Video
Công đức
Sách: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM (NXB VH - TT XB 2014)

CHƯƠNG VI: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ HẬU LÊ - LÊ SƠ (1428-1527)

6.1. Nhà Hậu Lê (Hán-Nôm: 家後黎・後黎朝, nhà Hậu Lê • Hậu Lê triều1427-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam, tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với nhà Mạcnhà Tây Sơn trong một thời gian, trước nhà Nguyễn.

Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Hoàn lập ra cuối thế kỷ 10. Nhà Hậu Lê gồm có 2 giai đoạn:

Cách gọi nhà Hậu Lê bao gồm cả 2 giai đoạn Lê sơ và Lê trung hưng. Đặc biệt, thời Lê trung hưng tuy kéo dài nhưng các vua Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt. Khi nhà Mạc bị đánh bại phải chạy lên Cao Bằng (1592, tới năm 1677) thì công thần có công đánh Mạc là họ Trịnh đã nắm hết quyền hành. Công thần họ Nguyễn không thần phục họ Trịnh, ly khai ở phía nam, do đó phần lớn hậu kỳ thời Lê trung hưng, nước Đại Việt lại bị chia cắt bởichúa Trịnh và chúa Nguyễn, gọi là Trịnh Nguyễn phân tranh.

Nhà Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh (Trung Quốc) do Lê Lợi lãnh đạo.

Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân danh "Phù Trần diệt Hồ", nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê Lợi đã tìm lập Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối năm1426.

Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.

Ít lâu sau Trần Cảo chết. Lê Lợi tự mình lên ngôi vua, rồi sai sứ sang tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng giêng năm 1428 âm lịch, do đó Lê Lợi có danh chính để làm vua Đại ViệtMinh Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.

Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, được sử gọi là Lê sơ.

Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh.

Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam và đã mở mang được bờ cõi.

Quân đội nhà Lê thời Thánh Tông đã được xây dựng rất hùng mạnh. Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh Tông sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh. và thân chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành.

Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn. 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.

Bấy giờ 1 tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.

Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, vua nhà Minh sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.

Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.

Bồn Man, lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, tỉnh Hủa Phăn (Lào) và tỉnh Sơn La ngày nay, trước đây đã xin nội thuộc Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm, sau đó đổi thành phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, bèn đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.

Vua Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua thì rút về và cử Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm Công cũng tử trận.

Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công và Cầm Đông làm Tuyên Úy Đại Sứ và đặt lại quan cai trị như trước, đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.

Năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu miền tây Đại Việt.

Lê Thánh Tông sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ Nghệ AnThanh Hóa và Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới sông Kim Sa giáp với Miến Điện. Quân Đại Việt toàn thắng.

Dù phát triển thịnh trị nhưng bên trong cung đình nhà Hậu Lê từ buổi đầu thành lập và sau này vẫn hay xảy ra xung đột.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Cung Hoàng lên ngôi, lập ra nhà Mạc. Nhà Lê sơ truyền đúng 100 năm và mất chỉ 30 năm sau cái chết của vua Lê Thánh Tông.

Dù sao, nhà Lê sơ cũng có công rất lớn đối với dân tộc và là một triều đại có thể nói là " được lòng dân " nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam. (http://vi.wikipedia.org/)

6.2. Nguyễn Trãi (1380 – 19 tháng 9 năm 1442), quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí LinhHải Dương). Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán.

Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông.

Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hoá của Việt Nam và thế giới

Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Mối lương duyên của thân phụ và thân mẫu Nguyễn Trãi là một ngoại lệ đối với những qui định hôn nhân khắt khe của tôn thất nhà Trần, Trần Nghệ Tông đã không cho Nguyễn Phi Khanh làm quan khi ông đỗ Thái học sinh vì ông là kẻ thứ dân mà lấy vợ giàu sang, cho rằng như vậy là phạm thượng.

Đôi vợ chồng trẻ có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng. Nhưng chưa được bao lâu thì bà Trần Thị Thái qua đời, anh em Nguyễn Trãi lại nương nhờ ông ngoại là Trần Nguyên Đán nhưng đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con ăn học.

Ở Nhị Khê, Nguyễn Phi Khanh đã ra công rèn cặp các con theo khuôn khổ Nho giáo mà có lẽ là Nho giáo Khổng Mạnh chứ không học Tống Nho vì Hồ Quý Ly đã bài bác Tống Nho là không thiết thực. Tuy còn ít tuổi nhưng Nguyễn Trãi rất ham học. Điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc:

Cố viên loạn hậu hữu tiên lư

Lục tuế nhi đồng phả ái thư

Nghĩa là:

Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ

Sáu tuổi con thơ rất thích sách

Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét Ông [Nguyễn Trãi] tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả[7]

Năm 1400Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trầnnhà Hồ thành lập. Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư, được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1407Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc, trong số đó có Nguyễn Phi Khanh. Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc.

Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà.

Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể. Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển (mười năm phiêu dạt) lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối.

 * Theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi đâu. Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa.

* Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận xét Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có đi đâu không ? 

* Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa.

* Ngoài ra, còn có một số người đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng sang Trung Quốc ở thời kì này, dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình Nam dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam), Ngô ChâuGiang TâyThiều Châu Văn Hiến miếu (Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu), Đồ trung kí hữu (Trên đường gửi bạn)...

Tổng kết về giai đoạn này của cuộc đời Nguyễn Trãi, Nguyễn Lương Bích khẳng định:

Những tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược”

Thời điểm Nguyễn Trãi lên Lỗi Giang yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện nay các tài liệu chưa được thống nhất.

* Một số học giả cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ hội thề Lũng Nhai vào năm 1416.

* Có người khẳng định Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420 hoặc 1421 hay sau đó một chút

* Với một số phát hiện mới, đặc biệt là bản Đinh tộc ngọc phả của dòng họ Đinh Liệt thì Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn và Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ, đến Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân vào mùa xuân năm 1423. Đinh tộc ngọc phả cũng ghi chép một câu chuyện về sự ra mắt của Nguyễn Trãi. Khi ấy, quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba, lương thực thiếu thốn, quân sĩ mỏi mệt. Về phía quân Minh cũng lúng túng với việc đánh dẹp quân khởi nghĩa, có ý muốn giảng hoà. Ngày 6 tháng 4 năm 1423 (tức ngày 26 tháng 2 âm lịch năm Quý Mão), Bình Định Vương cùng các tướng lĩnh hội bàn phương lược khởi nghĩa. Lê SátLê ThụĐinh BồPhạm Vấn kiên quyết muốn đánh nhưng Đinh Liệt chủ trương hoà hoãn để xây dựng lực lượng. Nguyễn Trãi theo Nguyễn Nhữ Lãm đẩy cửa bước vào, ung dung phân tích phải trái, khuyên Bình Định Vương nên giảng hoà với quân Minh làm thượng sách. Ý kiến ấy của Nguyễn Trãi nhanh chóng được chấp thuận.

Ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn trao cho vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh mà chủ yếu là tâm công (心 攻), đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng

Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân.

Tháng 6 năm 1423, Lê Vận và Lê Trăn được Bình Định Vương cử làm sứ giả, mang lễ vật là năm đôi ngà voi cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hoà. Lời lẽ trong thư rất mềm dẻo, khôn khéo, Tổng binh nhà Minh là Trần Trí chấp thuận ngay. Từ đây, mọi thư từ giao thiệp giữa quân Lam Sơn và quân Minh cũng như văn thư hiểu dụ các thành trì đều do một tay Nguyễn Trãi soạn thảo.

Nguyễn Trãi cũng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật (hoặc mỡ) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (黎利為君, 阮廌為臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê SátPhạm VấnLê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.

Tranh thủ thời gian hoà hoãn hiếm hoi, Lê Lợi dẫn quân về Lam Sơn, nhanh chóng củng cố lực lượng. Năm 1424, Trần Trí biết rằng không thể chiêu dụ Lam Sơn đầu hàng, bèn bắt giữ sứ giả Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa bước vào một giai đoạn mới.

Chấp thuận ý kiến của Nguyễn Chích, tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào nam, tấn công đồn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An. Kết hợp với các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho Phương Chính để khiêu chiến với tướng này, hòng khiến quân Minh sơ hở. Tuy nhiên, thành Nghệ An vẫn cố thủ không chịu đầu hàng. Tháng 8 năm 1425, Bình Định Vương mở cuộc tấn công vào Tân Bình, Thuận Hoá và liên tiếp giành được thắng lợi. Cho đến cuối năm 1425, không chỉ Nghệ An mà cả miền đất từ dãy Tam Điệp trở vào đèo Hải Vân đều thuộc địa bàn quản lí của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh chỉ còn cố thủ trong năm thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá chờ cứu viện.

Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Bình Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi trở ra bắc. Đầu năm 1427Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đồng thời, ông cũng sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại.

Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan: các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 1427. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần. Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông QuanCổ LộngTây Đô... mà thôi.

Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng TâyMộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng - Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn toàn. Quân Minh ở Đại Việt lâm vào tình thế khốn quẫn hoàn toàn, buộc phải đề nghị giảng hoà. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử kí Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rõ rằng

Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói "Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được", nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra

Nhờ đó, quân Minh nhanh chóng giảng hoà, tổ chức hội thề Đông Quan và rút toàn quân về nước. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Nguyễn Trãi can nên tha cho những người cùng đường. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình thành.

Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính (họ Lê) và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thần. Ngày 29 tháng 4 năm 1428Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh

Sau khi thành lập, triều đình bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn phe cánh, dẫn đến một loạt vụ án phản nghịch liên quan đến các công thần. Đầu năm 1429, Trần Nguyên Hãn tự tử sau khi Lê Thái Tổ ban chiếu bắt giam ông nhân việc một số quan lại như Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá dâng sớ tố cáo Hãn mưu phản. Hai năm sau, Lê Lợi tiếp tục sai giết Phạm Văn Xảo khi bọn Lê Quốc Khí tố cáo ông ngầm làm phản. Những người mà bọn Lê Quốc Khí không bằng lòng đều bị vu cho là bè đảng của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, bị xử tử và tù giam rất nhiều

Không rõ Nguyễn Trãi có bị vu cáo như vậy không, nhưng theo phỏng đoán của một số sử gia hiện đại thì thời gian này Nguyễn Trãi đã bị bắt và hạ ngục. Dựa vào thơ văn của ông như bài “Oán thán” kể lại tâm sự của Nguyễn Trãi khi bị tù đày vào hồi ông khoảng năm mươi tuổi (tức năm 1429) hoặc những lời trần tình xúc động trong bài biểu mà ông dâng lên vua Lê Thái Tông để tạ ơn được ban chức Gián nghị đại phu, rất có thể Nguyễn Trãi đã bị nghi ngờ có liên quan đến Trần Nguyên Hãn nên bị bắt, sau lại được tha. Lê Thái Tổ tha cho Nguyễn Trãi, nhưng tước bỏ quốc tính của ông và không trọng dụng ông nữa. Suốt thời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi không được làm một việc chính sự quan trọng nào cả, ngoại trừ việc thảo các chiếu biểu thay vua theo đúng chức phận của một vị quan Học sĩ ở Hàn Lâm viện. Cuộc sống riêng của Nguyễn Trãi ở Thăng Long cũng rất nghèo túng, thiếu thốn như trong bài: Thủ vĩ ngâm

Góc thành nam lều một gian

No nước uống thiếu cơm ăn

[..]

Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải

        Góc thành nam lều một gian.

Năm 1433Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi

Lê Thái Tông được chỉ định nối ngôi vua chỉ hơn một tháng trước khi Lê Thái Tổ qua đời. Điều này được một số nhà sử học hiện đại cho là kết quả của cuộc tranh giành quyền lực gay gắt giữa ông và anh trai là Quận Ai Vương Lê Tư Tề, người sau này bị phế làm dân thường và chết một cách bí ẩn. Lê SátPhạm Vấn và Lê Ngân trở thành phụ chính đại thần, nhận di mệnh của Lê Thái Tổ để phò giúp vị vua trẻ tuổi.

Nhưng, Lê Thái Tổ cũng có một cố mệnh khác. Lê Quý Đôn cho biết rằng: “Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính” (Lê Quý Đôn - Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi)

Trần Huy Liệu phỏng đoán rằng, trước khi chết, Lê Lợi đã suy nghĩ lại và dặn dò Thái tử Nguyên Long phải đặt Nguyễn Trãi vào một chức vị khác trong triều đình.

Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi. Sau đó, ông lại được tiến cử vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó

Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với hoạn quan Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế lễ nghi trong triều đình. Đây vốn là công việc mà Nguyễn Trãi được Lê Thái Tổ sai làm từ trước, nhưng chưa kịp thi hành. Ngay tháng ấy, Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu rằng:

Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể thi hành. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hoà. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cỗi gốc của nhạc vậy”

Tuy nhiên, vì bất đồng ý kiến gay gắt với Lương Đăng, chỉ bốn tháng sau, Nguyễn Trãi xin rút lui khỏi công việc này. Tháng 12 năm1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cầm đầu một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối. Kết quả, Nguyễn Liễu bị đày ra viễn châu do có lời phỉ báng hoạn quan trước mặt vua

Không chỉ thất bại trong công tác chế định nhã nhạc, Nguyễn Trãi còn chịu nhiều định kiến từ các nhân vật nắm giữ quyền hành thời bấy giờ như Lê SátPhạm Vấn... Năm 1434, triều đình bận rộn với chuyến đi sứ sang nhà Minh, xin cầu phong cho vua Lê Thái Tông. Tờ biểu văn cầu phong do Nguyễn Trãi soạn, quan ở Nội mật viện là Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn sửa đối vài chữ. Nguyễn Trãi không cho, giận dữ mắng hai viên quan ấy là tham lam vơ vét, dẫn đến nạn hạn hán đang hoành hành lúc bấy giờ Nguyễn Thúc Huệ đem nói việc đó với Lê Sát và Phạm Vấn, khiến hai người tức tối, trách mắng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi từ tạ nhưng Lê Sát vẫn giận không nguôi. Mâu thuẫn rắc rối đến độ, trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, các quan đại thần đá việc và mắng xéo lẫn nhau. Số là bảy tên tội phạm này đều còn ít tuổi, đi ăn trộm chiếu luật đáng xử trảm, nhưng các quan còn ngần ngại vì phải giết nhiều người quá. Khi được vua Lê Thái Tông hỏi về cách xử lý, Nguyễn Trãi đã khuyên vua nên thi hành nhân nghĩa. Nhân lời tâu của Nguyễn Trãi, Lê SátLê Ngân mỉa mai ông là có nhân nghĩa, có thể cảm hoá được kẻ ác thành người thiện, rồi yêu cầu Nguyễn Trãi nhận và giải quyết mấy tên tù ấy. Nguyễn Trãi bối rối từ chối, tự nhận rằng "Những kẻ ấy là hạng trẻ con ranh mãnh, ương ngạnh, pháp luật của triều đình còn không thể trừng giới được, huống chi bọn tôi ít đức thì cảm hoá thế nào được ?". Hồi lâu sau mới quyết định trảm hai tên, còn thì xử lưu đày.

Vì vậy, khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn- nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua. Nguyễn Mộng Tuân từng đến chơi nhà ông và có câu thơ rằng:

一 條 水 冷 知 三 館

四 壁 家 貧 冨 六 經

Nhất điều thuỷ lãnh tri Tam quán

Tứ bích gia bần phú lục kinh

Nghĩa là

Nhà quan Tri Tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước

Bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở

Những năm Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn cũng là những năm mà Lê Thái Tông, tuy chỉ là một vị vua thiếu niên, nhưng đã nắm lấy quyền hành cũng như thẳng tay trừng trị Lê SátLê Ngân và nhiều người trong phe cánh của họ. Nhà vua cũng có những động thái tỏ ý trọng dụng lại vị lão thần Nguyễn Trãi.

Năm 1439Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự. Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo. Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực.

Vụ án Lệ Chi Viên: Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Nhà vua lúc đó mới hai mươi tuổi, đang độ thanh niên, không ai nghĩ rằng đó lại là chuyến tuần du cuối cùng của vua. Và kéo theo sau đám tang là một vụ án oan khiên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu thí nghịch.

Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và gia quyến đều bị tru di tam tộc. Vị khai quốc công thần đã kết thúc cuộc đời ở tuổi 63 trong một hoàn cảnh bi phẫn và oan khuất.

Được phục hồi danh dự: Sau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy năm 1447. Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thưNgọc đường di cảoGiao tự đại lễ,... Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù - một người con của Nguyễn Trãi - chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.

Thời điểm Nguyễn Trãi mất cũng gần thời điểm vua Lê Nhân Tông lên ngôi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. Ngày 18 tháng 10 năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân đảo chính, giết Lê Nhân Tông và Thái hậu, lên ngôi vua bốn ngày sau đó và trở thành vị vua thứ tư của nhà Hậu Lê. Thế nhưng, thời gian trị vì của vị vua này kết thúc vào ngày 24 tháng 6 năm 1460 khi các quan đại thần như Đinh LiệtNguyễn XíLê Lăng,... tổ chức cuộc binh biến lần thứ hai, phế truất và giết Lê Nghi Dân. Gia Vương Lê Tư Thànhđược tôn lên ngôi vào ngày 26 tháng 6 năm ấy, trở thành vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê - Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là con trai của Lê Thái Tông với bà Quang Thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, người từng chịu ơn cứu mạng của vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ trong những ngày bà mang nặng đẻ đau vua Lê Thánh Tông năm 1442. Có lẽ vì thế, dù chưa từng và không thể gặp mặt Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông hẳn có sự chú ý đặc biệt với vị lão thần quá cố.

Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm oan khuất, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, rồi lại truy tặng tước hiệu Thái Sư Tuệ Quốc Công, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện

Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu:

Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên

Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế

Dịch là:

Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ

Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau”

Gia đình: Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai

Vợ

  • Bà Phạm Đỗ Minh Hiển
  • Bà Phùng Thị
  • Bà Nguyễn Thị Lộ
  • Bà Phạm Thị Mẫn
  • Bà Trần Anh Minh.

Con

  • Nguyễn Khuê (con bà Trần Thị)
  • Nguyễn Ứng (con bà Trần Thị)
  • Nguyễn Phù (con bà Trần Thị)
  • Nguyễn Bảng (con bà Phùng Thị)
  • Nguyễn Tích (con bà Phùng Thị)
  • Nguyễn Anh Võ(con bà Phạm Thị)
  • Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương (con bà Lê Thị)

Về phẩm chất công lao của ông đã đựoc nhiều đời ghi nhận:

Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi

Danh ghi thanh sử sáng bằng gương 

  • Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy.
  • Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời 
  • Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: "đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được".
  • Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm
  • Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao... Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta.

Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.

Năm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông. Sau đó, vào các năm 19621967Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962[88]. Năm 1980, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm 1964.

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn SơnHải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003.

Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Tên ông cũng đã được đặt tên cho một con đường lớn ở Hà Nội, nối liền với quốc lộ 6 và tại nhiều thành phố khác ở Việt Nam.

Năm 1980UNESCO công nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới. (http://vi.wikipedia.org/)

6.3. Nguyễn Lý (阮理, ? - 1445) là tướng quân Lam Sơn, công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.

Theo các tài liệu lịch sử, Nguyễn Lý sinh nào chưa rõ. Ông là người thôn Dao Xá, huyện Thủy Nguyên – nay là xã Xuân Lamhuyện Thọ XuânThanh HóaViệt Nam.

Nguyễn Lý là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu. Từ năm 1416, ông đã cùng dự Hội thề Lũng Nhai với Lê Lợi và 16 người khác.

Trong những ngày đầu khởi nghĩa năm 1418, quân Lam Sơn còn yếu và hay bị quân Minh đánh bại.

Tháng 5 năm 1418, Lê Lợi phải lui toàn quân về Lạc Thủy. Tướng Minh là Mã Kỳ mang quân đuổi đánh. Nguyễn Lý cùng Lê Thạch, Đinh Bồ, Lê Ngân được lệnh mang quân mai phục đánh địch. Ngày 18 tháng 5 năm 1418, quân Minh tiến đến Lạc Thủy bị mai phục. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trận đó Nguyễn Lý chém 3000 quân địch và thu được nhiều quân khí.

Năm 1420, ông cùng các tướng Lam Sơn chống lại một đợt tấn công mạnh của quân Minh vào Mường Thôi. Đại Việt thông sử chép, khi đó tướng Minh là Lý Bân, Phương Chính có 10 vạn quân, được thủ lĩnh địa phương là Cầm Lạn ở Quỳ châu dẫn đường tiến vào chỗ Lê Lợi đóng quân. Nguyễn Lý cùng Lý Triện, Phạm Vấn được lệnh mang quân mai phục ở xứ Bồ Mộng, đánh cho quân Minh bị tổn thất nhiều. Tuy nhiên do lực lượng còn đông, Lý Bân vẫn tiến quân lại gặp quân mai phục của Lê Lợi ở Thi Lang, bị thua phải rút về.

Sau đó trong các trận đánh ở Khả Lưu, Nghệ An, Nguyễn Lý đều tham gia lập công và được Lê Lợi phong làm Thái úy.

Cuối năm 1426, ông cùng Lê Sát mang quân đi vây thành Xương Giang. Đầu năm 1427, khi thành chưa hạ được, ông được lệnh về cầm quân vây cửa nam thành Đông Quan.

Tháng 8 năm 1427, ông theo Trần Nguyên Hãn trở lại công phá Xương Giang và đến tháng 9 âm lịch thì phá được thành đó, làm viện binh của Liễu Thăng mất đi điểm tựa khi tràn qua biên giới.

Cũng trong tháng 9 năm 1427, Lê Sát đã chém được Liễu Thăng ở Chi Lăng nhưng quân Minh vẫn đông và mạnh. Nguyễn Lý được lệnh cùng Lê Văn An mang 3 vạn quân lên tiếp ứng cho Lê Sát, giết được tướng Minh là Lương Minh.

Quân Minh dưới quyền chỉ huy của Thôi Tụ và Hoàng Phúc cố tiếp tục tiến về Đông Quan, nhưng đến Xương Giang mới biết thành bị quân Lam Sơn hạ rồi, phải đóng quân ở giữa đồng không.

Tháng 10 âm lịch, ông cùng các tướng Lam Sơn tổng tấn công giết và bắt sống toàn bộ số quân Minh còn lại của đạo viện binh dưới quyền Thôi Tụ. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi.

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ. Nguyễn Lý được phong làm nhập nội tư mã, Suy trung tán trị Hiệp mưu công thần. Ông được cải sang họ Lê của vua.

Năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc bảng tên 93 công thần, tên ông đứng hàng thứ 6, được phong làm Hương thượng hầu.

Năm 1430, ông được phong làm Nhập nội kiểm hiệu tư không.

Năm 1433, Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên thay, Lê Sát làm phụ chính.

Do bị Lê Sát ghét, năm 1434, ông bị đưa đi làm Tổng đốc Thanh Hóa. Đến tháng 6 năm đó lại đổi làm đồng Tổng quản lộ Bắc Giang hạ.

Năm 1437, Lê Sát lộng quyền bị Lê Thái Tông giết, ông được gọi về làm Nhập nội hiệu úy, tham tri việc quân ở các vệ thuộc Tây đạo.

Năm 1443, đời Lê Nhân Tông, ông mất, không rõ bao nhiêu tuổi. Năm 1484, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm thái bảo, Phúc quốc công. (http://vi.wikipedia.org/)

6.4. Nguyễn Chích (阮隻) hay Nguyễn Chính (13821448) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh HóaViệt Nam.

Theo Văn bia quốc triều tả mệnh công thần, Nguyễn Chích mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Ông là người ít nói, ít cười, hiền lành, trung thực, có chí lớn.

Năm Nguyễn Chích 25 tuổi, nước Đại Ngu của nhà Hồ mất do cuộc xâm lược của nhà Minh. Ông nuôi chí đánh đuổi người Minh để cứu nước.

Sử sách không chép rõ thời điểm Nguyễn Chích nổi dậy chống quân Minh, nhưng các nhà nghiên cứu thì ông khởi nghĩa khoảng sau khi nhà Hậu Trần mất (1413) cho tới trước khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (1418). Căn cứ ban đầu mà ông xây dựng là tại Vạn Lộc. Từ Vạn Lộc, Nguyễn Chích đánh ra các vùng xung quanh, cả huyện Đông Sơn quân Minh không dám đến cướp phá.

Sau đó Nguyễn Chích tiến quân đánh chiếm núi Hoàng và núi Nghiêu là vùng giáp 3 huyện Đông Sơn, Nông Cống và Triệu Sơn, xây dựng khu vực này thành căn cứ lớn. Căn cứ này có vách núi dựng đứng và sông Hoàng chảy qua là chiến hào tự nhiên, thuận lợi cho việc phòng thủ lẫn tiến công.

Từ Hoàng Nghiêu, Nguyễn Chích mở rộng phạm vi hoạt động ra vùng lân cận ở Thanh Hoá và bắc Nghệ An. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Hiệu lệnh của ông được thi hành ở các huyện Đông Sơn, Nông Cống và Ngọc Sơn".

Quân Minh lo lắng. Tướng người Việt theo quân Minh là Lương Nhữ Hốt tìm cách dụ hàng Nguyễn Chích nhưng thất bại.

Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thọ XuânThanh Hoá). Nghe tin thanh thế của Nguyễn Chích, Lê Lợi sai người mang thư đến mời ông về cùng tham gia quân Lam Sơn. Nguyễn Chích đồng ý theo Lê Lợi, nhưng thời gian đầu ông vẫn ở căn cứ Hoàng Nghiêu. Từ Hoàng Nghiêu, ông mang quân ra đánh Lương Nhữ Hốt ở đồn Cổ Vô, được Lê Lợi phong chức Vinh lộc đại phu Lân hổ vệ tướng quân. Sau đó Lê Lợi lại phong ông làm Đô đốc đạo phủ quản tổng đô đốc quân dân, tước Quan nội hầu.

Cuối năm 1420, ông mang toàn bộ lực lượng gia nhập với Lê Lợi – lúc đó đóng mở Mường Nanh. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết đột hữu vệ Đồng tổng đốc chủ quân sự.

Từ năm 1421 đến 1423, ông tham gia nhiều trận đánh với quân Lam Sơn như trận Ba Lẫm (tháng 12 năm 1421) và trận Sách Khôi (tháng 2 năm 1422) đánh bại 10 vạn quân Minh của Trần Trí. Ông được Lê Lợi thăng lên chức thiếu uý.

Từ năm 1418 đến 1423, quân Lam Sơn chỉ hoạt động quanh quẩn ở vùng núi Thanh Hoá, bị quân Minh nhiều lần đánh bại. Trong tình thế khó khăn, Lê Lợi đã phải giảng hoà với quân Minh để củng cố thực lực. Cuối năm 1424, khi sứ giả quân Lam Sơn là Lê Trăn bị quân Minh bắt giữ, Lê Lợi bèn cắt đứt giảng hoà với địch.

Vào thời điểm đó, Nguyễn Chích đã hiến kế với Lê Lợi:

Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay hãy đánh trước lấy Trà Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ.

Chấp thuận kế hoạch của ông, Lê Lợi quyết định tiến vào Nghệ An. Đầu tiên quân Lam Sơn tập kích đồn Đa Căng (nay thuộc xã Vạn Hòa - Nông Cống, Thanh Hoá). Tháng 11 năm 1424 quân Lam Sơn liên tiếp giành thắng lợi, hạ thành Trà Lân và tiến vào Nghệ An, sau đó đánh bại quân Minh ở Khả Lưu, Bồ Ải (tháng 5 năm 1425).

Thành Nghệ An bị bao vây cô lập, quân Lam Sơn tiến ra đánh Diễn châu và Tây Đô (tháng 6 năm 1425). Nhân đà thắng lợi, tháng 8 năm 1425, Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn mang quân vào đánh chiếm đất Tân Bình và Thuận Hoá. Hai thành này cũng bị vây.

Các nhà sử học đánh giá rất cao về kế vào Nghệ An của Nguyễn Chích. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm kể từ khi thực hiện kế hoạch của ông, quân Lam Sơn làm chủ 1 vùng rộng lớn từ Thanh Hoá và Thuận Hoá, bao vây các thành địch. Nếu so sánh với thời gian 6 năm 1418 – 1423 chỉ quanh quẩn ở mấy huyện ở Thanh Hoá thì thấy hiệu quả của việc thay đổi chiến thuật này rất lớn.[3]

Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi kéo đại quân ra bắc, quân Lam Sơn liên tiếp thắng trận, đánh tan các đạo viện binh của Vương An Lão và Vương Thông, đẩy quân Minh vào thế phòng thủ ở Đông Quan và các thành ở Bắc Bộ. Trong thời gian đó, Nguyễn Chích được giao việc vây thành Nghệ An. Sau đó ông được Lê Lợi điều ra bắc, giữ chức tổng tri Hồng châu và Tân Hưng.

Đầu năm 1427, ông cùng tướng Bùi Quốc Hưng mang quân bao vây, hạ thành Tiêu Diêu (Gia LâmHà Nội) và Thị Cầu (Bắc Ninh), quân Minh trong hai thành này phải mở cửa ra hàng.

Sau khi các tướng vây thành Đông Quan là Đinh Lễ, Lý Triện tử trận và Nguyễn Xí cùng Đỗ Bí bị bắt khi quân Minh đánh úp từ trong ra, Lê Lợi điều ông về vây mặt nam thành này.

Cuối năm 1427, viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh lại sang cứu Vương Thông. Nguyễn Chích cùng Phạm Văn Xảo,Trịnh Khả, Lê Khuyển lên trấn ải Lê Hoa để chặn Mộc Thạnh. Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, Mộc Thạnh rút quân về nước. Quân Lam Sơn đuổi theo truy kích một trận nữa.

Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, lập ra nhà Hậu Lê. Năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình thượng hầu, ban cho họ Lê của vua. Từ đó ông được gọi là Lê Chích.

Thời gian đầu, Lê Chích được tham gia triều chính nhưng sau đó ông bị Lê Lợi cách chức. Các nhà nghiên cứu cho rằng, sử không chép rõ về tội lỗi của ông, việc ông bị cách chức do sự nghi ngại công thần của Lê Lợi.

Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, con là Lê Thái Tông lên thay. Lê Chích được phục chức làm Đồng tổng quản châu Hoá, trấn thủ Thát Ải.

Quân Chiêm Thành hai lần cướp phá, ông đều chặn đánh tan, giữ yên biên giới phía nam. Sau đó, Lê Chích còn lập công trong 2 lần đi đánh Chiêm Thành, được phong tước Đình hầu.

Tháng chạp năm 1448, Nguyễn Chích mất, thọ 67 tuổi. Lê Nhân Tông truy tặng ông làm Nhập nội tư không bình chương sự, Hiến quốc công, thuỵ hiệu là Trinh Vũ.

Thời Nguyễn, Gia Long liệt ông vào làm bậc công thần khai quốc nhà Lê thứ nhì (năm 1802).

Trong sách Kiến văn tiểu lụcLê Quý Đôn ca ngợi ông như sau:

Bầy tôi có ông khai quốc, kể về bậc tài trí cần lao không phải là hiếm nhưng sở dĩ [vua Lê Thái Tổ] đã bình định được cả nước là do mưu chước của Lê Chích… Không cần phải đánh mà được thành Đông Đô, lấy hoà hiếu để kết thúc chiến tranh, tuy là mưu kế của Nguyễn Trãi, nhưng trước hết làm cho căn bản mạnh để thu thắng lợi hoàn toàn thực chất là bắt đầu từ Lê Chích

Tại xã Đông Ninh hiện có đền thờ và văn bia Tướng quân Nguyễn Chích .

Tại phố Thống Nhất 1, phường Trường Thi có đền thờ Tướng quân Nguyễn Chích.

Hiện nay, tên của ông (Nguyễn Chích) đã được đặt cho một đường phố của thành phố Thanh Hoá (tại phường Nam Ngạn) và một trường trung học cơ sở của huyện Đông Sơn (tên cũ là trường Năng khiếu Đông Sơn). Tại quận Liên Chiểu (Đà Nẵng) có phố Nguyễn Chích và tại quận Hoàng Mai (Hà Nội) có phố Nguyễn Chính. (http://vi.wikipedia.org/)

6.5. Nguyễn Xí (chữ Hán: 阮熾; 1396-1465) là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương Giánhuyện Nghi XuânHà TĩnhViệt Nam, tên của ông còn được đặt cho một số con đường ở thủ đô Hà NộiThành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác.

Ông nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp, cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Tại đây Nguyễn Hợp đã cùng Nguyễn Hội khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai: Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam Sơn.

Năm lên 9 tuổi (1405), Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Khi hơi lớn, Nguyễn Xí đã tỏ ra vũ dũng hơn người, được Lê Lợi quý như con cháu trong nhà.

Lê Lợi sai ông nuôi một đàn chó săn 100 con. Ông chia cơm, dùng hiệu chuông dạy chó rất tài, cả đàn răm rắp nghe theo lệnh. Lê Lợi cho rằng ông có tài làm tướng nên sai ông quản đội Thiết đột thứ nhất.

Năm 1418, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí cùng tham gia, lúc đó ông 22 tuổi. Ông thường theo hầu hạ bên Lê Lợi những lúc hiểm nghèo ở núi Chí Linh.

Tháng 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn XảoĐỗ BíTrịnh KhảLê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.

Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan (Thăng LongHà Nội).

Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang. Vua Minh lại sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.

Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, ông biết Thông định chia đường, hẹn nhau khi pháo nổ thì quân mặt trước mặt sau cùng đánh úp Lê Triện. Ông và Đinh Lễ bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động, rồi đốt pháo giả làm hiệu cho quân Minh tiến vào. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Lê Lợi được tin thắng trận liền tiến đại quân ra bắc, vây thành Đông Quan. Nguyễn Xí được lệnh cùng Đinh Lễ mang quân vây phía nam thành.

Tháng 2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính đánh úp Lê Triện ở Từ Liêm, Triện bị tử trận. Tháng 3 Vương Thông đánh trại quân Lam Sơn ở Tây Phù Liệt. Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ mang 500 quân thiết đột tiếp viện, đánh đuổi quân Minh đến My Động. Hậu quân Lam Sơn không theo kịp, Vương Thông bèn quay lại đánh, hai tướng cưỡi voi bị sa xuống đầm lầy, bị quân Minh bắt mang về thành. Đinh Lễ không chịu hàng bị giết, còn Nguyễn Xí nhân một đêm mưa gió dùng mưu lừa quân gác ngục trốn thoát trở về. Lê Lợi thấy ông về mừng rỡ.

Sau đó ông lại cầm quân tham gia trận chiến Xương Giang tiếp ứng cho Lê Sát bắt được Hoàng Phúc, Thôi Tụ là đạo viện binh sót lại sau khi Liễu Thăng bị chém. Đó là trận thắng lợi kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn.

Ông là công thần 4 đời vua:

Năm 1428, Nguyễn Xí được phong chức Long hổ tướng quân Suy trung bảo chính công thần.

Năm 1429, khi khắc biển công thần, Nguyễn Xí được xếp hàng thứ 5, được phong làm huyện hầu.

Năm 1437 đời Lê Thái Tông, ông làm chức quan chính sự kiêm Tri từ tụng.

Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò vua Lê Nhân Tông.

Năm 1445, vua Nhân Tông còn nhỏ, Nguyễn Thái hậu nhiếp chính, ông làm Nhập nội đô đốc, nhận lệnh cùng Lê Thận mang quân đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi thì bị quyền thần tố cáo tội lỗi nên bị bãi chức. Năm 1448 Nguyễn Xí được phục hồi chức thiếu bảo.

Tháng 10 năm 1459, anh Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết vua lên ngôi, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng bị bại lộ đều bị giết. Nguyễn Xí bàn mưu với Lê Lăng (con Lê Triện), Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) lật đổ Nghi Dân lần nữa.

Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460 Nguyễn Xí phát động binh biến, chém bầy tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở nghị sự đường, nắm lấy cấm binh, đóng chặt cửa thành, sai Lê Ninh Thuận bắt vây cánh và phế vua Thiên Hưng làm Lệ Đức hầu, rước con út của Thái Tông là Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Tháng 6 năm 1460, Nguyễn Xí được phong làm khai phủ nghi đồng tam ty, Nhập nội kiểm hiệu thái phó Bình chương quân quốc trọng sự Á quận hầu, giúp việc chính sự. Tháng 10 năm đó ông được phong làm Sái quận công.

Năm 1462, con Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi không hợp cánh với một số đại thần nên làm thơ vứt ra đường để vu cho họ làm loạn nhưng việc bị phát giác. Vua Thánh Tông nể công lao của ông nên không trị tội Sư Hồi.

Năm đó ông được phong chức Nhập nội hữu tướng quốc. Năm 1463 lại được phong chức thái uý.

Năm 1465, Nguyễn Xí qua đời, thọ 69 tuổi, được truy tặng làm thái sư, thuỵ là Nghĩa Vũ.

Theo Đại Việt thông sử, ông có 16 người con trai và 8 người con gái. Con cháu Nguyễn Xí về sau theo giúp nhà Lê trung hưng.

Đền Nguyễn Xí được xây dựng dưới thời Nhà Lê, niên hiệu Quang Thuận thứ 8, năm Đinh Hợi 1467, theo lệnh của nhà vua “ Quốc tế, quốc tạo”

( http://vi.wikipedia.org/)

6.6. Nguyễn Trực (chữ Hán: 阮直, 1417 - 1474), hiệu là Hu Liêu, tự là Công Dĩnh, quê xã Bối Khê huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Ông đỗ đầu trong số đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (tức trạng nguyên) năm 1442 đời vua Lê Thái Tông.

Nguyễn Trực sinh ngày 16 tháng 5 năm Đinh Dậu (1417), trong một gia đình nho học. Ông nội là tiến sĩ Nguyễn Bính, giữ chức Nho học huấn đạo giáo quan Quốc Tử Giám, thời vua Trần Hiến Tông. Bố của Nguyễn Trực là tiến sĩ Nguyễn Thời Trung

Nguyễn Trực lên 12 tuổi đã giỏi văn. Năm 1434, Nguyễn Trực đi thi Hương và đỗ đầu.

Năm Nhâm Tuất (1442), ông dự kỳ thi Đình và đỗ Trạng nguyên, trở thành trạng nguyên đầu tiên nhà Hậu Lê.

Ông được vua Lê Thái Tông ban sắc Quốc tử giám thi thư thưởng hàm Á Liệt khanh, đứng đầu trong danh sách 33 tiến sĩ cùng khóa được lưu danh ở bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Khoa thi nho học năm 1442 là khóa đầu tiên được lưu vào văn bia, và khoa thi này doNguyễn Trãi làm chủ khảo.

Năm 1444, đời vua Lê Nhân Tông, ông được bổ làm Trực học sĩ Viện hàn lâm, kiêm Vũ kỵ úy. Ít lâu sau ông được thăng làm An phủ sứ Nam Sách. Khi trở về triều, Nguyễn Trực được bổ nhiệm làm Thị giảng, kiêm Ngự tiền học sinh cục thứ hai Viện Hàn lâm. Sau đó ông được thăng tới chức Trung thư thị lang ở sảnh Trung thư.

Năm 1445, ông được phong Thiếu trung khanh đại phu Ngự sử đài Ngự sử thị Đô úy, ông từ chối, vua Lê Nhân Tông phải ra sắc dụ tới 3 lần ông mới chịu nhận.

Ngoài ra, trong sự nghiệp của mình, Nguyễn Trực còn từng giữ các chức: Thự trung thư lệnh, Tri tam quán sự, đặc thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc tử giám Thăng Long.

Nhà thờ Trạng nguyên Nguyễn Trực tại xã Tam Hưng, Thanh Oai (Hà Nội) được công nhận di tích lịch sử quốc gia Việt Nam theo Quyết định số 318/QĐ-BVHTTDL ngày 26-1-2011 của Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch Việt Nam, lễ công nhận diễn ra ngày 20 tháng 4 năm 2011

Ông là lưỡng quốc trạng nguyên. Theo bài viết trên báo Bình Dương thì năm 1457, vua Lê Nhân Tông triệu ông vào triều để tiếp sứ thần nhà Minh, là Hoàng Gián. Nhờ đối đáp tài tình ông khiến sứ giả nhà Minh khâm phục. Sau đó ông được cử đi sứ, cùng phó sứ là Trịnh Khiết Tường (có thể làTrịnh Thiết Trường), sang kinh đô nhà Minh. Sang tới Bắc Kinh, gặp kỳ thi Đình, vì muốn cho nhà Minh biết tài học của người Việt, ông đã ứng thi và đỗ Trạng nguyên nhà Minh, trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên. Trịnh Khiết Tường (hay Thiết Trường đỗ Bảng nhãn triều Minh. Trở về nước cả ông và phó sứ Tường (hay Trường) đều được phong chức Thượng thư.

Theo bài viết Những ông nghè triều Lê (số 4), Nguyễn Trực, của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đăng trên Tạp chí Tri Tân số 28, mục Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam, thì: "...Năm Nhân Tôn Thái Hòa (1443-1454) làm Hàn lâm học sĩ, Võ kỵ uý, rồi được phong làm An phủ sứ ở Nam Sách, thăng Hàn lâm viện thị giảng, kiêm Ngự tiền học sinh, hai cục thị cận và thị ngự tiền, làm Trung thư thị lang, vâng mệnh đi sứ Tàu; gặp kỳ thi, ông là bồi thần, xin ứng cử, lại đỗ tiến sĩ cập đệ, cho nên đời bấy giờ gọi là "lưỡng quốc trạng nguyên"..."

Nhưng cổ nhất và chính xác nhất là cuốn sách Kiến văn tiểu lục, quyển XII-Tùng Đàm (Truyện góp), của Lê Quý Đôn lại cho rằng toàn bộ câu truyện này là một câu truyện dân gian truyền miệng, mà nguồn gốc là do vua Lê Thánh Tông vì yêu quý Nguyễn Trực, khi ban mũ áo cho ông, đã ra bỡn đầu đề đùa trêu để Nguyễn Trực nghĩ soạn ra câu chuyện, chứ không có thật. Lê Quý Đôn viết: "Tục truyền khoảng niên hiệu Thái Hòa (1443-1453), bảng nhãn Trịnh Thiết Trường và trạng nguyên Nguyễn Trực cùng phụng mệnh sung vào sứ bộ sang Trung Quốc, gặp lúc triều đình Trung Quốc mở khoa thi, hạ lệnh cho bồi thần các nước được cùng với cử nhân Trung Quốc dự thi một thể..."

Là người con trung nghĩa vẹn toàn của Thăng Long, Nguyễn Trực được người dân đời đời ghi nhớ. Tên của ông được đặt cho một con phố ở Hà Nội và ngay tại quê hương Thanh Oai của ông cũng có một trường Trung học cơ sở mang tên ông - Trường THCS Nguyễn Trực.

Hiện nay, di tích Từ đường Trạng nguyên Nguyễn Trực - nơi nhà xưa của ông nằm ở làng Bối Khê, thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai đã được trùng tu và được Bộ Văn hóa Thể thao du lịch trao bằng công nhận Di tích Lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. ( http://vi.wikipedia.org/)

6.7. Nguyễn Nghiêu Tư (chữ Hán: 阮堯咨, ? - ?), hiệu là Tùng Khê, tên tự là Quân Trù, thuở nhỏ còn có tên tục là Trư vì đẻ tháng Hợi, người huyện Vũ Ninh, phủ Từ Sơn. Tài liệu của Viện Hán-Nôm còn ghi thêm là người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Ông là một trạng nguyên thời nhà Lê sơ làm quan đến chức Thượng thư

Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời Lê Nhân Tông, làm quan Hàn lâm trực học sĩ, An phủ sứ lộ Tân Hưng Thượng.

Đầu năm Thiên Hưng thứ nhất (tháng 10 âm lịch năm 1459) thời Lê Nghi Dân, ông được cử cùng Lê Cảnh HuyNguyễn Như Đổ,Hoàng Thanh sang nhà Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai. Tài liệu của Viện Hán-Nôm lại ghi là ông được cử làm Phó sứ (năm 1460) sang nhà Minh (Trung Quốc) cầu phong (thụ phong vương của nhà Minh cho vua Lê của Đại Việt) trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng ...Ngày 20, lại sai bọn Trần Phong, Lương Như HộcTrần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong.... Sau đó, ông được thăng lên Lại bộ thượng thư (chưởng lục bộ). (http://vi.wikipedia.org/)

Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên đặt tên là Nguyễn Văn Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “Trư” nghĩa là lợn).Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, lúc nhỏ có lần cùng bố đi bắt lợn, gặp kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi:- Ông gì thế bố?Người cha đáp:- Ông Trạng!Trư nói:- Lớn lên con cũng làm ông Trạng!Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe:- Tao là quan Trạng!Có người khách lỡm:- Trạng dở hay trạng nguyên?Ông buột miệng:- Khách quen hóa khách lạ!Hai câu ứng khẩu hợp thành câu đối khá hay.Cạnh làng ông là làng Yên Đinh đất học, có cụ đồ sang chơi ra cho trạng vế đối, mang đề tài lợn, nghề sinh sống của nhà này:- Lợn cấn ăn cám tốn (ý là lợn có chửa ăn hết nhiều cám nhưng Cấn và Tốn là hai quẻ trong bát quái).Trạng đối ngay:- Chó khôn chớ cắn càn.Câu đối xấc xược làm cụ đồ cay đắng, song vế đối chỉnh quá, chó khôn đừng cắn bậy, mà Khôn và Càn cũng là hai quẻ trong bát quái. Cụ đồ khuyên bố mẹ Trư cho Trư đi học.Chính cụ đồ bị ông đối xược ấy dạy ông năm mới 8 tuổi, ông học rất giỏi, nghe một biết mười, lễ phép, chuyên cần, bạn học có người gấp rưỡi, gấp đôi tuổi đều thương mến. Những ngày trời mưa bạn thường cõng ông qua chỗ lội.Khi ở nhà lúc nào ông cũng chăm lo đèn sách, khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ.Đến khi “biết chữ”, thầy đồ gửi ông ra học cụ Vũ Mộng Nguyên người xã Đông Sơn, huyện Tiên Du, đỗ Thái học sinh không làm quan nhà Hồ về dạy học.Ông là học trò tiêu biểu nhất của cụ Vũ Mộng Nguyên, đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông.Tương truyền đêm trước ngày thi đình vua Nhân tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng, vua sai xa giá xem bảng thấy trạng tân khoa là Nguyễn Văn Trư, dân gian coi yết bảng cứ kháo thành vè “Long đầu lợn-Nguyễn Văn Trư”, vua liền đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư.Ông làm quan đến chức An phủ sứ Hàn lâm Trực học sỹ, đi sứ nhà Minh lại phong Lại bộ thượng thư, về phong Chưởng lục bộ thượng thư.Khi vinh quy bái tổ, dân làm nghè ở Phù Lương thị (chợ làng Phù Lương), tức làng Giùng, chợ Giùng để đón, nghè còn đến thời kháng chiến chống Pháp dân vẫn gọi là Nghè quan Trạng. Khi về hưu vua phong “Thượng quốc công chí sỹ” và vợ được hàm “nhất phẩm phu nhân”.Năm 1459 Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai ông đi sứ cầu phong, nhà Minh hoạch:- Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua? Nghiêu Tư trả lời:- Đường Thái tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý nhà Minh đành nhận phong vương.Khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên coi cửa ải nhà Minh ỷ thế nước lớn, ngạo mạn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ mà không mở cửa đón tiếp.Trạng nói:- ý các người muốn coi người Minh là “tung hoành vũ trụ”. Đã vậy thì Đại Việt ta đây “bao quát càn khôn”, sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa tết mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy. Viên quan coi ải khiếp phục, mở cửa quan nghênh tiếp sứ giả.Vào đến Yên Kinh, Trạng vào yết kiến vua Minh.Nhà vua muốn thử tài sứ giả, ngầm sai trong hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ Kính Thiên treo ở giữa, bầy đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh đặt nghi vệ sang trọng như chỗ giường ngủ của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi đó không.Khi sắp yến tiệc họ đưa trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, quan Minh ra hoạch:- Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ gì?Trạng ta bình thản:- Dám thưa, ngài lấy cớ gì cho sứ thần tôi là ngạo? Biển đề hai chữ Kính Thiên, chiết tự ra là kính nhị nhân (chữ thiên là giời, tách ra là hai chữ nhị nhân là hai người) thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế chúng tôi quyết không chịu. Vả nghe cổ nhân có nói: “Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực”. Tôi nghe Thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả nước xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa.Viên quan nhà Minh thấy trạng nói chẻ hoe như đã rõ gan một từ trước, vội vàng:- Xin quý ngài xá lỗi. Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem ngài có phải là bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà biết trước được như thế còn hề chi?Trong thời gian ở Trung Quốc ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên.Song vì ông sinh ra trong nhà bán thịt lợn, tên là Trư và gọi là Lợn, đã là lợn thì phải học dốt. Dân mới bịa ra chuyện rằng thày dạy “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng”, ông đọc ra “thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng”...Thế mà đỗ Trạng nên mọi chuyện gặp may được bịa ra như bia “hạ mã” ông đọc là “bất yên” thì tự dưng trong làng có đám cháy, con gái Bùi tướng công tên là Phấn ra vế đối “bát đao phân mễ phấn” ông không đối được mới chép vào bảo lúc thi đỗ sẽ đối, vào triều đề thi là “thiên lý trọng kim chung”, ông đem đối vào rồi lại đem vế ấy về đối ở nhà Bùi tướng công, hay tuyệt vừa đỗ Trạng vừa được vợ, rồi chuyện cầu mưa, xử kiện, xem bói, đối chữ ở Trung Quốc... thảy đều gặp những sự may mắn, trùng hợp đến lạ lùng.Nghệ sỹ dân gian nào đó đã chép thành chuyện Trạng Lợn mà ta thường đọc. Cực đoan hơn nữa, ở Hà Nam có hẳn sách Trạng Lợn dài 18 hồi theo kiểu chương hồi Tam Quốc chí. (http://baobacninh.com.vn/)

6.8. Nguyễn Quang Bật (chữ Hán: 阮光弼; 14631505) là người đỗ  trạng nguyên năm 1484 

dưới triều vua Lê Thánh Tông. Ông là người huyện Gia Bình, nay thuộc địa phận thôn Thường Vũ, xã An Bình, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, có ý chí "nhân định thắng thiên", không tin vào số mệnh. Tương truyền trước khoa thi ông nằm mơ thấy Thần hiện về báo mộng ông sẽ không đoạt giải cao; thế nhưng ông tin rằng "Thần đâu biết được việc người; phen này ta đỗ, đỗ thời trạng nguyên" và càng ra sức học. Đến kì thi Đình ông đã đoạt được ngôi vị đầu bảng, giành lấy chức vị trạng nguyên. Làm quan Hàn lâm Hiệu lý. Ông là thành viên nhóm Tao đàn Nhị thập bát Tú. Vì trái ý của Lê Uy Mục nên bị giáng xuống Thừa Tuyên, Quảng Nam. Vua sai người mật dìm chết ở sông Phúc Giang. Tương Dực Đế biết ông chết oan, bèn truy phong tước Bá, và tặng lá cờ thêu 3 chữ" Trung Trạng Nguyên". Vua còn cho dân địa phương lập miếu thờ làm thành hoàng. (http://vi.wikipedia.org/).

Theo www.thuanthanh.gov.vn ngày 11/11/2012:  Thuở nhỏ nhà nghèo nhưng Nguyễn Quang Bật ham học, phải làm nghề bán hàng nước ở cầu Khoai kiếm ăn. Ông học đến mức mờ cả mắt. Khoa thi năm 1484 thời Hồng Đức ông đỗ trạng nguyên với bài luận đối đình sách trả lời về cách dùng người của nhà Triệu Tống.

   Sau khi thi đỗ ông được bổ làm quan Viện hàn lâm chức Hàn lâm viện thị thư. Năm 1495 ông được tham gia hội Tao Đàn làm sách Quỳnh uyển cửu ca, đứng tên thứ 7 trong số 28 người. Đời Cảnh Thống ông giữ chức Đô ngự sử đài, cùng thượng thư Lễ bộ Đàm Văn Lễ lĩnh mệnh phò lập Túc Tông. Bấy giờ hoàng tử Tuấn dựa vào thế lực mẹ nuôi là bà Kính phi muôn tranh ngôi mới đem vàng lụa đút lót hai đại thần nhiếp chính. Thượng thư Đàm Văn Lễ sợ biến loạn không làm tròn phận sự di chiếu của Hiến Tôn phải đem ấn truyền quốc về nhà riêng. Hoàng tử Tuấn giận lắm. Nhưng Túc Tông ở ngôi không bao lâu thì mắc bạo bệnh mất sớm. Do Túc Tông không có con nối nên bà Kính Phi ở trong cung đã tuyên lập hoàng tử Tuấn kế ngôi. Ngày 5/6/1505 Uy Mục đế lên ngôi chưa đầy nửa năm, nhớ mối hận ngày trước đã biếm chức thượng thư Đàm Văn Lễ và Đô ngự sử đài Nguyễn Quang Bật vào Quảng Nam giữ chức thừa tuyên sứ. Khi hai người đi đến sông Lam thuộc địa phận huyện Chân Phúc vua sai người đuổi theo bắt phải tự xử. Hai ông khi sắp gieo mình xuống nước còn ngâm bài thơ tuyệt mệnh bằng quốc âm. Được tin, các quan triều biết tội hai ông không đáng chết mới xúm vào can vua, vua đổ lỗi cho bọn Nguyễn Nhữ Vi làm bậy rồi giết đi.

   Đến đời Hồng Thuận, vua Tương Dực đế lại truy tặng hai ông. Do việc vua Uy Mục bắt tự xử, con cháu trạng nguyên Nguyễn Quang Bật ở quê đã phải cải sang họ Đỗ để tránh tai hoạ tru di. Hiện ở quê có đền thờ và tấm bia đá ghi sự nghiệp của ông. Mới đây trường tiểu học An Bình số 2 đã được mang tên Nguyễn Quang Bật. Hậu duệ ông có đặt giải thưởng trạng nguyên Nguyễn Quang Bật để trao tặng cho học sinh xuất sắc nhất từng năm học trị giá 500.000 đồng. Hiện nay con cháu vẫn thành đạt, tiêu biểu là Trưởng ban biên giới chính phủ Lê Minh Nghĩa, Phó đô đốc hải quân Trần Dực và nhiều tiến sĩ, cử nhân khác.

   Bài thơ tuyệt mệnh của trạng nguyên Nguyễn Quang Bật ghi trong gia phả và được đốc học Đỗ Trọng Vĩ, hậu duệ trạng nguyên ghi lại trong sách Bắc Ninh địa dư chí thế kỉ 19 như sau:

Trời, trời xanh. Nước, nước xanh

Ai đem người ngọc đến Nam Ninh

Nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá

Sao chẳng đưa thư tới Động Đình.

   Bài thơ dựa vào tích chàng Liễu Nghị ghen vợ khiến nàng phải nhảy xuống hồ Động đình tự vẫn. Thần hồ Động Đình biết nàng bị oan lại đưa lên bờ về đoàn tụ gia đình. Đó là tâm sự của người bị hại oan uổng nhưng vì lòng trung quân trong sạch vẫn phải trầm hà nhưng còn tin mình được minh oan.

6.9. Nguyễn Sư Mạnh người làng Cổ Đô Hà Tây, thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông. Được bổ làm quan Thượng thư Bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu, cử đi sứ Trung Quốc năm 1500.

Có nhiều giai thoại về chuyến đi sứ này: Khi vào yết kiến vua nhà Minh, Nguyễn Sư Mạnh không cài khuy áo, đế hở bụng. Vua Minh giận dữ, cho là sứ thần nước Nam thất lễ, hạch tội khi quân, định trục xuất về nước.

Nguyễn Sư Mạnh quỳ tâu rằng: Vì đường sá xa xôi, bụng thần đầy chữ, nhiều ngày đi đường âm u, ẩm ướt, sợ khú mất chữ thánh hiền, thần xin được phanh áo ra hong, mong nhà vua đại xá.

Nghe vậy, vua Minh vừa muốn thử tài, vừa muốn hại người nước Nam, thách Nguyễn Sư Nam viết lại cuốn sách Thiên Vi Chính. Nguyễn Sư Mạnh nhận lời. Vua Minh còn hạ lệnh trong 30 ngày phải hoàn tất. Vua Minh chắc mẩm sứ thần nước Nam không thể làm nổi việc đó, sai người theo dõi. Nhưng sau nhiều ngày, gần hết thời hạn quy định mà không thấy sứ Nam làm gì, chỉ ngồi đánh cờ. Đến ngày thứ 25, vua Minh sai người nhắc nhở, Nguyễn Sư Mạnh trả lời: “Ngày mai thần sẽ viết”.

Đến ngày thứ 29, ông đã dâng một bản chép Thiên Vi chính cho vua Minh. Nhận sách, vua Minh khen sứ thần có trí nhớ tuyệt vời, sách chép lại y như bản chính, chỉ có chữ công thừa một dấu chấm. Vua Minh hạch tội, Nguyễn Sư Mạnh khảng khái nói: Nếu thần viết thừa dấu chấm thì chắc chắn bản gốc của thượng quốc cũng thừa. Vua Minh cho đem bản gốc ra so sánh thì y như lời Nguyễn Sư Mạnh, chữ công cũng thừa dấu chấm thật.

Phục tài, vua Minh không lý gì để làm hại sứ thần nước Nam, lại phong cho ông chức Thượng thư của Trung Quốc. Bốn chữ Lưỡng quốc Thượng thư được khắc tại từ đường họ Nguyễn Cổ Đô nhắc đến công lao của nhà ngoại giao đại tài Nguyễn Sư Mạnh. (http://vi.wikipedia.org/)

 Theo gia phả dòng họ, Nguyễn Sư Mạnh sinh năm 1458 (Mậu Dần), cha người Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá), mẹ người làng Cổ Đô (Ba Vì - Hà Nội). Vì cha mẹ mất sớm, nhà lại nghèo nên mãi đến năm 27 tuổi ông mới lều chõng đi thi và đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân đời vua Hồng Đức thứ 15 (1484). Về khoa thi này, sách Đại Việt sử ký toàn thư (tập II, Nxb VHTT, H. 2003, tr 763 - 764) và sách Lịch triều hiến chương loại chí (phần Khoa mục chí) của Phan Huy Chú cho biết: Tháng 2 thi Hội các cử nhân lấy đỗ 44 người. Vào thi Đình đề văn sách hỏi về nhà Triệu Tống dùng nho sĩ, cho đỗ theo thứ bậc khác nhau. Nguyễn Sư Mạnh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Tên ông được khắc trong bia "Hồng Đức thập ngũ niên Giáp Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký" ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) và chép trong Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục.
Hoạt động và cống hiến của Nguyễn Sư Mạnh chủ yếu ở thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) và thời Lê Hiến Tông (1498 - 1504) - là thời kỳ phát triển thịnh đạt của quốc gia phong kiến Đại Việt.
Năm Cảnh Thống thứ 3 (1500), Nguyễn Sư Mạnh tham gia đoàn sứ bộ sang nhà Minh. Về sự kiện này, các tài liệu chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư (tập III, Nxb VHTT, H.2003, tr 33); Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập II, Nxb Giáo dục, H. 1998, tr 5) và Lịch triều hiến chương loại chí (phần Bang giao chí) đều chép rõ: "Mùa xuân, tháng Giêng, ngày 25 vua sai sứ sang nước Minh. Hình bộ tả thị lang Nguyễn Duy Trinh, Lễ khoa đô cấp sự trung Lê Lan Hinh, Thượng bảo thiếu khanh Nguyễn Nho Tông sang tạ ơn cúng tế"...

Về tên gọi Lê Lan Hinh, sách Đại Việt sử ký toàn thư và Cương mục còn ghi rõ: Người xã Cổ Đô, huyện Tân Phong, đỗ Đồng Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1484) năm Hồng Đức; nguyên trước họ Nguyễn, tên là Sư Mạnh, sau được ban quốc tính (họ Lê).

Mặc dù chính sử không ghi chép nhiều về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Sư Mạnh nhưng việc ông được vua Lê ban quốc tính đã ghi nhận những cống hiến của ông đối với triều đình, nhất là trong lĩnh vực ngoại giao. Chúng ta được biết, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã tổ chức phong thưởng tước vị và ban quốc tính cho những bậc "khai quốc công thần" trong đó có Nguyễn Trãi (Thường Tín - Hà Nội)... Tuy nhiên từ triều Lê Thái Tông (1434 - 1442) việc ban quốc tính không còn được thực hiện rộng rãi như trước, chỉ những người thực sự có tài năng, cống hiến to lớn mới được hưởng ân tứ ấy. Thời Lê Thánh Tông có Dương Bang Bản (quê ở Thanh Liêm - Hà Nam) được ban họ Lê tức là Lê Tung. Ông là nhà sử học nổi tiếng đã soạn Việt giám thông khảo tổng luận (1 quyển). Cho đến thời Lê Hiến Tông (1498 - 1504) có Nguyễn Sư Mạnh được ban quốc tính, gọi là Lê Lan Hinh.

Theo ghi chép của Đại Nam nhất thống chí thì Nguyễn Sư Mạnh là người tài cao, học rộng, kiến thức quảng bác, uyên thâm mà câu chuyện đi sứ kể trên là một minh chứng. Sự nghiệp văn chương của ông tuy bị thất truyền, nhưng từ nhiều thế kỷ qua, nhân dân ta vẫn tôn thờ và ngưỡng mộ tài năng đức độ của ông, coi ông là tấm gương lớn để noi theo.

Với đánh giá như vậy, nhà thờ Nguyễn Sư Mạnh ở Cổ Đô đã được Bộ văn hoá thông tin công nhận Di tích quốc gia dạng lưu niệm danh nhân tại quyết định số 52/2001/ QĐ- BVHTT ngày 28/12/2001.( http://lichsuvn.net/)

6.10. Nguyễn Văn Lang (chữ Hán: 阮文郎, ?-1513) là tướng cuối thời Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông có công giúp Lê Tương Dực lên ngôi và dẹp một cuộc nổi dậy chống triều đình.

Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nguyễn Văn Lang người xã Gia Miêu huyện Tống SơnThanh Hóa; là con Thái úy Nguyễn Đức Trung và là em Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng - vợ vua Lê Thánh Tông. Sử sách còn xem Nguyễn Văn Lang là cha Nguyễn Hoằng Dụ và là ông nội của Nguyễn Kim (1468-1545) - người có công giúp nhà Lê trung hưng sau này.

Tuy nhiên, theo tiến sĩ Đinh Công Vĩ, khảo cứu 7 nguồn gia phả họ Nguyễn khác nhau tại sách ‘‘Nhìn lại lịch sử’’, theo đó các phả họ Nguyễn nói chung có sự thống nhất từ đời Nguyễn Đức Trung trở đi, các gia phả đều ghi rằng: Nguyễn Văn Lang là con Nguyễn Văn Lỗ, là cháu gọi Nguyễn Đức Trung bằng bác, đồng thời là em họ hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng.

Theo gia phả này, Nguyễn Công Duẩn - cụ nội của Nguyễn Hoằng Dụ - sinh 7 con trai, sau phân thành 7 chi. Chỉ xét 3 chi:

  1. Chi đầu là Nguyễn Đức Trung sinh 14 con, trong đó con gái thứ 2 là hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng triều Lê Thánh Tông
  2. Chi 4 là Nguyễn Như Trác sinh Nguyễn Văn Lưu. Văn Lưu sinh ra Nguyễn Kim
  3. Chi 5 là Nguyễn Văn Lỗ sinh ra Nguyễn Văn Lang, Văn Lang sinh Nguyễn Hoằng Dụ.

Tác giả Đinh Công Vĩ nêu ra một minh chứng nữa: Ở Triệu miếu (Huế) và Nguyên miếu (Gia Miêu ngoại trang) chỉ thờ Nguyễn Văn Lưu là cha đẻ thực của Nguyễn Kim mà không thờ Nguyễn Hoằng Dụ - cha Nguyễn Kim như sử chép. Mặt khác, mộ cha Hoằng Dụ là Nguyễn Văn Lang ở làng Tam Quy xã Hà Tân, Hà Trung, Thanh Hoá chỉ do con cháu chi 5, nay đã đổi ra họ Đỗ Nguyễn trông nom, họ Nguyễn Phúc không có nhiệm vụ trông nom mộ Nguyễn Văn Lang. Trong các nguồn gia phả, có cuốn do Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ là em ruột Nguyễn Văn Lang soạn năm 1515, khi đó những người đang được đề cập còn sống.

Thời Lê Uy Mục, Nguyễn Văn Lang có tước Nghĩa quận công. Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét Nguyễn Văn Lang là người thông thao lược, giỏi binh pháp, khéo xem xét thiên thời, sức khoẻ có thể bắt được hổ.

Vua Lê Uy Mục tàn bạo mất lòng người. Do Nguyễn Thái hoàng thái hậu (tức Trường Lạc hoàng hậu) tỏ ý không ưa Uy Mục, Uy Mục sai người đầu độc sát hại bà nội. Năm 1509, Uy Mục ra lệnh đuổi những người tông thất và công thần về Thanh Hóa. Uy quyền trong triều thuộc về các ngoại thích Khương Trùng và Nguyễn Bá Thắng. Nguyễn Văn Lang là người cùng họ của Nguyễn Thái hậu, cũng trong số những người bị đuổi.

Một đại thần trong họ tông thất nhà Lê là Lê Năng Cẩn không hài lòng, bèn gửi cho Văn Lang một bài thơ khuyên ông đem quân "giết hết bè đảng bạo nghịch". Văn Lang nghe lời, bèn đem nô bộc người Chiêm Thành là Chế Mạn cùng Vũ Bá, Vũ Tiếp hiệu triệu nhân dân ba phủ thuộc Thanh Hóa hội hợp ở thành Tây Đô, rồi đem quân chấn giữ cửa biển Thần Phù.

Đúng lúc đó, một tông thất khác là Giản Tu công Lê Oanh bị Lê Uy Mục giam trong ngục, trốn thoát về Tây Đô. Khi Lê Oanh đi đến cửa biển Thần Phù, Nguyễn Văn Lang đón rước lập làm minh chủ. Những người cùng phe Lê Oanh là Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm cùng là Nguyễn Bá Tuấn, Lê Tung, Nguyễn Thì Ung cùng nhau khởi binh. Lê Oanh và Nguyễn Văn Lang giả xưng là Cẩm Giang vương Lê Sùng, kéo lá cờ chiêu an, tiến quân về đánh kinh thành.

Lê Uy Mục bại trận, bị bắt và bị Lê Oanh giết chết. Đại Việt sử ký toàn thư dẫn một thuyết khác cho rằng khi quân Nguyễn Văn Lang tiến sát kinh thành, Uy Mục chạy ra thôn Cập Hối, xã Đông Cao, huyện Yên Lãng, bị người hành chợ xã ấy đón về nộp cho Nguyễn Văn Lang. Ông đem Uy Mục về quán Bắc Sứ giết chết.

Lê Oanh lên ngôi, tức là vua Lê Tương Dực. Nguyễn Văn Lang được thăng từ tước Nghĩa quận công lên Nghĩa quốc công.

Lê Tương Dực lên ngôi cũng ăn chơi hưởng lạc không lo chính sự. Các phong trào chống đối bắt đầu nổi lên.

Năm 1511, Trần Tuân cùng bộ tướng Nguyễn Nghiêm khởi binh chống triều đình tại Sơn Tây, có hàng vạn người. Trần Tuân mang quân đến Từ Liêm uy hiếp kinh thành. Nguyễn Văn Lang cùng Trịnh Duy Sản được Lê Tương Dực sai mang quân ra đánh, nhưng hai tướng bị Trần Tuân đánh bại, phải rút về Đông Ngạc và Nhật Chiêu.

Nguyễn Văn Lang sai tập trung thợ ở các xưởng vũ khí của Bộ Công, bày kỳ binh để làm thanh thế tại Đông Hà bảo vệ cho kinh thành, nhưng đến đêm quân triều đình sợ thế Trần Tuân đều bỏ chạy.

Trần Tuân thắng trận khinh địch, bị Trịnh Duy Sản cùng 30 thủ hạ đột kích vào trại đâm chết. Trịnh Duy Sản sai quân đốt 3 tiếng pháo làm hiệu, cánh quân đến tiếp ứng của Nguyễn Văn Lang xông tới đánh giết. Quân Trần Tuân tan vỡ.

Đầu năm 1513, Nguyễn Văn Lang qua đời. Không rõ năm đó ông bao nhiêu tuổi. Lê Tương Dực nhớ công ông phò tá lên ngôi, tặng phong ông làm Nghĩa Huân Vương, tang lễ theo nghi thức của tước vương, đúc vàng làm tượng.

Năm 1517 thời Lê Chiêu Tông, con Nguyễn Văn Lang là Nguyễn Hoằng Dụ mâu thuẫn với Trần Chân và Trịnh Tuy, hai bên đánh nhau. Hoằng Dụ bị thua, nhưng được Mạc Đăng Dung (dưới quyền Trần Chân) thả cho chạy thoát về Thanh Hóa. Không bắt được Hoằng Dụ, quân Trần Chân đào mả, bới tử thi Nguyễn Văn Lang, chém lấy đầu.(http://vi.wikipedia.org/)

6.11. Nguyễn Hoằng Dụ (?-1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống SơnThanh HóaViệt Nam.

Nguyễn Hoằng Dụ (chữ Hán: 阮弘裕) là con của đại thần Nguyễn Văn Lang - người có công giúp Lê Tương Dực lật đổ Lê Uy Mục và đánh dẹp khởi nghĩa nông dân.

Sử sách thường ghi Nguyễn Kim - cha của chúa Nguyễn đầu tiên Nguyễn Hoàng - là con của An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ, là cháu của Nguyễn Văn Lang và là chắt của Nguyễn Đức Trung. Sự thực không phải như vậy.

Theo tác giả Đinh Công Vĩ, khảo cứu 7 nguồn gia phả họ Nguyễn khác nhau tại sách ‘‘Nhìn lại lịch sử’’, theo đó các phả họ Nguyễn nói chung có sự thống nhất từ đời Nguyễn Đức Trung trở đi, các gia phả đều ghi rằng: Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là em họ của Nguyễn Kim.

Cha Hoằng Dụ là Văn Lang có công khởi binh giúp vua Lê Tương Dực lật đổ Lê Uy Mục năm 1509. Đầu năm 1510, vua Tương Dực thưởng công cho các công thần, phong Văn Lang làm Nghĩa quốc công và Hoằng Dụ làm An Hoà hầu (安和侯).

Thời Văn Lang còn sống đã mâu thuẫn với Trịnh Duy Sản vì hai người cùng là tướng có công lớn với triều đình, sinh ra ganh ghét nhau. Năm 1513, sau khi Văn Lang chết, Duy Sản càng tỏ ý kiêu căng.

Chính sự nhà Lê đổ nát, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, trong đó lớn nhất là khởi nghĩa Trần Cảo (1516). Bấy giờ quân Trần Cảo sắp đánh vào Thăng Long, Nguyễn Hoằng Dụ được lệnh mang quân về bảo vệ kinh thành. Ông đóng quân ở Bồ Đề (Gia Lâm).

Trong khi quân khởi nghĩa áp sát kinh thành, vua tôi nhà Lê không lo chống giữ. Lê Tương Dực vẫn chơi bời không lo lắng việc nước. Trịnh Duy Sản can ngăn vua Tương Dực bị đánh đòn nên sinh oán hận, sắp mưu giết chết Tương Dực, lập chắt Lê Thánh Tông là Lê Y mới 11 tuổi lên ngôi, tức là Lê Chiêu Tông.

Tháng 4 năm 1416, quân khởi nghĩa Trần Cảo nhân khi kinh thành rối loạn bèn tiến đánh Thăng Long. Cùng lúc đó, Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành. Ông bắt chém người thợ xây Cửu Trùng Đài cho vua Tương Dực là Vũ Như Tô rồi mang quân rút khỏi Thăng Long. Trịnh Duy Sản thấy kinh thành bị phá liền mang vua Lê Chiêu Tông bỏ chạy về Tây Đô (Thanh Hóa).

Nhân đấy Trần Cao sang qua sông, vào chiếm cứ kinh thành, xưng niên hiệu là Thiên Ứng, ngự triều xưng làm vua.

Trịnh Duy Sản nhân danh vua Chiêu Tông, từ thành Tây Đô tập hợp quân các trấn về đánh Trần Cảo ở kinh thành. Nguyễn Hoằng Dụ hưởng ứng lời gọi, theo đường phủ Trường Yên, Lý Nhân tiến phát cùng vào Thăng Long với các tướng Nguyễn Văn Lự, Trịnh Tuy.

Quân triều đình tiến đánh kinh thành, vây 4 mặt. Quân Trần Cảo núng thế, nhưng quân Lê vẫn chưa chiếm lại được Thăng Long, bèn chuyển sang vây phía tây. Sau đó các đạo quân nhà Lê hợp lại phá tan quân Trần Cảo. Cảo phá vây bỏ chạy. Vua Chiêu Tông trở lại kinh đô.

Tháng 11 năm 1516, Nguyễn Hoằng Dụ theo Trịnh Duy Sản dẫn các tướng đi đánh Trần Cảo ở xã Trâu Sơn, huyện Chí Linh (Hải Dương). Chiến sự bất lợi, Duy Sản nôn nóng muốn thắng, bị quân Trần Cảo lừa bắt sống giết chết.

Hoằng Dụ dẫn tàn quân bỏ chạy về kinh đô. Trần Cảo nhân đà thắng trận, tiến quân thẳng đến Bồ Đề. Kinh thành lại nguy cấp. Lê Chiêu Tông liền sai Thiết Sơn bá Trần Chân (con nuôi Trịnh Duy Sản) mang quân ra đón đánh. Trần Chân phá tan được quân Trần Cảo. Cảo lại lẩn lút ở Lạng Nguyên không dám ra, truyền ngôi cho con là Cung rồi cạo đầu làm sư để trốn tránh.

Trần Cảo tạm bị dẹp yên nhưng các đại thần nhà Lê lại quay sang đánh nhau. Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy trở về kinh thành, nghe theo lời gièm pha của con em nên xảy ra hiềm khích. Hoằng Dụ đóng quân ở phường Đông Hà, Tuy đóng quân ngoài thành Đại La giữ nhau.

Hoằng Dụ cáo ốm không vào chầu. Nguyễn Quán Chi tâu lên việc đó. Vua Chiêu Tông đem chuyện Lạn Tương Như và Liêm Pha nước Triệu thời Chiến Quốc để khuyên hai tướng giảng hoà nhưng không được.

Nguyễn Hoằng Dụ cất quân đánh Trịnh Tuy ở các phường Vĩnh Xương, Khúc Phố, Phục Cổ tại kinh thành, ba lần đánh mà không được. Tỳ tướng của Trịnh Tuy là Nguyễn Thế Phó trúng tên phải lui. Tuy bèn chạy vào Thanh Hoa. Trần Chân về phe với Tuy thấy Nguyễn Hoằng Dụ đuổi Trịnh Tuy, bèn cất quân đánh Hoằng Dụ. Sau đó Chân mật gửi thư cho con em ở các dinh Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng cùng đánh. Ngày hôm ấy, Nguyễn Hoằng Dụ vào yết kiến vua, định ra cửa Đại Hưng, nhưng ông ngờ là có Trần Chân ở đó, bèn ra cửa Đông Hoa. Lát sau, ông xuống thuyền lánh về Thanh Hoá.

Bấy giờ thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung trấn thủ Sơn Nam, Trần Chân gửi thư khuyên Đăng Dung chặn giữ lại, Đăng Dung không nỡ, nên Hoằng Dụ đi được thoát.

Đuổi được Hoằng Dụ, Trần Chân một mình nắm quyền trong triều.

Đầu năm 1517, theo lời của Trần Chân, Lê Chiêu Tông sai Nguyễn Công Độ đem quân bộ, Mạc Đăng Dung đem quân thuỷ đuổi Hoằng Dụ chạy vào huyện Thuần Hựu. Quân triều đình đào mả cha Hoằng Dụ là Nguyễn Văn Lang, chém lấy đầu. Hoằng Dụ lại hội quân chống nhau với quân triều đình. Ông gửi bức thư và một bài thơ cho Mạc Đăng Dung, khuyên Đăng Dung đừng bức bách mình. Mạc Đăng Dung nhận được thư và thơ đó, liền đóng quân không đánh. Hoằng Dụ được toàn quân chạy về.

Quyền thế của Trần Chân ngày càng lớn. Tháng 7 năm 1418, vua Chiêu Tông tin theo lời gièm pha của các cận thần, sợ Trần Chân cướp ngôi, bèn dụ Trần Chân vào cung giết chết.

Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Ánh, Hoàng Duy Nhạc mang quân đánh kinh đô báo thù.

Vua Chiêu tông không chống nổi, đang đêm phải bỏ chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.

Bấy giờ, Trịnh Tuy đóng quân ở xứ Sơn Nam có hơn 1 vạn người, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan cả. Thế là quân Nguyễn Kính thả sức cướp phá, trong thành sạch không. Chiêu Tông cho gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ vì lần trước vừa bị Chiêu Tông sai quân truy sát, đào mồ cha nên lưỡng lự không đi.

Chiêu Tông bèn triệu thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính. Nguyễn Kính đòi giết Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính là những người gièm pha Trần Chân. Chiêu Tông nghe kế của Đàm Cử, bèn giết 3 người, nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút.

Tháng 9 năm 1518, Trịnh Tuy và văn thần Nguyễn Sư làm phản, lập người trong hoàng tộc khác là Lê Do, đổi niên hiệu là Thiên Hiến, làm hành diện ở xã Do Nha, huyện Từ Liêm. Tuy sai người dụ Nguyễn Kính, Kính thấy Tuy là người cùng phe với Trịnh Duy Sản và Trần Chân trước đây nên đồng lòng đi theo.

Trước thế lực phản quân ngày càng lớn, Chiêu Tông sai người đi mời Nguyễn Hoằng Dụ lần nữa và sai Mạc Đăng Dung cùng đi đánh Nguyễn Kính. Lần này thì ông đồng ý đem quân Thanh Hóa ra cứu. Tuy nhiên, quân Hoằng Dụ ra bắc giao chiến không lâu sau bị Nguyễn Kính đánh bại, chết rất nhiều. Ông tự liệu không địch nổi Nguyễn Kính, bèn bãi binh, bỏ chạy về Thanh Hóa, để một mình Mạc Đăng Dung ở lại cầm cự.

Không lâu sau, Nguyễn Hoằng Dụ mất ở Thanh Hoá, không rõ bao nhiêu tuổi. Cuộc biến loạn giữa các phe phái trong triều còn diễn ra trong nhiều năm tiếp theo. Về sau, Mạc Đăng Dung thắng thế, cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc. Anh họ ông là Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hoá tập hợp lực lượng chống lại và khôi phục lại nhà Hậu Lê năm 1533. (http://vi.wikipedia.org/).

6.12. Trường Lạc hoàng hậu -  Nguyễn Thị Hằng (1441 - 1505), húy là Hằng (hoặc Huyên), là một hoàng hậu nhà Lê sơ. Bà là vợ vua Lê Thánh Tông, mẹ ruột của Lê Hiến Tông, bà của Lê Túc Tông và Lê Uy Mục.

Cuộc đời bà trải qua nhiều vinh hoa phú quý mà cũng thăng trầm, từ vị trí Sung nghi, rồi Quý phiHoàng thái hậuThái hoàng thái hậu và đột ngột kết thúc một cách đầy bi kịch vào cuối đời, khi bị cháu nội là Uy Mục giết chết.

Bà người ở trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn, là con gái thứ hai của ông Nguyễn Đức Trung được tặng hàm Thái úy Trinh quốc công. Ông Nguyễn Đức Trung chính là cụ tổ dòng họ chúa Nguyễnnhà Nguyễn sau này. Không biết dòng họ ông có dính dáng đến họ của bà Văn hậu hay không.

Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn (Khoa Học Xã Hội, 1978), cho biết rằng:

Tháng 7 năm Quang Thuận thứ nhất (1460) bà được tuyển vào cung, phong là Sung nghi ở cung Vĩnh Ninh. Bà được vua (Thánh Tông) yêu quý nhất trong số các cung nhân. Lúc này nhà vua chưa có thái tử.

Khi đó, Quang Thục hoàng thái hậu đã từng cầu đảo, sai Đức Trung đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích, chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu hoàng tự. Thượng đế phán: "Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn thị". Nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ, bà đương ở cung Vĩnh Ninh, tức thì có mang. Đến khi đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra Lê Tranh, tức Lê Hiến Tông sau này. (Hiến Tông sinh vào ngày mồng 10 tháng 8, năm Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ 2 1461).

Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), tháng 3, sách lập Lê Tranh làm hoàng thái tử.

Năm Hồng Đức thứ nhất (1470), tấn phong bà làm Quý phi; bà càng được hưởng ơn vua nhiều hơn. Vua có ý phong bà làm Hoàng hậu, nhưng sợ họa ngoại thích nên lại thôi.

Năm thứ 28 (1497), vua Thánh Tông mất, vua Hiến Tông lên ngôi, tôn bà làm Trường Lạc Thánh Từ hoàng thái hậu, để ở điện Trường Lạc, và phụng dưỡng rất chu đáo.

Hiến Tông mất, Hoàng thái tử Lê Thuần lên ngôi năm 1504, tức Lê Túc Tông, tôn bà làm Thái hoàng thái hậu. Nhưng vua yểu mệnh, làm vua chưa đầy 1 năm thì băng.

Đại thần là Nguyễn Nhữ Vi lập Lê Tuấn lên nối ngôi báu, tức Lê Uy Mục.

Bà rất không vui vì quyết định này, cũng bởi vì thân phận của mẹ ông Uy Mục. Sử cho biết rằng:

Mẹ Uy Mục là bà Nguyễn Thị Cận, sau được truy tôn làm Chiêu Nhân hoàng thái hậungười làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, người mẹ tần tảo nuôi con khôn lớn, một lần đánh được con cá to để lại cho con ăn chứ không bán cho lý trưởng, bị lý trưởng thù ghét tìm cách hãm hại khiến người mẹ cùng quẫn phải bán con gái đi làm người ở cho một gia đình giàu ở kinh thành Thăng Long. Sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm quan tỳ, do đó được vào hầu cung Vĩnh Ninh của bà. Một lần Thái tử Lê Tranh vào thăm mẹ ở cung Vĩnh Ninh, tình cờ thấy cô nô tì Nguyễn Thị Cận xinh đẹp đoan trang mới đem lòng mặt yêu mến, sau đó xin mẹ cho lấy về làm vợ, tháng 5 năm Mậu Thân (1488) thì sinh một hoàng nam đặt tên là Lê Tuấn (vua Uy Mục sau này).

Nguyễn thị mất ngay sau khi sinh. Sau đó, một bà phi cùng họ là Kính phi Nguyễn thị, người xã Hoa Lăng, huyện Thủy Đường (nay là huyện Thuỷ NguyênHải Phòng) nhận Lê Tuấn nuôi làm con mình.

Trường Lạc thái hoàng thái hậu cho rằng người thân phận thấp kém như bà Cận sẽ sinh ra đứa con không ra gì. Đương nhiên cách lập luận của bà là sai, nhưng thực tế lại đúng như vậy.

Uy Mục biết được, sai người giết chết bà vào ngày 22, tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505) tại chính tẩm của bà, thọ độ 65 tuổi.

Mùa hạ, tháng 4, ngày 27, năm đó, Uy Mục truy tôn thuỵ hiệu cho bà là Huy Gia Tĩnh Mục Ôn Cung Như Thuận Thái hoàng thái hậu.

Sau, Uy Mục giết quan Lễ bộ Thượng thư là Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là Nguyễn Quang Bật, vì lẽ rằng khi vua Hiến Tông mất, bà Thái hậu và hai người này có ý không chịu lập Uy Mục (hai ông này đã nhận di chiếu phụ tá Hoàng thái tử kế vị của Hiến Tông rồi cùng các đại thần lập Túc Tông lên nối ngôi).

Mau chóng sau đó, Uy Mục bị lật đổ, Tương Dực lên ngôi, ơn trạch của Thánh Tông đến đây tiêu ma hết cả, con cháu sau này cũng không thể khôi phục được, thời kì Lê Sơ đúng 100 năm (từ 1427 đến 1527) chấm dứt. Nhà Mạc sau đó thay thế, con cháu tàn dư họ Lê lại lập nhà Lê Trung Hưng bù nhìn nối tiếp duy trì ngôi vua, thực quyền bị chi phối bởi chúa Trịnh, tạo nên thời kì Vua Lê-Chúa Trịnh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Có một dị bản về xuất thân của bà, cho rằng bà là con gái bị lưu lạc của Nguyễn Trãi.

Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (Đạm Nguyên dịch, Đại Nam, 1970, viết tắt là NL) trong bài Vua Thánh Tông có đoạn:

Khoảng đầu niên hiệu Thái Hòa (1443-1453), Tế văn hầu Nguyễn Trãi phải tội, có người con gái bị bắt vào quan, sung vào hàng nữ nhạc. Người con gái ấy tư sắc tuyệt đẹp, tuổi đã 17, 18 mà không biết nói. Đến nay theo bạn vào cung hầu yến, vì câm nên chỉ ngồi gõ phách. Khi vua bước lên ngự tọa, người con gái bỗng cầm phách hát. Tiếng hát du dương, dư âm dường quấn quanh trên rường, như khúc hát Quân thiên (điệu hát trên đế đình). Vua lấy làm lạ hỏi, thì người con gái nói năng giống hệt người Ngọc nữ trên chỗ Thượng đế. Vua liền thu nạp vào hậu cung, sách lập làm Trường Lạc Hoàng hậu (tr. 233).

Vì là người có nhan sắc tuyệt đẹp, bà Trường Lạc được vua Thánh Tông yêu quý nhất trong số các cung nhân. Vua đã cho điều tra lại vụ án Lệ Chi Viên và xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, bổ Anh Vũ, một người anh cùng cha với bà, làm tri huyện (1464). Tuy nhiên, mối tình đằm thắm với vua Thánh Tông không rõ kéo dài bao lâu, nhưng về sau, theo sử sách, bà bị ruồng bỏ, bạc đãi đến nỗi đem lòng thù ghét.

Đại Việt sử ký toàn thư có nói đến việc này, bà bị giam cầm ở cung lâu ngày, đến khi Thánh Tông hấp hối, được đến thăm, ngầm đem thuốc bôi vào chỗ loét của vua, bệnh vua càng thêm nặng mà qua đời.

Gia phả họ Nguyễn Nhị Khê cho biết, sau vụ án Lệ Chi Viên, gia quyến Nguyễn Trãi có một số người chạy thoát nạn “tru di tam tộc”. Đó là một người con của ông cùng hai bà vợ thứ tư và thứ năm, đang mang thai…Phải chăng đây chính là cơ sở để người ta cho rằng, chuyện bà hoàng Trường Lạc (huý là Hằng) là con gái của Nguyễn Trãi? 

Nói về việc này, người xưa có những ghi chép không giống nhau, trong đó có tài liệu chỉ nhắc đến con trai Anh Vũ may mắn sống sót mà không cho biết Nguyễn Trãi có con gái sống sót. Tuy nhiên, sử gia Trần Huy Liệu (Nguyễn Trãi, Khoa Học, 1966) lại viết rằng: Thế rồi cả gia quyến Nguyễn Trãi bị bắt giam: con gái bị sung làm nô tỳ ở cung vua hay ở các nhà quan, con trai thì chờ ngày ra pháp trường chịu tội tử hình. Như vậy, giả thuyết con gái Nguyễn Trãi sống sót là có.

Mặt khác, chính sử chép rằng Thái hoàng thái hậu Trường Lạc mất năm 1505, thọ 65 tuổi. Theo cách tính tuổi thông thường, cô Hằng sinh năm 1441. Được hai tuổi (1442) thì mồ côi cha. Năm 1460 cô được tuyển vào cung, tuổi vừa tròn 20. Chi tiết này có vẻ khá trùng hợp với các tài liệu nói về Nguyễn Trãi. Tính từ năm ông bị giết (1442) đến năm cô Hằng được tuyển vào cung (1460) được 18 năm. Cô Hằng vào hầu vua Thánh Tông năm cô ít nhất cũng đã được 19 tuổi ta. Và năm Nguyễn Trãi bị giết, cô Hằng được 2 tuổi, Anh Vũ còn nằm trong bụng mẹ. Rất có thể bà Trường Lạc là chị ruột hay ít ra cũng là chị cùng cha khác mẹ của Anh Vũ.

Tiếp đó, tại sao chính sử nói bà Trường Lạc quê ở Gia Miêu (Thanh Hóa), song lại được vua Uy Mục cho làm điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên huyện Quảng Đức (Thăng Long, Hà Nội ngày nay) để thờ tiên tổ của bà. Phải chăng quê quán thực của bà là vùng Quảng Đức, chứ không phải Gia Miêu? Chúng ta cũng được biết rằng Nguyễn Trãi sinh ra tại gia đình nhà mẹ là dinh quan Tư đồ Trần Nguyên Đán ở Thăng Long. Đây là một điều trùng hợp ngẫu nhiên hay cố ý ? Hay là cha đẻ của bà không phải là Nguyễn Đức Trung mà chính là Nguyễn Trãi?

Một số sử gia đương đại cho rằng, việc Nguyễn Trãi có một người con gái sống sót nhưng chính sử lại chép Hoàng thái hậu Trường Lạc (hay Hoàng thái hậu họ Nguyễn) là con gái thứ hai của ông Nguyễn Đức Trung có thể lý giải do Thái úy là người tốt, ông nuôi cô nô tì từ nhỏ và nhận là con. Thêm vào đó là dù triều đình Thánh Tông có biết rõ gốc gác của bà hoàng hậu Trường Lạc, thì sử thần đương thời cũng khó mà có thể chép rằng chính triều đình của bố Thánh Tông đã giết oan ba họ nhà cha vợ của vua.

Nếu bà Trường Lạc đúng là con gái sống sót của Nguyễn Trãi như Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cho biết thì cuộc đời của bà có thể nói là nhiều thăng trầm, bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam. Cha bà cùng với 3 họ bị giết oan, bà bị bắt làm nô tì từ năm 2 tuổi. Lớn lên bà được tuyển vào cung vua, được phong quý phi, hoàng hậu (vợ vua), rồi lại bị vua hắt hủi, giam nơi cung cấm. Bà được tấn phong hoàng thái hậu (mẹ vua), thái hoàng thái hậu (bà vua) và cuối cùng bị cháu nội sai người giết chết.( http://vi.wikipedia.org/)

6.13. Nguyễn Kính Phi (1504-1509): Kính phi, họ Nguyễn, là một hoàng phihoàng thái hậu nhà Hậu Lê. Bà là vợ vua Lê Hiến Tông, mẹ nuôi của vua Lê Uy Mục.

Bà quê ở xã Hoa Lăng, huyện Thủy Đường (nay là huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng). Bà Chiêu Nhân phi Nguyễn Thị Cận sinh con, không may mất sớm. Đứa bé được bà nhận nuôi làm con, lớn lên tên Lê Tuấn, tức Lê Uy Mục.

Khi Lê Hiến Tông ốm nặng, bà đút lót hai vị đại thần là Đàm Văn Lễ và Nguyễn Quang Bật, nhờ họ sửa di chiếu để lập con nuôi của bà làm Hoàng đế. Tuy nhiên, hai vị này khước từ, quyết chí lập Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông. Việc này làm Uy Mục căm tức, và sau này khi lên ngôi ông đã giết chết hai vị quan này.

Khi Uy Mục lên ngôi, bà trở thành Hoàng thái hậu.

Thế lực vùng Hoa Lăng của bà, là một trong 3 thế lực ngoại thích chi phối toàn bộ đất nước dưới thời Uy Mục; 2 thế lực kia là vùng Phù Chẩn của bà Chiêu Nhân thái hậu và vùng Nhân Mục của bà Trần hoàng hậu.

Với thế lực ngoại thích, Uy Mục bắt giết anh em, các chú họ nội, dẫn đến Giản Tu công Lê Oánh nổi binh lật đổ, lên ngôi trở thành Lê Tương Dực. ( http://vi.wikipedia.org/)

6.14. Nguyễn Đức Lượng (chữ Hán: 阮德亮, 1465 - ?), người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Dân Hòa huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội), đỗ đầu khoa tháng tư, Giáp Tuất, Hồng Thuận năm thứ 6 (1514), đời Lê Tương Dực cùng Nguyễn Chiêu Huấn (阮昭訓), Hoàng Minh Tá (黃明佐) là 3 người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Vũ (阮瑀) cùng 19 người khác đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Bỉnh Di (阮秉彝) và 19 người khác đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Ngày 27 tháng 4, vua thân hành ngự điện ra đầu bài văn sách hỏi về nhân tài. Sai Tả bình chương quân quốc trọng sự nhập nội kiểm hiệu thượng tướng thái uý Lương quốc công Lê Phụ, Lại bộ thượng thư tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Đàm Thận Huy, Công bộ hữu thị lang Lê Tán Tương, Thiếu bảo Lại bộ thượng thư Do Lễ bá Nguyễn Bá Thuyên, Hộ bộ thượng thư tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Cẩn Lễ nam Đoàn Mậu, Thiếu báo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung, Hình bộ thượng thư Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên Đỗ Nhạc chia nhau trông coi việc thi.

Nguyễn Đức Lượng từng đi sứ nhà Minh. Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lễ. Khi ông chết, được tặng thượng thư ( http://vi.wikipedia.org/)