà tiền tế có hai cây lan cao to, đây đều là những loài nở hoa về mùa hè. Theo thuyết phong thuỷ, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Khu vực kiến trúc rộng khoảng 2.000 m² được bao ở hai bên và phía sau bởi tường thành bằng đá ong cao 2m15. Tường được xây hai lớp, theo cách thức thượng thu hạ thách, chính giữ lèn đất. Trong dân gian lưu truyền rằng, đá ong xây tường được lấy ở đồi Vông, thôn Vân Gia, còn gọi là "xóm Rắn" nên có câu thành ngữ "cấu cổ con xà, đè cổ con quy".

Đền có bố cục dàn trải tương đối cân xứng theo trục. Trên trục trung tâm phía trước sân đền có một bình phong tạo những hang hốc mang vẻ tự nhiên. Mặt ngoài của bình phong thờ ngũ hổ trong hang với trung tâm là hổ vàng, mặt sau của động này đắp hình “long cuốn thuỷ” dưới dạng tứ linh với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hoà, được mùa và có người tài ra giúp dân giúp nước. Qua một sân rộng khoảng 300 m2 có tường thấp bao quanh, đến "nghi môn" - cổng chính của đền. Tiếp đến là một khoảng sân rộng, được khuôn vuông bằng hệ thống công trình kiến trúc khép kín. Liền sát nghi môn, đăng đối hai bên theo chiều dọc là gác chuông và gác trống, rồi đến hai dãy tả mạc, hữu mạc, nhà kho, phía sau tả hữu mạc mỗi bên đều có nhà tạo soạn và là nơi nghỉ tạm cho khách hành hương. Nhà tiền tế (hay tiền bái) năm gian nằm song song với nghi môn ở phía cuối sân, hai đầu nhà tiền bái có tháp thiêu hương để hoá vàng mã sau khi cúng tế xong. Hậu cung hình chữ "công", cách tiền tế 1,2m, đầu nhà có bể nước và một gian nhà nhỏ để kiệu.

Mặt thoải sườn đồi đã được lợi dụng để giải quyết chiều cao kiến trúc. Lối bố trí kiến trúc theo hướng đi lên khiến cho các công trình như được nâng cao dần, đặc biệt là nghi môn, tiền tế, hậu cung. Mặc dù kết cấu các công trình đều thấp nhưng người xem vẫn có cảm giác đền có xu hướng vươn lên.

Nghi môn: gồm ba gian dựng trên nền cao, gian giữa cao 4m80, hai gian bên cao 2m15. Nghi môn có đặc điểm dễ nhận biết là ba hàng chân cột gỗ kê trên những chân tảng đá ong (cột cái cao 4m95, cột quân 3m80). Đây là một nghi môn khá hiếm gặp trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, ngoài Nghi môn này, có thể thấy kiến trúc tương tự tại đền Vua Đinh (thế kỷ 17), Đại Thành môn ởVăn Miếu, Tam quan chùa Bút Tháp.

Gác trống, gác chuông: dựng hai bên và ngay sát nghi môn và kiến trúc tương tự nhau với kiểu chồng diêm 8 mái phỏng theo gác trống, gác chuông chùa Thầy và có dáng dấp của Khuê Văn Các trong Quốc Tử Giám. Mặt hướng vào sân đền được trang trí theo chủ đề ngũ phúc bằng hình năm con dơi xoè cánh ôm lấy cửa sổ tròn.

Tả mạc, hữu mạc (hay tả vu, hữu vu): tiếp nối với gác chuông và gác trống xây dựng theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái, tường hồi bít đốc, nóc kết cấu "vì kèo quá giang", mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp, mặt trong để trống.

Nhà tiền tế và hậu cung: nhà tiền tế hình chữ "nhất" (一), kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái chồng rường, giá chiêng; hệ thống cột cái, cột quân bào nhẵn kiểu "thượng thu hạ thách" đặt lên tảng kê chân cột bằng đá. Trên cột là một hệ thống hoành phi, câu đối cổ được chạm khắc tinh xảo. Hậu cung hình chữ "công" (工), toà ngoài kết cấu 3 gian 2 chái lớn (dài 14m10, rộng 8m90). Đường vào hậu cung có một bộ vì lớn, làm theo kiểu thượng ván mê, hạ chồng rường trên xà nách. Bên dưới bộ vì mở ba cửa, hai cửa bên là lối đi vào hậu cung, cửa giữa là cửa thờ. Toà nhà bên trong cũng có kết cấu 3 gian 2 chái nhưng thấp hơn toà ngoài. Hậu cung đặt một khám thờ cao hơn 3m sơn son thếp vàng được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17. Trong cùng là bài vị của Đức Quốc Mẫu (bà Đinh Thị Đen, thân mẫu Thánh Tản Viên). Tiếp đến là 3 bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản (gồm Thánh Tản Viên và hai người em con chú là Cao Sơn, Quý Minh). Trước khám thờ có hương án bày long ngai bài vị của ba vị, phía trên khám treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh thần" (上 等 最 靈 神) niên đại Tự Đức Quý Mùi (1883). Toà ngoài của hậu cung có 4 bức tượng kích thước như người thật đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ gọi là "Tứ Thánh" trấn ở bốn cung quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên nhà có hai pho tượng quan văn, quan võ ngồi hướng vào nhau. Cách bài trí hậu cung mô phỏng thiết chế triều đình xưa trong con mắt người dân.

Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích "Tản Viên Sơn Thánh"; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. Trên những hiện vật đó khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh của Thánh Tản Viên với nhiều nét trang trí có giá trị mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh. Các bản thần tích, sắc phong, văn bia đền Và rất giàu giá trị Hán-Nôm, trong đó có văn thơ của Nguyễn KhảnNguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân...

Vị thần được thờ phụng ở đền Và là Thánh Tản Viên, đứng đầu trong tứ bất tử và là "Thượng đẳng tối linh thần", "Đệ nhất phúc thần" (弟 一 福 神), "Nam thiên thần tổ" (南 天 神 祖),... "là người anh hùng văn hoá sáng tạo trong tư duy nông nghiệp, người anh hùng trị thuỷ, chống giặc, biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc, hóa thân Tản Viên là phúc thần trừ tai hoạ cho dân". Từ thời Hậu Lê, nơi có đền Và là lỵ sở của huyện Tùng Thiện cũ, đền Và trở thành trung tâm tín ngưỡng hàng huyện, nay là cả nước.

Lễ hội đền Và diễn ra "xuân thu nhị kỳ". Hội mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị "Tam vị Đức Thánh Tản" từ đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh TườngVĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và. Cứ vào các năm NgọMãoDậu thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính.

Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99 con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh. Việc tế cá xuất phát từ truyền thuyết Thánh Tản Viên dạy dân kéo vó và bắt được 100 con cá, sau đó ngài phóng sinh một con cá trê đang có mang, về sau con cá này sinh được 9 con, đều hoá đá, đầu chầu về hướng đền Và.

Hội rằm tháng giêng có tục rước nước do dân làng Di Bình thuộc xã Vĩnh Thịnh, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đảm nhiệm. Có 8 làng tham gia, gồm: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai thuộc xã Trung Hưng; làng Phù Sa, Phú Nhi (Bần Nhi) thuộc xã Viên Sơn (Hà Nội) và làng Di Bình (tỉnh Vĩnh Phúc).

Lễ hội diễn ra trong một không gian rộng, được tổ chức chặt chẽ. Lễ hội bắt đầu mở từ ngày 13 tháng giêng. Dân thôn Vân Gia lên đền dọn dẹp, trang trí cờ hội. Buổi chiều dân các thôn rước cỗ kiệu của làng mình về đặt ở sân trước nhà tiền tế tại đền Và. Các cỗ kiệu xuống thuyền qua sông. Cư dân vạn chài ở trên sông tấp nập kéo tới, ghép thuyền lại thành một cầu phao lớn cùng đưa đoàn rước sang sông và họ nhập vào đoàn rước trở thành những ngư­ời đi hội. Quan niệm của dân vào ngày này vạn chài nào trên sông làm nhiều điều phúc thì Thánh Tản sẽ cho nhiều lộc lớn trong năm.

Sang ngày 15 tháng giêng, ngày chính hội là những cuộc vui chơi, tiếp đón khách thập phương đến đền Và dâng h­ương, hoa trái và viếng Đức Thánh Tản. Ngày 15 ở sân tr­ước nhà tiền tế có đấu vật. Các đô vật xứ Đoài đến vật chầu bóng Thánh, sau đó diễn trò vui vật giật giải, một thú vui đua sức, đua tài vốn rất đ­ược dân xứ Đoài hâm mộ. Lễ hội thu (rằm tháng 9 âm lịch) Lễ hội mở vào ngày 14 tháng 9 (âm lịch), dân làng các thôn Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Trì, Mai Trai, Đạm Trai ùa ra đoạn sông Tích từ Thượng Cầu Vang (giáp xã Đường Lâm) đến Hạ Mả Mang (giáp thôn Ái Mỗ) cùng đánh bắt cá tập thể trên đoạn sông này. Mọi ng­ười mang những công cụ đánh bắt cá như nơm, vó, xúc... Ai bắt đ­ược loại cá trắng, to thì nộp cho làng, cá nhỏ mang về nhà. Cuộc đánh bắt cá đến khi nào chọn ra đủ 99 con thì mang số cá đó về làm tiệc cá, thờ Đức Thánh Tản ở đền Và. Lễ hội này dân gian gọi là lễ hội “ đả ngư ”. Trò đánh bắt cá tập thể của 5 làng trên đoạn sông Tích có ý nghĩa lấy vui, lấy may. Ai được con cá to tâm niệm năm ấy Đức Thánh Tản phù trợ cho làm ăn gặp nhiều may mắn. Trong số 99 con cá ấy, được rửa sạch chế biến thành nhiều món dâng lên đức Thánh Tản. Tất cả dân chúng thành kính trước uy linh của Ngài. Cuối buổi, mọi người ngồi thụ lộc các món đặc sản từ cá trong không khí sảng khoái. Có một chi tiết của lệ tục xưa ở đền Và qui định cơm ăn, cỗ cúng ở đây không được dùng muối, mà phải ăn nhạt. Khi ăn cơm xong, quan viên uống nước ăn trầu (lá trầu, cau, vỏ) nhưng không được dùng vôi. Vì thế, dân gian có câu: "Hội đền Và trầu không vôi, xôi không muối"./.(Nguồn: lehoi.cinet.vn)

Lễ hội Đền Và là một lễ hội vùng đặc sắc của xứ Đoài; thể hiện sự tôn thờ, niềm tin vào sức mạnh thiêng liêng, đức nhân nghĩa, sự nỗ lực sinh tồn của dân tộc. Đến với lễ hội, du khách như được trở về với cội nguồn tiên tổ, thoả nguyện tâm linh, thanh lọc tâm hồn, để rồi ra về ngâm nga, truyền tụng mãi câu ca: “ Cả năm đi lễ bao miền -  Chẳng bằng cầu lễ tháng Giêng Đền và”./.

        Bắc Cung - đền Thính

Đền Thính - xã Tam Hồng cách trung tâm huyện lỵ Yên Lạc khoảng 1km, là một trong những di tích đẹp, nơi ngưỡng vọng về bậc Tiên Thánh từ buổi bình minh nước Việt, mãi sống trong lòng người Việt.

Tương truyền rằng sau chiến thắng Thủy Tinh và quân Thục, biết chàng là người có tài, Hùng Vương đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho đi du ngoạn khắp nơi giúp dân. Khi đi qua vùng Tam Hồng, thấy cảnh sơn thủy hữu tình, Ngài đã dừng chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá, sản xuất nông nghiệp. Ghi nhớ công đức của Ngài, nhân dân Tam Hồng dựng một ngôi đền thờ gọi là đến Thính, xây ở phía Bắc núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng nên có tên là đền Bắc Cung (một trong “Tứ cung” thờ Đức thánh Tản Viên).

Trong khoảng diện tích 2000m2, khu đền có các công trình kiến trúc cơ bản gồm tiền tế 7 gian, hậu cung 7 gian nối nhau theo kiểu chữ “đinh”. Song song với hậu cung, hai bên có nhà hành lang, phía trước có sân lễ hội, ao đền, ngoài cùng có nghi môn ngoại ngăn cách không gian thờ tự trong một cảnh quan thanh tĩnh, mát mẻ với hàng cổ thụ gần trăm năm tuổiNăm Thành Thái thứ 13 (1902) triều Nguyễn, quan huyện Yên Lạc là Lưu Đình Dương vời nhà sư Tăng ất đứng ra xây dựng hậu cung đền (cửu trùng), năm Duy Tân thứ 5 (1911) dựng thêm lầu chuông và lầu trống, đến năm Khải Định thứ 2 (1917) mở rộng đền về phía trước thêm 7 gian tiền tế và năm Khải Định thứ 6 (1921) xây cổng, lát sân, dựng nhà hành lang…Như vậy, trong khoảng 20 năm, việc xây dựng mới hoàn thành cho cấu trúc ngôi đền như hiện nay. Các việc xây dựng được ghi rõ trên tấm bia dựng năm Khải Định thứ 8 (1923) và bài văn của nhà sư Tăng ất tại tấm bia dựng năm 1936 (2 tấm bia đều còn, được dựng trước cổng đền).

Ngoài những giá trị nghệ thuật về kiến trúc; cổng đền được cấu tạo như kiểu tam quan, cổng vào đền kiến trúc kiểu 2 tầng 8 mái, toà tiền tế cũng được nâng mái theo lối “chồng diêm”, 2 nhà hành lang tả, hữu nằm nối theo lầu chuông, trống như 2 thân rồng chầu, tất cả đã tạo nên bố cục không gian kiến trúc tổng thể khá sinh động. Từ tiền tế trở vào, hậu cung gồm 7 gian, 9 cửa thờ đều có cửa võng đục chạm cầu kỳ, sơn son thếp vàng với các đề tài tứ linh “long - ly - quy - phượng” hoặc tứ quý “thông - cúc - trúc - đào”. Mỗi lớp cửa là một tác phẩm điêu khắc độc đáo, mang phong vị riêng, cùng với kỹ thuật chạm lộng vô cùng tinh xảo đến từng chi tiết đã thể hiện sự tài hoa tuyệt mỹ về nghề chạm gỗ dân gian nửa đầu thế kỷ XIX. Còn có các bức chạm ở cốn mê, cốn nách, các bức phù điêu bằng gỗ khắc hoạ hình tượng văn quan, võ tướng, là những tác phẩm nghệ thuật quý hiếm và đặc biệt của di tích. Hai bức hình hoạ trên tường toà tiền tế cũng là những tác phẩm nghệ thuật hội hoạ đặc sắc, với đề tài thiên nhiên cây cảnh ấp ôm, hoà quyện với mái cong ngôi chùa làng, ẩn hiện trong sương mờ khói toả chiều lam. Với bút pháp trữ tình, nghệ thuật dùng màu nước trên chất liệu vôi gạch mà những bức bích hoạ tồn tại cả trăm năm còn nguyên tươi màu sắc mới thấy hết những giá trị văn hoá, giá trị nhân văn, giá trị truyền thống thật đáng trân trọng.

Căn cứ vào tài liệu còn lưu giữ tại đền và theo lời kể của các cụ cao niên trong làng đã từng được nghe, chứng kiến lễ hội, theo lệ làng cứ đến tháng chạp, chức dịch, sắc mục và các quan viên của các giáp họp bàn để tổ chức lễ hội (nay là Ban quản lý Khu Di tích đền chùa xã Tam Hồng) xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội hàng năm trên cơ sở của lễ hội cổ truyền. Những người được chuẩn bị cai đám phải thực hiện “trai giới” nhằm đảm bảo mua sắm lễ vật được trong sạch, tinh khiết hơn.Việc chuẩn bị cho lễ tế khá công phu. Trước tiên là chọn những người đủ tiêu chuẩn tham gia tế lễ và đóng các vai chính trong đám rước. Thông thường có từ 8 đến 14 cụ ông được chọn làm thành viên trong đội tế khai xuân, tế dâng lễ, tế ngày sinh, hóa của đức Thánh Tản. Một cụ hội đủ các điều kiện tốt nhất sẽ được chọn làm chủ tế, 2 cụ làm Đông xướng và Tây xướng; 2 cụ bồi tế, 4 cụ tiến nước đèn, nhang, hoa, một cụ đọc chúc văn; 6 cụ chấp kích hai bên canh gác và xua đuổi tà ma cho cuộc tế. Những công việc này đều do người dân Tam Hồng bầu chọn, cắt cử dưới sự điều hành của Ban tổ chức lễ hội.

Ban tế gồm 2 đội, một đội nam và một đội nữ, mỗi đội thường gồm 21 người, trong đó có một người chủ tế. Người chủ tế phải là người có thẻ vinh tử vượng, phu phụ song toàn, tử tôn hưng thịnh và khoẻ mạnh. Song song với việc chuẩn bị trên thì việc chuẩn bị đồ lễ vật cũng được tiến hành.

Công việc chuẩn bị xong cũng là lúc lễ hội đền Thính được diễn ra. Sau lễ khai mạc của Ban tổ chức lễ hội, lần lượt từng thôn trong và ngoài xã, theo lịch đã đăng ký tiến hành lễ rước từ đình thờ của làng mình lên đền Thính. Để chuẩn bị cho lễ rước kiệu của làng mình, người lớn thì chu đáo chuẩn bị lễ vật, thanh niên, các em nhỏ thì  háo hức tham gia lễ rước. Lễ vật là tất cả những gì đặc trưng nhất, thể hiện thành quả lao động của làng năm vừa qua dâng lên Thánh để tỏ lòng thành kính, biết ơn thành đã phủ hộ và cầu mong một năm sung túc, an lành cho dân làng. Khi đám rước của một thôn đến đền, cuộc tế lễ bắt đầu. Nội dung văn tế kể về công lao của Thánh đối với dân làng; mời Thánh về dự hội với dân làng, báo cáo thành tích của làng mình trong năm qua và cầu xin thánh phù hộ cho dân một năm mới làm ăn thịnh vượng, nhà nhà yên bình, làng xóm yên vui, người người mạnh giỏi.

Mùa xuân ngày 6 tháng giêng nhân dân Tam Hồng lại tấp nập đón khách thập phương về trẩy hội, làm lễ. Những hoạt động nhộn nhịp diễn ra tại lễ hội từ phần lễ có tính chất quy phạm nghiêm ngặt được cử hành chủ yếu trong không gian bên trong của đền (tế Quan Viên, rước kiệu, lễ dâng hương…) đến phần hội là phần sinh hoạt văn hoá dân gian mang tính chất mở phóng khoáng diễn ra khu vực ngoài  Tam Quan không giới hạn không gian, thời gian để dân làng cùng vui chơi hết mình và tình cảm cũng dịu dàng đằm thắm hơn (Chọi gà, đấu vật, ném còn, kéo co, …); các hoạt động văn hoá văn nghệ khác thu hút sự quan tâm của tất thảy mọi người đang có mặt và cả những người từng mong có một lần được mục sở thị. Truyền nối nét cổ xưa cha ông để lại, ngày nay chính quyền và nhân dân Tam Hồng đồng sức đồng lòng lo tổ chức lễ hội được chu toàn để làm vừa lòng khách đến, đẹp lòng khách đi. Quan trọng hơn là góp phần gìn giữ những nét văn hoá truyền thống của địa phương, dân tộc.

Bắc Cung Thượng -  đền Tranh

Đền Tranh nằm trên địa phận vùng Đông Lỗ và bến Vàng  xưa, nay là xóm Hoàng Thạch (xóm Tranh xưa) thôn Hoàng Thạch, xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc. Đền thờ Tam vị Đại Vương (Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh). Đền được xây dựng vào đầu thế kỷ IV; được tôn tạo vào các triều đại : Lý (1038); Hậu Lê (1469 và 1479), Mạc (1538)… Đền được hầu hết các triều đại phong sắc và năm 1993 được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận di tích văn hoá.

Theo truyền thuyết Sơn Tinh đánh đuổi quân Thục về vùng Đông Lỗ và bến Vàng. Thấy địa thế đẹp, ông truyền cho quân nghỉ, lập ngôi đền nhỏ cầu phúc cho dân và tiến quân về triều đình báo công, khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán, kết mối bang giao hữu hảo. Sau này, nhân dân thờ Tản Viên Sơn Thánh tại ngôi đền này.

Đền Tranh có vẻ đẹp thâm nghiêm, cổ kính. Đền nằm trên một khu đất cao so với xung quanh. Thế đất bằng phẳng, núp mình dưới bóng những cây cổ thụ xanh um, trước mặt đền là những cánh đồng màu mỡ. Phía sau đền, xa xa là dãy núi Tam Đảo bồng bềnh mây trắng.

Đền được kiến trúc theo kiểu chữ đinh (J), gồm hai toà tiền tế và hậu cung. Hai cung nhỏ nằm sát  một ngôi chùa khác, ở đây cũng có gian riêng thờ Phật, thánh. Vị trí chính của ngôi đền là toà tiền tế thờ Tam Vị Đại Vương. Ở đây con lưu giữ được một số tác phẩm điêu khắc bằng gỗ và một số đồ thờ bằng đồng có giá trị mỹ thuật cao. (Báo Vĩnh Phúc 24/3/2012)

Hằng năm, vào các ngày Rằm tháng Giêng, ngày 6-2 và 6-8 (âm lịch), đền Tranh lại tưng bừng tổ chức lễ hội với hình thức diễn xướng, khai sắc nhắc lại công lao đức Thánh Tản Viên; tiến hành nghi lễ nông nghiệp như gieo hạt, làm đất, chăm bón... cầu mùa màng bội thu. Trong lễ hội diễn ra nhiều trò chơi đu tiên, bơi thuyền, bắt vịt, lăn vòng, leo cây, vật, cờ tướng, thổi hiệu cốc quân... thu hút đông đảo nhân dân tham gia, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa vui tươi, lành mạnh và giáo dục truyền thống đoàn kết cho thế hệ trẻ. (Báo Vĩnh Phúc 24/3/2012)

  Đền Ngự Dội 

 Đền Ngự Dội nằm ở đầu thôn Duy Bình Bình, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc trên diện tích bãi bồi sông Hồng, quay mặt về hướng Tản Lĩnh. Theo truyền thuyết Sơn Tinh, từ khi có hành cung ở Đền Và, Thánh Tản thường lui tới vùng đất bên kia sông Hồng. Một lần, trên đường trở về Đền Và, Ngài dừng chân nghỉ ngơi tại một xóm nhỏ ven sông. Tuy đang tiết xuân mát mẻ, nhưng vì đi đường xa gió bụi, nên Ngài muốn tìm nước để tắm giội đôi chút. Nhìn quanh đấy, thấy một cô gái gánh đôi sọt đi cắt cỏ, Ngài đến bên lựa lời chào hỏi rồi ngỏ ý nhờ cô gánh cho một gánh nước sông Hồng. Cô gái tưởng chàng trai đùa lỡm nên cười ngặt nghẽo. Nhưng trước vẻ chân thực của chàng trai cô gái rất ngạc nhiên rồi chối từ vì sọt của cô chỉ đựng được cỏ, làm sao đựng được nước. Ngài cười và bảo cô cứ giúp thử xem sao. Quả nhiên, đôi sọt đựng được nước thật. Trong khi Ngài thoả thuê tắm giội thì cô gái chạy về loan báo với dân làng có chuyện lạ đời. Khi mọi người kéo đến nơi thì người tắm đã đi mất, xung quanh còn phảng phất hương trầm. Lúc ấy dân làng mới bừng tỉnh, nhận ra là chính đức thánh Tản vừa mới qua đây.

Lại nghe nói, khi mới gặp cô gái, nhân chuyện cắt cỏ, Ngài còn bày cho cô cách làm liềm thay cho con dao cô vẫn dùng để cắt được dễ hơn, nhanh hơn.

Ghi nhớ dấu tích và công đức của Ngài, dân làng Duy Bình đã dựng ngôi đền và đặt tên là đền Ngự Giội, ý muốn nhắc việc Ngài đã đến ngự và tắm giội ở đó trước khi về đền Và.

Theo trang du lịch Vĩnh Phú (tháng 2/2012) Đền Ngự Dội thờ tam vị Đại Vương là: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương. Lễ hội đền Ngự Dội diễn ra vào các ngày 14, 15 tháng Giêng hàng năm, tuy nhiên cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì 8 làng: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai (phường Trung Hưng, Sơn Tây); Phù Sa, Phù Nhi (xã Viên Sơn, Sơn Tây) rước kiệu sang đền Dội, còn vào những năm khác thì đền Dội lại rước kiệu sang đền Và.

Chiều ngày 14 tháng giêng, đoàn rước nước xuất phát từ đền Ngự Dội tiến ra bến sông Hồng lấy nước về làm lễ Mộc Dục cho thánh Tản Viên.  Đoàn rước gồm hai kiệu là kiệu lễ và kiệu chóe, đi đầu đội rước là đội rồng, tiếp theo là đội cờ, người thổi tù và, trống chiêng, phường bát âm, bát bửu, kiệu chóe, kiệu lễ, quan viên, dân làng… Ra tới bờ sông, kiệu chóe bắt đầu xuống thuyền. Đoàn rước bắt đầu chạy trên sông, chạy mấy vòng liền cho đến khi chủ tế múc xong nước vào chóe. Khi chín gáo nước tinh khiết đã được ông chủ tế múc từ vòng quang do cô gái đồng trinh thả dưới lòng sông vào chóe trong tiếng reo hò của đoàn người. Trời đã về chiều, đoàn rước quay đầu cập bến về đền Ngự Dội.

 Ngày hôm sau, lễ rước ngai Thánh đi từ mờ sáng, từ đền Và rước qua cầu Cộng, vào thị xã Sơn Tây, ra bến sông để xuống thuyền qua sông Hồng sang địa phận xã Vĩnh Ninh, Vĩnh Tường. Khi thuyền rước kiệu Thánh cập bờ, lá cờ ở đầu kiệu phất về phía bắc sông Hồng, lúc đó cả khúc sông vang lên tiếng reo hò hân hoan, người dự hội ùa ra đón kiệu Thánh với tất cả lòng tôn kính. Đoàn rước xếp thành một dãy dài với 8 kiệu, rước đi trong không khí tưng bừng, náo nhiệt, khua chiêng, gõ trống và ca hát… Khi đoàn rước về đến đền Ngự Dội, cũng là lúc diễn ra lễ khai hội cùng lễ tiến đón và lễ tế. Nhân dân hai bên bờ sông Hồng hòa mình vào trong không khí linh thiêng của lễ hội, tham gia các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, đánh đu... Khi lá cờ ở cổng đền phất về phía sông Hồng, đoàn người lại cùng nhau rước kiệu Thánh trở về bên đền Và ở bên kia sông Hồng.

Theo thần tích Đền Và thì cung Trung và cung Hạ (Tây Cung) là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.

Tuy gọi là Đông – Tây – Nam – Bắc cung nhưng nếu nhìn trên bản đồ thì các cung này nằm gần như trên cùng một đường thẳng chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, cắt vuông góc với sông Hồng ở gần Sơn Tây. Đây là cũng là hướng “tọa Cấn hướng Khôn”, hướng của Đền Thượng như ghi trong thần tích Đền Và.

Chùa Tản Viên

Cách đền Trung khoảng 300m, ở cùng độ cao cốt 600, là chùa Tản Viên. Chùa được đặt ở một địa thế tuyệt đẹp, lưng dựa vào núi, trước mặt là dòng sông Đà uốn khúc chầu vào.

Cách bài trí trong chính điện cũng khác hẳn với các ngôi chùa cổ ở đồng bằng Bắc Bộ, tạo nên ấn tượng đặc biệt cho du khách ngay khi mới bước vào. Ở giữa chính điện là pho tượng Đức Phật tổ Như Lai khổng lồ. Pho tượng này được tạc hoàn toàn bằng gỗ mít, cao 7,78m do nghệ nhân Thế Anh ở làng nghề Vạn Điểm – Thường Tín – Hà Nội chế tác, đó là một trong những pho tượng Phật lớn nhất Đông Nam Á hiện nay. Bên trái của chính điện là tượng Bồ Tát Phổ Hiền, bên phải là tượng Bồ Tát Văn Thù, với chiều cao 3,5m- cả hai pho đều bằng gỗ mít và hiện cũng là những pho tượng Bồ Tát lớn nhất Đông Nam Á.Khác với kiến trúc của các ngôi chùa cổ ở đồng bằng Bắc bộ với cổng tam quan, với quần thể chùa được thiết kế theo hình chữ tam hoặc chữ công, chủ yếu dựa trên chất liệu gỗ; chùa Tản Viên lại mang trong mình dáng dấp của một thiền viện; vòm mái xây cao, chất liệu hoàn toàn là bê tông cốt thép; tạo không gian rộng rãi và thoáng đáng, khi vào bên trong. Đến chùa Tản Viên, cảm nhận đầu tiên là sự khoáng đạt của không gian; sự đồ sộ và hoành tráng của một ngôi chùa lớn. Ngôi Đại Hùng Bảo Điện uy nghiêm tráng lệ 12 mái. Bốn phía đều có hàng hiên rộng với hàng lan can và cột đá bằng đá xanh được chạm khắc tinh xảo. Các chi tiết dù là nhỏ nhất cững đều được thiết kế hết sức tỉ mỉ và công phu.

Còn hàng ngàn đình thờ miếu mạo ở khắp nới trên đất Việt này đã thờ Đức Thánh Tản Viên cùng Cao Sơn, Quý Minh. Sơn Tinh biểu trưng cho tinh thần, dũng khí của dân tộc.

Tục thờ cúng Đức Thánh Tản Viên - Sơn Tinh đã trở thành một tín ngưỡng của người dân Việt từ hàng ngàn năm trước, hiện tại và sau này. Tín ngưỡng thờ cúng này đã trở thành một di sản văn hoá phi vật thể của dân tộc Việt Nam và cần được gìn giữ, bảo tồn và xứng đáng là di sản văn hoá phi vật thể Thế giới

1.5. Con gái của Sơn Tinh - Lâm Cung Thánh Mẫu 

Lâm Cung Thánh Mẫu (林宮聖母) hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền bắc và miền trung Việt Nam. Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện. Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng tam phủ hay tứ phủ. 

Bà là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương. Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.

La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường cùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc.

 Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chó

Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.

Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét ...

Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.

Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn, chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về ...

Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.

Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.

Người ta cho rằng các chiến công quân sự của nhiều triều đại Việt Nam đều có sự phù hộ của bà. Vì thế, các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho bà là công chúa.

Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy.

Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân Lê Lợi tiến vào giải phóng Nghệ AnThuận Hóa. Sau đó, với những trận thắng oanh liệt ở Tốt ĐộngChúc ĐộngChi Lăng và cuối cùng, bao vây quân Minh ở Đông Quan để kết thúc cuộc chiến, lập lại hòa bình cho nước Việt.

Công chúa Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và được coi là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều nơi người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được bà chấp thuận. Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn tại Đền Mẫu Đợi ở làng Dụ Đại xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình để tưởng nhớ công ơn của Ngài đối với địa phương và dân tộc Việt Nam.