Video
Công đức
Sách: DI SẢN VĂN HÓA DÒNG HỌ (NXB Hồng Đức XB 2016)

CHƯƠNG I: ĐỀN THỜ VỀ KINH DƯƠNG VƯƠNG - NGUYỄN QUẢNG, CON CHÁU CỦA NGÀI: QUỐC TỔ LẠC LONG QUÂN VÀ CÁC VUA HÙNG

  1. Nước Xích Quỷ và Kinh Dương Vương – Nguyễn Quảng

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên... soạn thảo (1272 - 1697). Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội (Hà Nội) ấn hành (1993). Trong Chương 1: Ngoại Kỷ Toàn Thư Q 1 nói về Hồng Bàng, có đoạn viết: “Kinh Dương Vương Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông. Nhâm Tuất, năm thứ 1. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua là Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.

Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân Tên húy là Sùng Lãm, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.

Hùng Vương - Con Lạc Long Quân (không rõ tên húy), đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc). Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang”

Theo Bách khoa toàn thư (http://vi.wikipedia.org/): Hồng Bàng là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ (nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (~2879 Tr.CN). Lãnh thổ của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ XuyênTrung Hoa ngày nay).

* Theo “Cổ Lôi Ngọc phả truyền thư” được ghi chép từ thời Tự Đức năm thứ nhất “Tự Đức nguyên niên chính nguyệt thập ngũ nhật” được lưu giữ tại từ đường họ Nguyễn (Nguyễn tộc) thôn Vân Nội, xã Phú Lương, huyện Thanh Oai, TP.Hà Nội do Hà Khắc Khoan phiên âm và dịch ngày 10 tháng 02 năm 2012 có ghi:

“Con vua Viêm Đế xưng là Thần Nông. Đến Sở Minh Công nối nghiệp sinh ba người con trai là: Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Chia đất nước làm ba nước có ba vua trong đó có nước Xích Quỷ kinh đô ở Phong Châu do Nguyên trưởng Kinh Dương Vương làm chủ. Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình, bà sinh Lạc Long Quân. Lạc long Quân lấy con gái vua Đế Lai là bà Âu Cơ sinh ra Hùng Lân nối ngôi vua là Hùng Quốc Vương, kế truyền 18 đời hơn 100 lượt vua đều lấy tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Tổ Kinh Dương Vương, huý là Quảng (Nguyễn Quảng). ” (tr 43-44).

Cuốn “Việt Nam và cội nguồn trăm họ” của tác giả Bùi Văn Nguyên – NXB Khoa học xã hội, năm 2000 có viết: “Sở Minh Công có hai vợ:

Bà chính thất, không chép tên, sinh một bọc hai con trai đầu là Nguyễn Minh Khiết (còn gọi tắt là Đế Minh) và em ra sau là Nguyễn Nghi Nhân (còn gọi là Đế Nghi).

Bà thứ hai sinh con trai là Nguyễn Long Cảnh (còn gọi là ông Ba) sau đổi là Lý Nỏ. Lý Nỏ nhận làm thái sư cho cháu, con anh trưởng là Nguyễn Lộc Tục, tức về sau là kinh Dương Vương  (tr 64-65).

* Tác phẩm “Nam Bang Thuỷ tổ Kinh Dương Vương” của Trần Quốc Thịnh do NXB Văn hoá dân tộc phát hành năm 2012 đã viết:

“Cụ Thần Nông sinh ra Viêm Đế. Viêm Đế sinh ra Đế Minh (tức cụ Nguyễn Minh Khiết). Đế Minh tuần du đến núi Ngũ Lĩnh gặp con gái cụ Vũ Tiên là Nữ Tiên Nương công chúa, hai người kết duyên cầm sắt. Sau này dân Việt tôn thờ Nữ Tiên công chúa là Mẫu Đoan Trang Công Chúa

 Vào năm Nhâm Tuất có một vì sao sáng rực gọi là sao Quỷ, đỏ rực và nổi trội nhất trong 28 vì sao Nhị Thập Bát Tú. Cùng lúc đó, ở trời phương Nam có chòm sao Huyền Vũ đầu thai vào Mẫu Đoan Trang công chúa. Mẫu sinh ra người con trai khôi ngô tuấn tú, tướng mạo phi thường, được cha yêu quý đặt tên là Lộc Tục - Kinh Dương Vương”.(tr 34,35)

* Tác phẩm “Trường ca tiền sử Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Bình do NXB Văn hoá-Thông tin phát hành Quý III năm 2014 có đoạn viết:

“Đế Thừa (Sở Minh Công) có 2 bà vợ, bà cả là Trần Thị Phú sinh đôi hai con trai là Nguyễn Minh Khiết và Nguyễn Nghi Nhân, giống nhau như hai giọt nước; bà hai là Trần Thị Lãm (em gái bà Trần Thị Phú) sinh được Nguyễn Long Cảnh. Nguyễn Minh Khiết (“Đế Minh” sau còn gọi là Khương Thái Công)…Đế Minh khi cao tuổi, bèn giao cho con trai trưởng là Nguyễn Lộc Tục (sau này tôn là Kinh Dương Vương) làm chủ trưởng, lấy tên nước là Xích Quỷ (Quỷ là ba chữ vương ghép lại), đóng đô ở Phong Châu” (tr 226).

 Dựa vào các tư liệu, các chứng tích trên, Hội người họ Nguyễn Việt Nam suy tôn Kinh Dương Vương là Thuỷ tổ của họ Nguyễn Việt Nam để tôn thờ.

1.2.Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương ở Á Lữ - Thuận Thành-Bắc Ninh.

Xây dựng lăng mộ, lập đền thờ các vị tiền nhân là thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.

* Từ thành phố Bắc Ninh (trước là thị xã Bắc Ninh) xuôi đường 38 đến Cầu  Hồ (trước là phà Hồ) khoảng 12km, đến ngã tư Song Hồ khoảng 500m, rẽ phải dọc theo đê sông Đuống chừng 5km đến thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Á Lữ là một làng cổ nằm sát bờ Nam sông Đuống, truyền rằng là đất hội tụ của “Tứ linh” với 99 cái ao, 99 cái gồ, được ví như Long, Ly, Quy, Phượng chầu về, nơi duy nhất có lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước.

Lịch sử xây dựng.

Theo baobacninh.com.vn,  Xưa kia, hai ngôi đền cổ ở phía Tây làng Á Lữ thờ phụng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ (Đền Thượng thờ Kinh Dương Vương, đền Hạ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ), có quy mô kiến trúc to lớn, chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý” lộng lẫy. Về phía Đông lăng Kinh Dương Vương xưa còn có một ngôi chùa có tên chữ là “Đông Linh Bát Nhã tự” thờ các đức “Thánh mẫu thủy tổ” là Vụ Tiên, Thần Long và Âu Cơ.

Thủy tổ Kinh Dương Vương còn được thờ làm Thành Hoàng làng thôn Á Lữ. Ngôi đình cổ ở phía Đông làng được khởi dựng với quy mô to lớn gồm 2 tòa: Tiền tế 7 gian và Đại đình có 5 gian tiền đình và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ cũng chạm khắc “tứ kinh tứ quý”. Hệ thống thần phả sắc phong của đình và đền đã cho biết rõ người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công khai sơn sáng thủy.

Năm 1949-1952, giặc Pháp kéo đến thôn Á Lữ, đóng đồn bốt ở đây, phá hoại toàn bộ đền đình chùa, dân làng đã kịp cất giữ một số đồ thờ tự cổ quý như: ngai, kiệu, sắc phong… của đền và đình. Đến năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ đã tôn tạo khu Lăng mộ Kinh Dương Vương. Năm 2000, một ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ được phục dựng theo kiểu thức truyền thống như hiện nay.

Điều vô cùng quý giá của quần thể di tích là còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội: Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam)… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại như sau: 1 đạo Gia Long 9 (1810), 1 đạo Minh Mệnh 2 (1821), 2 đạo Thiệu Trị 2 (1842), 2 đạo Thiệu Trị 6 (1846), 2 đạo Tự Đức 3 (1850), 1 đạo Tự Đức 33 (1880), 2 đạo Đồng Khánh 2 (1887), 1 đạo Duy Tân 3 (1909) và 2 đạo Khải Định 9 (1924).

Theo chia sẻ của các cụ cao niên ở xã Đại Đồng Thành, trong tất cả các đạo sắc phong thời Nguyễn từ Gia Long đến Khải Định đều có câu đầu tiên là “Thần truyền - Thánh kê”, chứng tỏ các triều đại trước đó đều coi khu di tích Kinh Dương Vương là nơi linh thiêng của dân tộc trực thuộc triều đình “Nhất thôn nhất xã” bởi tên gọi trước kia của thôn Á Lữ chính là Trang Phúc Khang.

Cũng theo người dân địa phương, đây là nơi còn lưu dấu tích xưa về lăng mộ Thuỷ Tổ Kinh Dương Vương và các bia đá, sắc phong, thần phả, đồ thờ …từ đời Lý như các đại tự, câu đối, mâm rồng, chén bạc, nậm rượu, đĩa sứ cổ…); thời Trần có: Bộ bát bửu, xà mâu, long đao…; triều Lê, nhà Mạc đều có sắc phong nhưng bị Pháp đốt mất, hiện còn lại 15 sắc phong của các vua triều Nguyễn.

Nơi đây được trùng tu, tôn tạo bậc nhất vùng Kinh Bắc từ thời Lê-Trịnh vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XVII.

Thời vua Gia Long đã trùng tu miếu Kinh Dương Vương, đền Lạc Long Quân-Âu Cơ, tôn tạo ngôi thờ Tam vị Thánh Tổ.

Năm Minh Mệnh thứ 21(1840) được tu bổ lập bia.

Năm 1940, vua Bảo Đại tôn tạo hai đại tự: “Nam Tổ Miếu” (thờ Thuỷ Tổ) và “Thần truyền Thánh kê” (thờ các vị Thánh Thần).

Việc còn tấm bia đá đề: “Kinh Dương Vương lăng”, được làm vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840). Theo sách “Đại Nam thực lục chính biên” cho biết vào thời điểm đó vua Minh Mạng đã ban ân điển 18 điều, trong đó điều 4 chỉ rõ: “Lăng tẩm đế vương các chiều đại có hỏng nát chỗ nào thì thuê dân sửa chữa lại, lập bia chí, cấm dân hái củi ở đó” . Tháng 7 năm đó, khi bộ Lễ tâu về việc tu lý Kinh Dương Vương, Vua Minh Mạng đã khẳng định: “Sự tích Kinh Dương Vương dẫu chép ở sách “Ngoại kỷ” nhưng buổi đầu khai thác, thực là vua bắt đầu của lịch đại nước ta, cũng theo ân chiếu mà làm”. Như vậy, chắc chắn là trước khi vua Minh Mạng cho “tu lý”  lăng Kinh Dương Vương vào năm 1840, thì ở đây đã có di tích này và rõ ràng là khu lăng tẩm này đã có từ lâu rồi. (Nguyễn Hữu Toàn – Quanh vấn đề Kinh Dương Vương-Lạc Long Quân – Âu Cơ).

Sách “Đại Nam nhất thống chí”, tập IV, NXBKHXH –Hà Nội, 1971, trang 97 ghi: “Lăng Kinh Dương Vương ở làng Á Lữ huyện Siêu Loại, năm Mimh Mạng thứ 21 tu bổ và lập bia”, cũng sách này trang 99 ghi: “Miếu Kinh Dương Vương ở xã Á Lữ, huyện Siêu Loại, năm Minh Mạng thứ 4 đang thờ ở miếu lịch tại đế vương”. Cuốn “Bắc Ninh dư địa chí” của Đỗ Trọng Vĩ-NXBVHTT, trang 188 ghi: “ Xếp vào loại miếu thờ đế vương các triều đại, mỗi lần quốc khánh vua sai quân đến tế” (Nguyễn Duy Nhất – Những di tích thờ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân – Âu Cơ ở Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1981 cán bộ lãnh đạo và chuyên gia của Bộ Văn hoá – Thông tin cùng với Sở Văn Hoá-Thông tin Hà Bắc về thắp hương tri ân và tìm hiểu cội nguồn, gốc tích các thần phả, câu đối, đại tự, sắc phong nhà đền.

Năm 1993, đền và lăng được Bộ Văn hoá – Thông tin cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia.

Năm 2001 tỉnh Bắc Ninh có dự án trùng tu, tôn tạo khu di tích và Bộ VH-TT-DL đã chính thức phê duyệt dự án tôn tạo, tu bổ khu di tích Kinh Dương Vương với quy mô trên 36 ha, trị giá 500 tỉ đồng. Đây là việc làm đáng ghi nhận của hậu thế với người có công khai sinh ra nước Việt Nam.

Kiến trúc của Lăng và Đền

Khu lăng Kinh Dương Vương nằm ở ngoài đê, cách dòng sông Đuống ngày nay khoảng 500m, đã được tôn tạo khang trang, thoáng mát vẫn đậm dấu ấn của kiến trúc cổ.

 Lăng có 8 mái “hai tầng mái”, trước cửa lăng mộ có 3 bệ thờ, toàn bộ diện tích khu lăng mộ khoảng 4.200 m2. Nghi trượng khu lăng mộ gồm: Tấm bia đá xanh cao 1,05m, rộng 0,45m, mang dòng chữ “Kinh Dương Vương lăng” bia khắc năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) tháng 11, ngày 16 dựng xong lăng; trước lăng có đại tự “Nam bang thủy tổ” và câu đối “Việt nam sơ đầu xuất – Hồng bàng vạn đại xương” và “Lập thạnh kỷ công nam thánh tổ, Phong thần tổ tích bắc thần tôn”, cùng một số bát hương sành, sứ cỡ lớn hoa văn cổ kính…

Cổng chính khu Lăng có tấm bia đá cổ khắc nổi 2 chữ Hán “Hạ Mã” đặt ngay lối vào Lăng  theo người dân địa phương không biết có từ khi nào. Hai chữ “Hạ Mã” đường nét vô cùng tinh xảo. Hạ mã có nghĩa là xuống ngựa, chứng tỏ ngày xưa vua quan triều đình mỗi khi về thăm Thủy tổ đều phải kính cẩn xuống kiệu, xuống ngựa mới được đi vào. Cũng theo người dân ở đây kể rằng, xưa kia dù công hầu, khánh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe, hễ đi qua khu lăng mộ này đều phải xuống đi bộ hết địa phận của lăng.

Trong khuôn viên Lăng có Nhà thờ (đền trình) trên đường vào về phía tay phải khu lăng mộ để du khách sắp lễ…

 Có bàn thờ Tả Văn, Hữu Võ ở hai bên cánh gà đường lên Lăng Kinh Dương Vương.

Trên lăng mộ Kinh Dương Vương có hai chữ Hán cổ “Bất Vong” nghĩa là “Trường tồn mãi mãi”.

Ở lăng còn có các câu đối như: “Thần Nông tứ thế phân

                                           Việt Nam sơ đầu xuất”

      Nghĩa là:     “ Thế hệ thứ tư của vua Thần Nông

                            Nước Việt Nam bắt đầu xuất hiện”

        Câu đối: “Quốc thống khai Nam phục

                              Bi đình kỷ thành công”

Nghĩa là:     “Truyền thống mở dựng đất nước Nam

                     Thành công còn ghi bia kỷ”

Câu đối:  “Vạn cổ giang sơn tư duy tổ

                    Nhất khâu phong vũ ngật hồng bi”

 Nghĩa là: “Hàng vạn năm con cháu quy về miếu Tổ

             Một nấm mồ phong ba bão táp vẫn ửng hồng”. 

 Câu đối: “ Thiên cổ cương lăng linh tích lại

                   Nhất đàn trở đậu quốc dân sung”

 Nghĩa là: “Ngàn năm lăng miếu linh thiêng vẫn còn đây

                 Cháu con vọng bái muôn đời ân sủng” (Trần Quốc Thịnh – Nam Bang Thuỷ tổ).

Về đền thờ Kinh Dương Vương

Kinh Dương Vương được nhân dân Á Lữ tôn thờ ở đình làng, đền trong thờ Lạc Long Quân, đền ngoài thờ Âu Cơ, tuy mhiên đình và hai đền đều bị Pháp phá năm 1949.

Năm 1959 nhân dân Á Lữ rước ba vị về thờ ở khu văn chỉ (nơi thờ hiện nay).

Đền hiện nay gồm ba gian xây cất kiểu chữ công, nhà ngoài (tiền tế) gồm 5 gian, đủ để lập các ban thờ và tiếp đón du khách thăm viếng, có tường gạch bao quanh để bảo vệ, diện tích khu đền khoảng 2.347 m2.

Cổng đền ngoài nhìn vào có bốn chữ Hán đặp nổi: “THUỶ TỔ ĐÀI MÔN” (Cửa đền thờ đức Thuỷ Tổ”. Bên trong nhìn ra với ba chữ Hán đắp nổi: “ẨM TƯ NGUYÊN” (Uống nước nhớ nguồn).

Ba gian trong – gian giữa có long ngai sơn son thếp vàng đặt trên bệ thờ Kinh Dương Vương, gian bên trái có ngai đặt trên bệ thờ Âu Cơ, gian bên phải có ngai đặt bệ thờ Lạc Long Quân, cùng với hệ thống nghi trượng bằng đồng, gỗ, sứ khá phong phú như: mâm đồng, đỉnh, lư hương, ống hoa, thau rước nước, chiêng…

Gian tiền tế với hai bức đại tự: “Nam Bang Thuỷ Tổ” (Ông Tổ đầu tiên của nước Nam) ở bên trên và bên dưới là “Thần Tiên Thiên Tử” (Con của Thần, Tiên và Trời).

Gian chính điện có long ngai sơn son thếp vàng đặt trên bệ thờ Kinh Dương Vương với các bức đại tự đặt ở vị trí trang trọng: “Nam tổ miếu” (Miếu thờ ông tổ nước Nam), “Nam bang thủy tổ” (Ông Tổ đầu tiên của nước Nam), “Thần truyền Thánh kế” (Thần (Nông) truyền cho Thánh (vua) nối tiếp), “Nhật Trùng Quang” (Mặt trời luôn sáng) và “Hải khoát sơn tràng” (Biển rộng núi dài) (Trần Quốc Thịnh – Nam Bang Thuỷ tổ).

 Các câu đối gồm có:

“ Thái cực nhất nguyên thiên địa thuỷ

Viêm giao Bàn Cổ Đế vương tiên”

Nghĩa là: “Khí âm dương trời đất tạo nên vạn vật

Có Đế Vương từ thời Bàn Cổ  xa xưa”

“Nam cực hoàng đồ vạn lý giang sơn đề tạo thủy

Hồng Bàng đế trụ thiên thu hà lạc tú linh thanh”

Nghĩa là: “ Cương vực nước Nam núi sông vạn dặm vốn tạo có từ trước

Hồng Bàng đế vương gìn giữ  ngàn năm còn để lại tiếng linh thiêng”

 “Phụ đạo thiên niên quốc

 Âu Cơ bách noãn bào”

Nghĩa là: “Đạo người cha hàng ngàn năm vẫn là đạo của đất nước

Mẹ Âu Cơ mãi mãi là mẹ của 100 trứng sinh ra”

“ Bách nam vận sự truyền sơn hải

Nhất tộc nghiêm từ trĩ cổ kim”

Nghĩa là: “ Một trăm con trai khắp bốn phương lập nghiệp

Gia tộc Hồng Bàng cổ xưa giữ phép nước kỷ cương”

“ Hy kỳ vận sự nam tư bách

Hiển hách linh quang bãi đế thần”

Nghĩa là: “Phúc lớn cụ Thuỷ Tổ trăm họ con Rồng cháu Tiên

Đất linh ở bãi biển có đế thần hiển hách”… (Trần Quốc Thịnh – Nam Bang Thuỷ tổ).

Ở gian chính điện chính điện bên phải còn có ngai, bài vị thờ Lạc Long Quân với bức đại tự: “Hải khoát sơn tràng” nghĩa là: “Biển rộng núi dài”. Bên trái có ngai, bài vị thờ mẹ Âu Cơ với bức đại tự: “Bách Việt Tổ” nghĩa là: “Tổ Bách Việt”

 Ở đây còn lưu giữ 15 đạo sắc của các vua triều Nguyễn ban cấp hiện còn lưu giữ, đạo sắc có niên hiệu sớm nhất: “… Gia Long cửu niên (1810) tháng 8 ngày 11 Sắc chỉ. Siêu Loại huyện, Á Lữ xã, viên sắc xã trưởng toàn xã đẳng hệ luôn xã tòng tiền phụng sự Kinh Dương Vương nhất vị hữu linh triều gia tôn mỹ tự chuẩn hứa y cựu phụng sự chỉ thần kính ý cố sắc”… Đạo sắc có niên hiệu muộn nhất… Khải Định cửu niên (1924) tháng 7 ngày 25 sắc chỉ, Bắc Ninh tỉnh, Thuận An phủ, Siêu loại huyện, Á Lữ xã, toàn tiền phụng sự Kinh Dương Vương hộ quốc tý dân hiển hữu công đức tiết mông ban cấp, sắc chỉ chuẩn hứa phụng sự tứ kinh chính trực…

Trong khuôn viên đền thờ Kinh Dương Vương ở bên tay phải nhìn vào là chùa Đông Linh Bát Nhã (Đông Linh Bát Nhã tự). Chùa thờ Tam Toà Thánh Mẫu gồm có

Thiên Tiên Thánh Mẫu: là Tiên Nương Công chúa, con gái cụ Vụ Tiên, vợ cụ Đế Minh, thân mẫu Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương. Dân Việt Cổ tôn bà là Hương Cái Bồ Tát (hay công chúa Đoan Trang).

Thượng Ngàn Thánh Mẫu: Là nữ Thần Long (con gái cụ Động Đình Quân), vợ Kinh Dương Vương, thân mẫu của Sùng Lãm (tức Lạc Long Quân).

 Địa Tiên hay  Thuỷ Tiên Thánh Mẫu: Là mẹ Âu Cơ con cụ Đế Lai là vợ Lạc Long Quân, sinh ra bọc Rồng trăm trứng, nở trăm con, là Mẫu Tổ của giống Tiên Rồng, mẫu của vua Hùng.

Ngôi chùa này vẫn giữ được nền móng và các vật thờ cổ như:

Tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế - Kinh Dương Vương. Tượng Đức Di Lặc, Đức Thánh Hiền. Tượng ba vị Mẫu (Đệ Nất Thiên Tiên, Quốc Mẫu, Tổ Mẫu) cùng các tượng phật. Tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng Phật Thích Ca và các vị La Hán Ấn Độ, Trung Quốc  đã du nhập Đạo Phạt sang nước ta từ thời Sỹ Nhiếp.

Lễ hội Kinh Dương Vương

ễ hội Kinh Dương Vương được tổ chức từ ngày 14-19 tháng 2 âm lịch với các nghi lễ vô cùng hoành tráng và độc đáo. Vào ngày giỗ Kinh Dương Vương, dân làng Á Lữ mở hội rước nước, hay còn gọi là hội Phục Ruộc, có nghĩa là hội tắm gội. Mở đầu là màn trống khai hội, rồi đến lễ dâng hương tại đền thờ Kinh Dương Vương-Lạc Long Quân- Âu Cơ. Sau đó là nghi thức rước kiệu. Trước đây, ban rước kiệu là những thanh niên trai tráng, được tuyển chọn, có nhiệm vụ khiêng kiệu đựng chóe nước từ đền ra bến sông. Đi đầu là đoàn múa lân, rồng mang cờ xí, gõ trống chiêng vang động cả khúc sông. Tiếp đó người có địa vị cao trong làng mang choé xuống thuyền bơi ngược về phía thượng nguồn, đến chỗ dòng nước trong sạch vừa múc nước đầy choé vừa đọc thần chú. Thuyền cập bờ mọi người lại phất cờ nổi chiêng trống, rước choé về đình làm lễ. Đến khi tan lễ, dân làng mang nước đó tưới cho cây cối quanh làng.

Trong những ngày lễ giỗ có nhiều vị chính khách Việt Nam đã tới dự như: Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2009, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan năm 2012…

Lễ hội làng Á Lữ hàng năm đã lan rộng khắp cả nước với tấm lòng tri ân, tưởng nhớ nguồn cội tổ tông của cháu con đất Việt”.

       1.3. Đền Quốc tổ Lạc Long Quân ở đồi Sim tỉnh Phú Thọ

Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN) (chữ Hán: 雒龍君 hoặc 駱龍君 hoặc 貉龍君) tên húy là Sùng Lãm (崇纜), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam, con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục (húy là Nguyễn Quảng) và con gái Động Đình Quân tên là Thần Long. Lạc Long Quân được xem là vị vua thứ 2 của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang do Kinh Dương Vương lập nên.

Đền Quốc tổ Lạc Long Quân được xây dựng tại đồi Sim, cách núi Nghĩa Lĩnh khoảng 1 km, nơi có vị trí đắc địa, có thế "sơn chầu thuỷ tụ".

Đồi Sim có hình thế giống một con rùa lớn, hai bên có Thanh Long, Bạch Hổ, phía trước là hồ Hóc Trai và sông Hồng chảy xuôi về biển.

 Ngôi đền tọa lạc trên lưng rùa biểu hiện sự linh thiêng huyền diệu. Đền thờ gồm các hạng mục: đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, nhà tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật. Đền thờ được chia làm 3 khu: Khu A, diện tích gần 9.000 m2 xây dựng đền thờ chính; khu B, rộng hơn 9.400m2 xây dựng khu đón tiếp và nhà quản lý; khu cảnh quan và các công trình phụ trợ rộng hơn 119.000m2.

Đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân được khởi công xây dựng ngày 26-2-2007 (8-2 âm lịch) với tổng số vốn đầu tư 139 tỉ đồng trên nền diện tích 13,9 ha với các hạng mục: đền chính với kiến trúc chữ Đinh, cổng đền được chạm họa tiết hoa văn trên trống đồng cách điệu cả 4 mặt.

Đền chính có diện tích 210m2, kiến trúc kiểu chữ đinh truyền thống, nội thất bằng gỗ lim, sơn son thếp vàng, mái lợp ngói mũi hài, nền lát gạch Bát Tràng, bó vỉa đá xanh. Hậu cung đặt tượng thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân dáng vẻ uy nghiêm. Tượng được đúc bằng đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là tượng Lạc hầu và Lạc tướng ở tư thế đứng có chiều cao 1,80m, mỗi pho nặng 0,5 tấn. Các pho tượng do các nghệ nhân thuộc Công ty Mỹ thuật Trung ương (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng các nghệ nhân của làng nghề đúc đồng Ý Yên - Nam Định thực hiện.

Cổng đền (nghi môn) cũng được xây dựng theo kiểu truyền thống, gồm có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng khoảng 2m. Cổng được xây dựng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh chạm họa tiết hoa văn 4 mặt. Phía trước nghi môn là cổng biểu tượng cũng có kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá và chạm khắc. Hai bên sân đền là nhà tả vu, hữu vu xây dựng 5 gian, khung gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Hai trụ biểu đối xứng nhau cũng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh.

 Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được Nhà nước đầu tư xây dựng đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo hoa văn trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc... thể hiện sinh động, độc đáo mang nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền tôn thêm sự uy nghiêm, linh thiêng.

Đến Đền Hùng ngày nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. Ngày Lễ Chính: Ngày 6/3 âm lịch hằng năm. (http://tinhtam.vn/;  http://dulich.phutho.gov.vn/).

1.4. Đền Mẫu Âu Cơ

Theo truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ (嫗姬) là tổ mẫu của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và đem về làm vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau và sinh ra 100 người con. Sau đó vì thủy thổ tương khắc nên hai người phải chia con ra 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ về núi và chia nhau cai quản các vùng. Đây là tổ tiên của người Bách Việt.

Âu Cơ là một nàng tiên xinh đẹp sống ở trên những ngọn núi cao. Nàng đi khắp bốn phương để giúp và trị bệnh cho những người đang lâm bệnh và gặp khó khăn. Nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật. Một ngày nọ, một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng liền biến thành một con sếu mà bay đi. Lạc Long Quân, là thần rồng từ biển cả, thấy nàng đang gặp nguy hiểm liền cầm lấy cục đá và giết tên quái vật Sau đó tình yêu đã nảy nở giữa hai người và họ cưới nhau. Âu Cơ sinh ra một bọc trứng có 100 người con. Một ngày nọ, Lạc Long Quân nói với nàng vì hai người đến từ chủng tộc và môi trường rất khác nhau nên không thể chung sống với nhau trọn đời được. Họ bèn chia nhau mỗi người 50 đứa con, 50 theo mẹ, 50 theo bố. 50 người con theo mẹ đi đến ở Phong Châu, người anh cả trở thành Hùng Vương đầu tiên của nước Văn Lang.(vi.wikipedia.org).

1.4.1. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ Hiền Lương, Phú Thọ là nơi thờ Mẹ Âu Cơ, được xây dựng từ thời Hậu Lê, nằm trên địa phận xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam.

Dưới triều vua Lê Thánh Tông năm 1465, vua đã ra chiếu chỉ phong thần, cấp tiền, xây dựng thành Đền Tổ Mẫu Âu Cơ như ngày nay, giao cho nhân dân xã Hiền Lương thờ phụng. Thế kỷ 15, triều đình Hậu Lê đã phong sắc và cho xây dựng đền, thế kỷ 19 nhà Nguyễn một lần nữa lại phong sắc công nhận đền Tổ Mẫu Âu Cơ.

Ngày 3/8/1991, đền Tổ Mẫu Âu Cơ đã được Bộ Văn hóa – Thông tin nước CHXHCN Việt Nam cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Đền Tổ Mẫu Âu Cơ là một công trình nghệ thuật kiến trúc có giá trị cao với các kết cấu kiến trúc đền chùa cổ, các pho tượng quý như tượng Âu Cơ, tượng Đức Ông, các bức chạm quý và nhiều cổ vật vô giá. Khu vực đền là một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài khoảng 200m và chiều rộng khoảng 150m với tường cao bao quanh.

Truyền thuyết kể rằng: Mẹ Âu Cơ vốn là một nàng tiên chuyên về trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải cho trời. Nhân tiết đầu xuân du ngoạn, nàng lẫn vào mây xanh nhìn xuống hạ giới thấy bãi mía, nương dâu ngút ngàn. Hỏi ra mới biết là động Lăng Xương bên bờ sông Đà, cảnh vật dưới trần còn đẹp hơn tiên cảnh. Nàng bèn rời tiên cung bay xuống thưởng ngoạn…

Bất ngờ bên bờ sông, hiện ra một chàng trai tuấn tú, tướng mạo khác thường… Hai người chào hỏi nhau rồi chuyện trò vui vẻ xem ra rất tâm đầu ý hợp. Họ đi dạo bên bờ sông xanh, giữa nương dâu ngút mắt, từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, quên cả ăn cả uống… Người con trai có tướng mạo phi thường đó chính là Lạc Long Quân vua của nước Văn Lang. Nhà vua đi tuần thú khai Xuân trông thấy tiên sa, mới dừng lại chờ đợi… Khi đầu mày cuối mắt đều ưa, Long Quân mới ngỏ lời cầu hôn nàng Âu Cơ. Nàng nói: “Chàng là giống Rồng, thiếp là nòi Tiên, thủy hỏa tương khắc, lấy nhau thế nào được!”.

Long Quân liền nói: “Ta biết, thủy hỏa tương khắc đấy, nhưng âm dương vẫn hòa hợp. Tuy không được ở với nhau lâu dài nhưng duyên trời một khắc ấy là trăm năm…”. “Nếu sau một thời gian ngắn sống với chàng thiếp lại về trời… thế là được” – Âu Cơ ưng thuận.

Long Quân đưa nàng Âu Cơ về núi Nghĩa Lĩnh. “Đúng ba năm, ba tháng mười ngày vào giờ Ngọ ngày 25 tháng Chạp Mậu Tý, mây lành bao phủ, tướng lạ hiện tiền, hào quang sáng chói khắp phòng, hương thơm ngào ngạt cả vùng, Âu Cơ trở dạ sinh ra 100 quả trứng ngọc…

“Đúng giờ Ngọ, 15 tháng Chạp Ất Sửu, bào thai nở thành 100 trứng nở thành 100 con trai, lúc ấy hào quang rực rỡ, hương thơm sực nức đầy nhà. Trong có một tháng không cần bú mớm mà đã lớn khôn, tướng mạo khác thường, tinh thần lẫm liệt, cái thế anh hùng, cao to 3 thước, 7 tấc…). (Trích Ngọc phả Đền Hùng).

Lại theo truyền thuyết, khi các con đã khôn lớn, Long Quân bảo: Bây giờ là lúc Tiên Rồng chúng ta phải chia tay, ta về miền biển còn nàng lên núi, mỗi người đem theo một nửa số con, phong cho Lân Lang là con cả ở lại làm vua.

Âu Cơ dẫn 50 con ngược sông Thao đến Trang Hiền Lương, thấy một vùng đất sơn thủy hữu tình, chẳng khác gì tiên cảnh. Âu Cơ dừng lại, chọn Trang Hiền Lương làm nơi lập ấp sinh sống, và sai các con đi tiếp khai khẩn các vùng đất xa xôi…

Mẫu Âu Cơ dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, bắc cầu qua khe suối, đào giếng Loan, giếng Phượng lấy nước sạch ăn uống. Khi vùng đất Hiền Lương trở nên trù phú, các con đi khai khẩn những vùng đất mới, vượt qua mọi núi non hiểm trở để tạo dựng cơ nghiệp cho muôn đời, mẫu Âu Cơ mới quyết định bay về trời. Vào lúc nửa đêm ngày 25 tháng Chạp, mưa to gió lớn mù mịt đất trời, Mẫu Âu Cơ đằng vân. Vì không muốn các con biết mình rời hạ giới, Mẫu vội vàng đến nỗi đánh rơi dải yếm, vướng vào ngọn đa cổ thụ cạnh giếng Loan, giếng Phượng.

Sáng hôm sau trời quang, mây tạnh, dân Trang Hiền Lương không thấy Mẫu, mọi người lo lắng bổ đi tìm. Gần trưa có người nhìn lên ngọn đa thấy có dải yếm đào vắt ngang mới biết Mẫu đã về trời. Dân lập đền thờ Mẫu ngay dưới tán đa, định lễ cầu cúng một năm hai lần vào ngày Tiên Giáng mồng 7 tháng Giêng và ngày Tiên thăng 25 tháng Chạp…

Phía trước Đền Tổ Mẫu là núi Giác giống như một chiếc án thư khổng lồ, kỳ vĩ, sau lưng là vòng cung sông Thao tựa thân rồng uốn lượn… Khu đền nằm trên một vạt đồi bằng phẳng, rộng gần 3 héc ta ở giữa xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Hiền Lương ở vị trí tận cùng Tây Bắc, tỉnh Phú Thọ, giáp tỉnh Yên Bái, cách thành phố Việt Trì 80 cây số. Từ Thủ đô Hà Nội lên khu đền Mẫu có thể đi đường bộ, đường thủy hoặc đường sắt. Đường bộ đi từ Việt Trì qua cầu Phong Châu sang hữu ngạn sông Thao rồi ngược đường 32C. Đường thủy, xuất phát từ ngã ba Bạch Hạc ngược sông Thao đến bến Hiền Lương. Đường sắt, từ ngã ba Việt Trì xuống ga Đan Thượng hoặc từ thành phố Yên Bái xuôi 20 km sẽ tới…

Đền Tổ Mẫu Âu Cơ ẩn dưới tán đa cổ thụ. Cây đa hiện nay do rễ phụ của cây đã cũ tạo nên nhiều gốc trên một diện tích khá rộng. Nhân dân ở đây vẫn cho rằng cây đa có từ thời Mẫu Âu Cơ bốn nghìn năm trước…

Đền Tổ Mẫu Âu Cơ xưa kia chỉ thờ một mình Mẫu. Có pho tượng Mẫu bằng gỗ quý cao 93cm ngồi trên long ngai, hai tay tì lên đầu gối, mặc áo đại trào, đầu đội mũ miện, chân đi hài cong.

Theo sử sách, đời vua Lê Thánh Tông, năm thứ 6 niên hiệu Quang Thuận (Tây lịch 1465) sai quan lễ bộ tri bảng thần Nguyễn Hiền sao lại bản sự tích Mẫu Âu Cơ để truyền lại. Bản sự tích nói rằng hoàng đế thời đó sai giám quan quốc sư viết sắc phong thần và đến trang ấp Trang Hiền Lương trao cho phụ lão 30 quan tiền để lập miếu thờ, hương hỏa đời đời…

Lễ hội Tổ Mẫu Âu Cơ một năm diễn ra hai lần. Ngày 7 tháng Giêng là lễ cầu chính, mở hội lớn ba ngày, chuẩn bị trước cả tháng. Dân làng họp để bầu chọn xóm đăng cai (xóm Chợ, xóm Gò, xóm Lón). Nếu xóm nào quanh năm hòa thuận, không xảy ra trộm cắp hoặc con cái chửa hoang thì được đăng cai. Xóm lại chọn gia đình nào con hiền thảo, gia đình hòa thuận ấm êm, mới được đăng cai.

Có một điều thật thú vị, phần lễ tế ở đây đều do nữ đảm nhận. Từ năm 1941 đến nay đội tế gồm 11 cô gái xinh xắn, chưa chồng được phân ra làm các chức việc: Một cô làm chủ tế mặc áo dài đỏ, quần trắng, đi hài, đầu vấn khăn đỏ, quấn đai kim tuyến ở bên ngoài. Hai cô làm bồi tế khăn và áo dài phớt hồng, quần trắng, đi hài. Hai cô làm Đông Tây xướng, một cô làm thông tán đọc chúc văn…

Tại khu Đền có giếng Loan, giếng Phượng, nhà Tả mạc, Hữu mạc, ao sen… quần thể di tích hài hòa, tụ lại nơi đây khí thiêng sông núi. Một khu đất rộng để quan khách đến trồng cây. Mỗi cây gỗ quý được ghi tên một người trồng.

Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ 15) ghi: Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng) là tổ của Bách Việt. Một hôm, Vua bảo Âu Cơ rằng “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp khó”, bèn từ biệt chia nhau 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về miền Nam (có sách chép là Nam Hải), phong con trưởng là Hùng Vương nối ngôi vua (Ngọc phả quyển 1). Trong sách “Khâm địch Việt sử thông giám cương mục” thế kỷ 19 lại ghi: Hùng Vương dựng nước gọi là Văn Lang… Kinh Dương Vương sinh con là Sùng Lãm, gọi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh trăm con trai. Ấy là tổ tiên của Bách Việt. Long Quân và Âu Cơ suy tôn con trưởng Hùng Vương nối ngôi vua, dựng nước gọi là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu truyền ngôi 18 đời gọi là Hùng Vương…

Sử sách ghi Âu Cơ con của Đế Lai, nhưng truyền thuyết lại kể Âu Cơ là một nàng tiên giáng trần. (http://tamnhin.net/)

Ngày lễ chính của đền Mẫu Âu Cơ là ngày Tiên giáng mùng 7 tháng Giêng. Dân trong vùng từ lâu đã có câu ca lưu truyền: Mùng bảy trong tiết tháng Giêng, Dân Hiền lễ tế trống chiêng vang trời.... Lễ hội có lễ tế Thành Hoàng ở đình, rước kiệu từ đình vào đền, lễ dâng hương và lễ vật gồm 100 bánh ngọt, 100 phẩm oản, hoa quả. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày liên tục từ mùng 7-9 tháng Giêng. Ngoài đền diễn ra các trò chơi dân tộc như đu tiên, cờ người, chọi gà, tổ tôm… Ngày thứ ba là lễ rước kiệu từ đền trở về đình để kết thúc lẽ hội chào mừng Tiên giáng.

Các ngày lễ khác trong năm: ngày 11-12 tháng Hai, ngày 12 tháng Ba, ngày 13 tháng Tám, ngày Tiên thăng 25 tháng Chạp (vi.wikipedia.org)

1.4.2. Đền Quốc Mẫu Âu CơNúi Vặn, Phú Thọ

Đền Quốc Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn (Tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn), thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn.

Đứng trên đỉnh núi Vặn có thể bao quát một vùng rộng lớn sơn thuỷ hữu tình. Phía trước núi Vặn là núi Hùng, nơi thờ tự các vua Hùng. Núi Hùng trông xa giống như đầu con rồng lớn, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn ở phía sau. Bên tả có dòng sông Hồng, bên hữu có dòng sông Lô tựa như hai dải lụa đào, bao bọc lấy ba ngọn “Tổ Sơn” ở giữa. Phía sau núi Vặn là những dãy đồi lớn san sát như bát úp, gắn với truyền thuyết “Trăm voi chầu về Đất Tổ”. Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội.

Đền Quốc Mẫu Âu Cơ là một quần thể kiến trúc bao gồm: Đền chính thờ Mẫu Âu Cơ, nhà tả vu, nhà hữa vu, nhà bia, trụ biểu, tam quan… được thiết kế theo phong cách xây dựng truyền thống, xen lẫn tính hiện đại. Các họa tiết trên trống đồng Đông Sơn: Cột gỗ có thớt đá kê, tường xây gạch mộc đỏ, mái đền có đầu đao cong vút như cánh chim Lạc, trụ biểu đá giống như cây bút đang viết lên trời xanh… cho nhân dân ta vừa cảm giác gần gũi với mẹ vừa thiêng liêng cao quý.

Trong Hậu cung đền đặt tượng Tổ Mẫu Âu Cơ được làm bằng đồng. Phía dưới đặt tượng Lạc hầu, Lạc tướng.

Truyền thuyết xưa kể rằng: 3 ngọn “Tổ Sơn” là nơi lưu giữ dấu tích của Tổ tiên. Mẹ Âu Cơ kết duyên cùng cha Lạc Long Quân tại Động Lăng Xương - Thanh Thuỷ, về đến núi Hùng, sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai. Khi các con khôn lớn, Cha Lạc Long Quân đưa 50 người con xuôi về vùng biển mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ đưa 49 người con lên vùng núi sinh cơ lập nghiệp, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải xây dựng cuộc sống. Trong dân gian hình ảnh mẹ Âu Cơ là người mẹ đầu tiên khai sinh ra cả dân tộc.

Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ là một công trình văn hoá lớn của thời đại chúng ta - con cháu các vua Hùng xây dựng nên, nhằm mục đích “quy tụ” và “hội tụ” văn hoá “Đền Hùng”. Bổ sung cho quần thể kiến trúc tín ngưỡng trong Di tích lịch sử Đền Hùng, thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu Âu Cơ người mẹ thiêng liêng huyền thoại của dân tộc Việt Nam. (http://thantienvietnam.com).

Công trình đền Quốc mẫu Âu Cơ do Viện Bảo tồn di tích (Bộ Văn hóa Thông tin) thiết kế theo kiến trúc cổ truyền thống, Công ty Tu bổ di tích và Công ty Mỹ thuật Trung ương cùng các nhà thầu phụ thi công, được chính thức khởi công từ giữa tháng 9/2001 với tổng mức đầu tư 25 tỷ VND từ nguồn vốn trung ương và ngân sách tỉnh Phú Thọ. Đến cuối năm 2004 đã cơ bản hoàn thành chuẩn bị cho việc khánh thành vào dịp giỗ Quốc tổ (10-3 âm lịch) năm 2005.

Con đường từ chân núi lên đến cửa đền có dốc khá thẳng với 553 bậc đá làm bằng chất liệu đá Hải Lựu (Lập Thạch - Vĩnh Phúc), đá Trị Quân (Phù Ninh -  Phú Thọ), dọc đường có bố trí chỗ dừng chân và nhà đón khách. Cổng tam quan cao 5,8m với ba lối vào, mái dán ngói mũi hài, các đầu đao, họa tiết đều được chạm khắc mô phỏng hình chim Lạc. Qua cổng Tam quan lên tới bậc đá thứ 500 là bắt đầu bước vào cổng tứ trụ gồm hai trụ chính cao 6,5m, hai trụ phụ cao 5,2m. Cột trụ làm bằng bê-tông cốt thép, xung quanh đắp gờ chỉ tạo hoa văn, đắp trát các con giống thời kỳ Hùng Vương.

Tiếp đến là hai trụ biểu cao chừng 14m vút thẳng giữa trời biểu thị sự giao hòa giữa thiên nhiên với trời đất, được ốp bằng đá phiến xanh từ vùng Thanh Hóa, Ninh Bình, dày 20 - 30cm có chạm khắc các họa tiết, con giống phỏng theo hình chim Lạc - đây là cặp trụ biểu được đánh giá độc đáo nhất trên cả nước. Sau trụ biểu là nhà bia được dựng theo kiến trúc đền chùa với mặt bằng hình vuông, mái chồng diêm, khung cột sườn mái làm bằng gỗ lim, nền lát gạch bát, xung quang ốp đá xanh Thanh Hóa, Hải Lựu và bố trí các con lân, ly bằng đá. Bia và trụ bia được làm bằng đá, một mặt khắc chữ Nôm, mặt còn lại khắc bằng chữ quốc ngữ, ghi lại thời kỳ xây dựng đền với sự đóng góp công đức của đồng bào khắp cả nước. 

Khu đền được đặt theo hướng Tây Nam, có bố cục kiểu chữ “đinh” gồm đền thờ chính ở giữa rộng 137m², hai bên có hai nhà Tả, Hữu vu. Toàn bộ được dựng theo kiến trúc truyền thống với cột, khung, sườn mái, vách ngăn bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, tường xây bằng gạch bát… Các thành lan can được chạm khắc họa tiết hình chim Lạc cùng các hoạt động văn hóa dân gian thời kỳ Đông Sơn. Hai bên Tả vu có hai bức phù điêu bằng chất liệu gò đồng khắc họa cảnh 50 người con theo cha xuống biển và 50 người con theo mẹ lên núi.

Bên trong đền chính phối thờ tượng Mẫu và hai tượng Lạc Hầu, Lạc Tướng được đúc bằng đồng với khối lượng khoảng 2 tấn. Riêng tượng Mẫu Âu Cơ được lấy theo nguyên mẫu pho tượng đang thờ tại đền Mẫu xã Hiền Lương (Hạ Hòa - Phú Thọ) với đôi chút điều chỉnh. Các nhang án, đại tự, câu đối, bệ đặt trống đồng, giá treo chuông, treo chiêng, y môn… đều được sơn son thếp vàng trên chất liệu gỗ qúy.

Do đặc thù nằm trên núi cao với độ chênh lớn, hệ thống sân vườn đã được xây dựng khá kỳ công với ba lớp kè, lớp trong cùng là tường chắn bằng bê-tông cốt thép, lớp giữa xây bằng đá hộc, lớp ngoài ốp bằng đá ong lấy từ vùng làng cổ Sơn Vi, Thanh Đình (Lâm Thao - Phú Thọ). Trong sân trồng nhiều giống cây đặc trưng thường thấy ở đình chùa như Đại cổ thụ, Si, Cau, Ngọc lan… mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Toàn bộ công trình đã sử dụng hơn 8.000m³ đá, 5.300 tấn cát, sỏi, 68 tấn xi-măng, 250m³ gỗ lim.

Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình thế kỷ với kiến trúc đẹp, hài hòa một cách tự nhiên giữa cảnh trí thiên nhiên hùng vỹ. Từ đây mỗi khi có dịp về đất Tổ, du khách thập phương không chỉ thể hiện tâm tình “uống nước nhớ nguồn” nơi lăng, miếu các vua Hùng, mà còn có cơ hội thể hiện lòng thành kính đối với mẹ Âu Cơ, một người mẹ đã từ trong huyền sử bước ra để dạy cho con dân nước Việt biết qúy trọng tình anh em, nghĩa đồng bào…(http://www.aseantraveller.net/)

Để tưởng nhớ công đức của Quốc Mẫu Âu Cơ - người mẹ huyền thoại đã sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, khởi nguồn của hai tiếng "Đồng bào" gắn bó như keo sơn chặt chẽ của dân tộc Việt Nam. Ngày mùng 7 tháng Giêng hàng năm, các con Lạc cháu Hồng hội tụ về Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ tưởng nhớ tri ân công đức Quốc Mẫu ngày "Tiên Giáng".

Lễ dâng hương và lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ là một trong những lễ hội lớn, mở đầu cho nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc trên địa bàn tỉnh Phú Thọ với nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao và các trò chơi dân gian mang đậm sắc thái văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi để đón đồng bào và du khách thập phương.

Trong ngày lễ, ngay từ sáng sớm, đông đảo đồng bào, du khách và nhân dân đã có mặt tại Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ trên đỉnh núi Ốc Sơn thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng (ước tính trên 1 vạn lượt người). Trong không khí ngút ngàn hồn thiêng sông núi, trước anh linh tổ tiên, tham dự Lễ dâng hương Tổ Mẫu, trong lòng mỗi người đều không khỏi xúc động và tự hào về nguồn cội dân tộc, tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông. 

Trong chương trình lễ dâng hương, các đại biểu, đồng bào và du khách đã tham dự nghi thức Tế Quốc Mẫu; dâng hương hoa, lễ vật, thắp hương tri ân công đức Quốc Mẫu Âu Cơ. Trước anh linh Quốc Mẫu nguyện một lòng đoàn kết, phát huy truyền thống dựng nước và đấu tranh giữ nước, xứng đáng mang trong mình dòng máu Tiên Rồng.

Nghi thức quan trọng nhất trong phần lễ là tế nữ quan theo nghi thức truyền thống được thực hiện bởi 12 cô gái thanh tân trong trang phục áo dài, đầu đội khăn kim tuyến, thắt lưng dải lụa, chân đi hài thêu. Chủ tế nữ mặc bộ lễ phục màu đỏ... Huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ sinh ra bọc trứng nở thành 100 người con nhằm tôn vinh nòi giống Tiên Rồng của dân tộc Việt Nam, mang đậm dấu ấn nhân văn sâu sắc, là đặc trưng văn hóa, thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam.

Truyền thuyết đó đã trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, thể hiện bản lĩnh kiên cường, đoàn kết, tính đồng bào được lưu giữ đến tận ngày nay. (phapluatplus.vn)

1.4.3. Đền Quốc mẫu Âu Cơ ở Cà Mau

Ở Cà Mau, đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ ngự tại số 336, đường Nguyễn Trãi, thành phố Cà Mau. Từ thế kỷ trước, những người dân nơi đây lập nên nơi thờ tổ của người Việt Nam chúng ta. Nơi đây có chân dung Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Đồ, Lạc Thư, cùng các bậc tiền hiền lập đền.

Qua tìm hiểu, được biết, nơi đây có hai ngày cúng lớn trong năm. Đó là ngày Quốc giỗ Hùng Vương, mùng 10 tháng 3 và Quốc Mẫu Âu Cơ, mùng 5 tháng 5 âm lịch. Thờ cúng tại Quốc Mẫu Âu Cơ rất đơn giản nhưng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với những ai muốn tìm hiểu về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Đến Quốc Mẫu, chúng ta bắt gặp những câu đối: Khai thánh địa Rồng cha truyền Bách Việt, Dựng sơn hà Tiên mẹ mở Văn Lang, tạm dịch là “ Cha Rồng truyền dòng giống Bách Việt, Mẹ Tiên lập nước Văn Lang”, theo đó, bức bình phong cùng với các dòng chữ: Nhìn non thương nhớ mẹ, trông biển nhớ ơn cha. Vào gian thờ chính, còn nhiều câu đối làm cho chúng ta suy ngẫm. Lý giải vấn đề này, người Thủ từ cho biết: Quốc giỗ Hùng Vương, mùng 10 tháng 3, tháng 3 là tháng Thìn, tính theo khởi điểm của tháng ( Giêng là tháng Dần, tháng hai là tháng Mẹo, tháng ba là tháng…). Còn giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ,  thì cúng vào ngày mùng 5 tháng 5. Mùng 5 tháng 5 còn gọi là Tết Đoan Ngọ hay còn gọi là Đoan Dương, theo phong tục cổ truyền, mùng 5 tháng 5 là những ngày Tết lớn nhất trong năm, sau Tết Nguyên đán. Tháng 5 cũng là tháng Thìn, tính theo Lục thập hoa giáp ( 12 con giáp; Tí, Sữu, Dần, Mẹo…) 

Nếu ngày Giỗ Hùng Vương có câu:

“ Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng ba ”

Thì ngày Giỗ Mẫu Âu Cơ :

“ Mùng 5 ăn Tết Đoan Dương

Nhớ ngày Giỗ Mẹ Việt Thường -Văn Lang ”.

1.5.  Đền thờ các vua Hùng

1.5.1. Đền thờ các vua Hùng ở Phú Thọ (Đền Hùng)

Hùng Vương (Hán tự: 雄王), hay vua Hùng, là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, các vua Hùng là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Đền Hùng là tên gọi khái quát quần thể đền, chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại.

Vị trí

Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm ThaoPhù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.

Quá trình phát triển

Đền Hùng được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là khu di tích đặc biệt của quốc gia vào năm 1962. Đến năm 1967, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khoanh vùng xây dựng khu rừng cấm Đền Hùng. Ngày 8 tháng 2 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt dự án quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử Đền Hùng lần thứ nhất, tạo tiền đề cho việc đầu tư xây dựng nhiều công trình hạng mục trong khu di tích.

Ngày 6 tháng 1 năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 82/2001/NĐ-CP, quy định về quy mô, nghi lễ tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng hàng năm. Ngày 10 tháng 3 trở thành ngày quốc lễ, ngày giỗ Tổ Hùng Vương.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã không ngừng lớn mạnh, được thể hiện sâu sắc và rõ nét hơn qua hàng loạt công trình kiến trúc văn hóa đầu tư xây dựng. Nổi bật nhất là từ sau Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2004 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển Khu di tích lịch sử Đền Hùng đến năm 2015.

Nhiều công trình tiếp tục được xây dựng tại khu di tích Đền Hùng như Đền thờ Lạc Long Quân, đường hành lễ tại trung tâm lễ hội, trụ sở làm việc và nhà tiếp đón khách của khu di tích, đài tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ...Trước sự phát triển và quy mô ngày càng lớn, đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý tương xứng. Ngày 23 tháng 2 năm 2005, UBND tỉnh Phú Thọ đã ban hành Quyết định số 525/2005/QĐ-UB về việc nâng cấp Ban quản lý Khu di tích Đền Hùng thuộc Sở Văn hóa thông tin Phú Thọ thành Khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc UBND tỉnh.

Ngày 6 tháng 12 năm 2012, UNESCO công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại với những yếu tố thuộc đời sống tâm linh của người Việt Nam đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, thể hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng. Tính độc đáo của tín ngưỡng này thể hiện rất rõ ở yếu tố thờ Hùng Vương chính là thờ Quốc tổ. Đây là hiện tượng văn hóa không phải dân tộc nào cũng có.

Các di tích chính

1.Cổng đền. Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917), với kiến trúc hình vòm cuốn, gồm hai tầng tám mái, trang trí rồng, phía trên có đắp nổi hình "lưỡng long chầu nguyệt". Giữa tầng một của cổng có bốn chữ Hán viết theo lối chữ chân, đại tự "Cao sơn cảnh hành" (Lên núi cao nhìn xa rộng). Hai bên cổng có hai cột trụ, ghi câu đối: “Mở lối đắp nền bốn mặt non sông qui một mối.

Lên cao nhìn rộng núi đồi trùng điệp tựa cháu con”.(http://daknong.gov.vn/)

Theo ông Nguyễn Ngọc Tăng, chuyên gia Hán Nôm, Hội trưởng Hội Văn nghệ dân gian Đền Hùng - huyện Lâm Thao, Phú Thọ cho rằng, bức đại tự chính giữa cổng là: “Cao sơn cảnh hạnh” tức là “Đức lớn tựa núi cao”. Hai bên cổng đền là đôi câu đối:

“Thác thủy khải cơ, tứ cố sơn hà qui bản tịch.

Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn”

Dịch là: “Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông qui một mối;

Lên cao nhìn khắp, chập chùng đồi núi tựa cháu con”

Đôi câu đối vừa chỉnh, vừa mang ý nghĩa sâu sắc đề ở cổng nơi thờ Tổ chung cả nước thật thích hợp mà lại chiếu được vào 4 chữ đại tự nói trên. Cũng theo ông Tăng, còn có nhiều cách hiểu khác về chữ cuối bức đại tự như: cảnh hạnh, cảnh hàng hay cảnh hành, tuy nhiên, hiểu theo nghĩa nào cũng đều tốt đẹp, nhưng theo ý của ông thì cảnh hạnh nghe hay hơn.( http://baotintuc.vn/)

2.Đền Hạ: Đền được xây dựng vào thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc đền Hạ kiểu chữ nhị kèo cầu suốt, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi gồm hai tòa tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian. Ba ban thờ chính trong hậu cung đều có bài vị thờ: Cao Sơn cổ Việt Hùng thị thập bát thế truyền thánh vương thánh vị, Ất Sơn thánh vương thánh vị và Viễn Sơn thánh vương thánh vị. Cỗ Long ngai thứ tư thờ hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa là con gái Vua Hùng thứ 18. Trong khu vực Đền Hạ còn có chùa Thiên Quang được xây dựng vào thời nhà Trần

Tương truyền rằng nơi đây, mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ mang theo 49 người con ngược lên vùng núi sinh cơ lập nghiệp xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Vương.

Ở Đền Hạ có bước hoành phi câu đối gắn với truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bức đại tự viết: Kiền Khai Khôn Hợp, có thể hiểu là: cha mẹ sinh ra bọc trăm trứng, sinh ra giống nòi Việt Nam. Đặc biệt, đôi câu đối của vị quan triều đại nhà Nguyễn dâng lên cung kính đền Hùng bằng chữ Nôm rất có ý nghĩa là:

Con cháu còn, Tổ tông hãy còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi

Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vẫn dài lâu

3.Nhà bia: Nhà bia nằm ngay cạnh đền Hạ có kiến trúc hình lục giác với 6 mái. Trong nay đặt tấm bia đá khắc dòng chữ quốc ngữ: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Đây là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến thăm Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1954.

4.Chùa Thiên Quang: tọa lạc gần đền Hạ ở độ cao 80m. Xưa chùa có tên là Sơn Cảnh Thừa Long Tự. Thời Lê Trung Hưng làm lại chùa gọi là Thiên Quang Thiền Tự. Chùa làm theo kiểu "nội công ngoại quốc" gồm các nhà: Tiền đường, Thiêu hương, Tam bảo, ở phía trước là dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau.

Trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ 4 tầng; một gác chuông được xây dựng vào thế kỷ XVII gồm ba gian, hai tầng mái. Trên gác chuông có treo quả chuông đúc vào thời Hậu Lê.

Chùa thờ Phật theo phái Đại Thừa. Trong chùa có trên 30 pho tượng: Tam thế, A Di Đà, Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Tống Tử, Đức Thánh Hiền, Hộ pháp… được bài trí trang nghiêm.

5.Đền Trung: Đền Trung ở lưng chừng núi có tên chữ là "Hùng Vương Tổ Miếu". Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầuLạc tướng du ngoạn Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước.

Theo sách “Đền Hùng - Di tích và cảnh quan” do ông Phạm Bá Khiêm biên soạn và giới thiệu thì Đền Trung xuất hiện sớm nhất trên núi Hùng. Nơi đây còn nhiều bức hoành phi, câu đối rất có giá trị. Điển hình như ba bức đại tự: Hùng Vương linh tích, Quốc Tổ vĩnh truyền và Hùng Vương Tổ Miếu.

6.Đền Thượng: Đền được đặt trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, với tên chữ là "Kính Thiên lĩnh điện", nơi ngày xưa theo truyền thuyết các Vua Hùng thường lên tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự: "Nam Việt triệu tổ" (tổ tiên của Việt Nam).( vi.wikipedia.org)

Trên đỉnh núi Hùng xưa có mảnh vỏ chấu khổng lồ, có chiếc thuyền nan ba cắng gắn với truyền thuyết về hạt lúa thần, phản ánh mơ ước về cuộc sống ấm no.( http://denhung.org.vn/)

Về bức đại tự và câu đối ở mặt chính cửa đền, ông Nguyễn Ngọc Tăng cho biết. Bức đại tự ghi: Nam Việt Triệu Tổ tức là Tổ đầu tiên, tổ muôn đời của nước Việt Nam. Và đôi câu đối cổ do tổ tiên để lại, rất là hàm súc:

Thông thông uất uất, trung hữu lăng yên tẩm yên, long phục tiên mẫu chi linh tính, hữu ngã hậu nhân võng khuyết.

Cổ cổ kim kim, thử sơn dã thủy, dã thánh tổ thần tông chi sáng tạo, y hi tiền vương bất vong.

Dịch là: Trong cây cỏ tốt xanh vẫn có miếu có lăng, hồn thiêng cha mẹ Rồng Tiên phù hộ đời sau không thiếu sót.

Suốt thời gian dài dặc thấy kìa sông kìa núi, công đức tổ tiên thần thánh, nhớ ơn Vua nước chẳng hề quên.(http://baotintuc.vn/)

Đền thượng đến thế kỷ XV được xây dựng quy mô, vào thời Nguyễn triều đình cấp tiền, cử quan về giám sát việc đại trùng tu.

Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp: Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung.

Ngày 18/9/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đền Hùng, người đã nghỉ trưa ở cửa ngách Đông Nam đền Thượng trước khi về Bác căn dặn phải trồng cây cối. Xây dựng Đền Hùng thành công viên lịch sử cho con cháu sau này thăm viếng.( http://denhung.org.vn/)

7.Cột đá thề: Bên phía tay trái đền Thượng có một cột đá gọi là cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương.

8.Lăng Hùng Vương (Hùng Vương lăng) tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông đền Thượng, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa đây là một mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 (năm 1870) đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 (năm 1922) trùng tu lại. (vi.wikipedia.org)

Theo truyền thuyết, đây là nơi vua Hùng thứ 6 đã hóa bên gốc cây Kim Giao. Bức đại tự ghi: Hùng Vương Lăng. Bên cạnh là đôi câu đối Nôm hàm súc:

Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quay về Đất Tổ

Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ Mồ ông. (http://baotintuc.vn/)

9.Đền Giếng:

Ðền Giếng, tên chữ là "Ngọc Tỉnh" ở phía đông nam chân núi, nơi thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) có công dạy dân trồng lúa, trị thủy. Trong hậu cung của đền hiện vẫn còn một giếng nước hình tròn, được gọi là Giếng Ngọc, nước trong mát quanh năm mà theo dân gian là nơi hai công chúa thường soi gương, chải tóc. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18.

Chính tại Ðền Giếng, ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn quân Tiên Phong và giao nhiệm vụ cho đơn vị tiếp quản Thủ đô sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ và căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. (http://daknong.gov.vn/)

Hành trình của du khách

Khu di tích lịch sử đền Hùng bao gồm bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, du khách sẽ qua cánh cổng, bước nhiều bậc đá lên thắp hương và thăm thú các đền, kết thúc tại đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, nơi có lăng mộ vua Hùng thứ 6.

Lễ hội đền Hùng

Giỗ Tổ Hùng Vương

Văn học dân gian Việt Nam nói về lễ hội đền Hùng như sau:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba

Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Lễ hội đền Hùng hiện được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nâng lên thành giỗ quốc Tổ tổ chức lớn vào những năm chẵn.

Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội:

Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng.

Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.

Phần hội có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.

Từ năm 2001, giỗ tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ. Từ ngày 10/3/ 2007 âm lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. Lê hội đền Hùng những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức. Các năm chẵn sẽ có quy mô ở các cấp trung ương. Lễ hội đền Hùng không chỉ diễn ra ở khu di tích lịch sử đền Hùng Phú Thọ mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như thành phố Hồ Chí MinhCần ThơĐà Nẵng.v.v.

Theo nghị định 82/2001/NĐ-CP về việc quy ước lễ hội đền Hùng thì:

  • "Năm chẵn" là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là "0",Năm tròn" là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là "5 "; Trung ương, Bộ Văn hoá - thể thao và du lịch cùng Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự lễ dâng hương.
  • "Năm lẻ" là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội. (vi.wikipedia.org).

Đền thờ vua Hùng ở mọi miền Tổ quốc

Để tưởng nhớ công lao dựng nước của các vua Hùng, nhiều nơi trên đất nước Việt Nam đã lập đền thờ Hùng Vương. Theo thống kê, trên cả nước hiện có 1.417 di tích có thờ cúng Hùng Vương và các nhân vật thời Vua Hùng (http://dsvh.gov.vn/):

1.5.2. Đền thờ vua Hùng tại TP HCM

Tại TP HCM hiện có 11 nơi thờ các vua Hùng. Trong số đó ba đền thờ được biết đến nhiều nhất là đền thờ vua Hùng tại Thảo Cầm Viên và đền thờ tại Công viên Văn hóa Tao Đàn và đền thờ Hùng Vương tại Suối Tiên.

Trong công viên Tao Đàn, Đền tưởng niệm các Vua Hùng chỉ chiếm một diện tích nhỏ nhưng lại là tâm điểm cho mỗi người dân khi đặt chân đến đây. Đền được xây dựng từ năm 1992 và được trùng tu vào cuối năm 2011 vừa qua. Trong đền, tượng vua Hùng được đặt ngay chính diện, phía tay phải của vua là tượng mẹ Âu Cơ và phía tay trái là tượng Bác Hồ. Trước sân ngoài chiếc lư đồng to lúc nào cũng nghi ngút khói hương còn có Trụ đá thề và tấm bia đá được khắc câu nói bất hủ của Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Lâu đời hơn đền tưởng niệm các vua Hùng tại công viên Tao Đàn, khu di tích đền thờ vua Hùng tại Thảo Cầm Viên được xây dựng cách đây gần một thế kỷ (từ năm 1927). Di tích này khác hẳn không khí ồn ào, náo nhiệt của Sài Gòn , đền thờ vừa cổ kính, lại thanh tĩnh, trang nghiêm, khiến những du khách đến đây như được tìm về với cội nguồn xa xưa của mình.

Khác với hai khu di tích trên, đền thờ Vua Hùng tại Suối Tiên được chạm khắc công phu với những hoa văn, họa tiết điêu khắc cổ Việt Nam có từ triều đại của các Vua Hùng ngày xưa. Đền thờ Vua Hùng được xây dựng trên khuôn viên với tổng diện tích là 1.678 m2, cao 18m. 

Tượng Vua Hùng cao 9,4m, chiều ngang 3,2m; chiều rộng 2,25m; dát vàng, mặt tượng quay về phương Bắc – hướng về quê cha đất Tổ. Chung quanh đền thờ các phù điêu dựa theo các sự tích cổ được chạm khắc công phu ca ngợi nền văn hóa dân tộc. Ngôi đền là nơi mọi người Việt Nam tự hào ôn lại lịch sử và tỏ lòng thành kính với vị Quốc Tổ của dân tộc.

1.5.3. Đền thờ các vua Hùng ở Gia Lai

Cách trung tâm TP Pleiku đến 10km nhưng Công viên Đồng Xanh luôn là sự lựa chọn hàng đầu của du khách bởi sự đa dạng và phong phú với các điểm vui chơi, tham quan hấp dẫn. Đặc biệt, trong công viên còn có đền thờ các vua Hùng. 

Đền thờ được xây dựng theo kiến trúc cổ tuy nhiên vẫn mang đậm chất Tây Nguyên. Ngoài ra, trong đền còn có 2 chiếc trống đồng phỏng tác theo nguyên bản của trống đồng Đông Sơn.

1.5.4. Đền thờ vua Hùng tại Đà Lạt 

Đền thờ các Vua Hùng ở Đà Lạt được xây dựng trên đỉnh núi Phượng Hoàng trong khu du lịch thác Prenn với diện tích 160ha. Đền Hùng được xây dựng theo nguyên mẫu của Đền Hùng Phú Thọ, bao gồm Đền Thượng, Đền Trung và Đền Hạ.

Từ chân núi lên Đền Thượng cao khoảng 80m, du khách muốn đến được Đền Thượng phải đi qua cánh rừng thông cổ thụ dài khoảng 500m. Trước Đền Thượng là khu công viên mang tên Lạc Long Quân - Âu Cơ nằm trên triền dốc thoai thoải, du khách theo những con đường lát đá dạo qua những bồn hoa, cây cảnh, đủ màu sắc.

1.5.5. Đền thờ vua Hùng tại Khánh Hòa 

Người dân Khánh Hòa thường tìm đến đền thờ Hùng Vương tại phường Tân Lập, thành phố Nha Trang để dâng hương tỏ lòng tôn kính và tưởng nhớ công lao to lớn của các vua Hùng.

Đền thờ vua Hùng tại Khánh Hòa được xây dựng khá đơn giản. Tuy nhiên vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm, tại đền thờ này tỉnh Khánh Hòa đều tổ chức nhiều hoạt động văn hóa hướng về cội nguồn. (http://dothi.net/)

1.5.6. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian được lưu truyền lâu đời ở Việt Nam mà trọng tâm là tỉnh Phú Thọ. Loại tín ngưỡng này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Tối ngày 6/12/2012, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra ở Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tính đến thời điểm này, "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương" là di sản duy nhất ở loại hình tín ngưỡng của Việt Nam được UNESCO vinh danh.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phải một tôn giáo mà chính là biểu trưng của lòng thành kính, sự biết ơn- tri ân công đức các Vua Hùng là những người có công dựng nước Văn Lang. Hiện tại theo kiểm kê của Sở VH,TT&DL Phú Thọ, trên địa bàn tỉnh có 326 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương trải rộng khắp các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được phủ rộng với mật độ dày đặc ở tất cả các làng xã, song Đền Hùng là trung tâm thực hành Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lớn nhất và lâu đời nhất trong tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một nét đẹp truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam, góp phần hun đúc lòng tự hào và tạo nên tinh thần đoàn kết cho mỗi người dân Việt Nam. 

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương bắt nguồn từ thời đại các Vua Hùng với niềm tin cả dân tộc Việt Nam có cùng chung giống nòi “con Rồng cháu Tiên”, cùng chung một nguồn cội (ông Tổ); đồng thời thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng.

Các sử liệu cho thấy Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã phát triển mạnh từ rất lâu trước khi chính thức được vinh danh vào thời Hậu Lê (1428 - 1788). Những triều đại phong kiến đều rất chú trọng và khuyến khích người dân duy trì Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Nhà Hậu Lê, Tây Sơn và Nguyễn liên tục sắc phong cho các đền thờ Vua Hùng tại Phú Thọ, pháp điển hóa nghi thức thờ cúng, miễn thuế và cấp ruộng đất tại khu vực xung quanh đền để người dân canh tác, thu hoa lợi và coi sóc đền thờ. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước đều rất quan tâm tới việc thờ cúng các Vua Hùng, cấp kinh phí để tôn tạo không gian thờ cúng, đưa truyền thuyết Hùng Vương vào chương trình giảng dạy để giáo dục thế hệ trẻ, cho phép nhân dân cả nước nghỉ lễ ngày giỗ Tổ (mùng 10 tháng 3 âm lịch) để tham gia, tổ chức các hoạt động tế lễ hướng về cội nguồn dân tộc.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có nhiều hình thức đa dạng, điển hình là việc Vua Hùng được phối thờ (thờ chung) với nhiều nhân vật như các công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa; các Hùng hầu, Hùng tướng; Tản Viên Sơn Thánh; Hai Bà Trưng… tại các cụm di tích ở Phú Thọ. Hình thức phối thờ với Long Hải Đại Vương, Phù Đổng Thiên Vương, Mai An Tiêm, Chử Đồng Tử, các con Lạc Long Quân... cũng phát triển khá mạnh tại Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương, Thanh Hóa... Tại nhiều nơi, các Vua Hùng còn được người dân phối thờ tại bàn thờ dòng họ. Người Việt Nam sống ở nước ngoài khi có dịp cũng “thỉnh” chân hương tại đất Tổ (Phú Thọ) để mang về cắm trên bàn thờ của gia đình.

Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, lễ giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức ở các đình, đền thờ Vua Hùng trên khắp cả nước, trong đó nghi lễ lớn nhất diễn ra tại khu di tích lịch sử đền Hùng. Tại Phú Thọ, các làng có đình, đền thờ Vua Hùng mỗi năm đều cử ra một Ban Khánh tiết gồm 6 – 9 người đàn ông để chủ trì và điều hành nghi lễ thờ cúng. Ban Khánh tiết lại chọn ra một Thủ từ có nhiệm vụ trông coi, hướng dẫn thực hành ở nơi thờ tự, quanh năm hương khói cho Vua Hùng. 

Bên cạnh đó, việc lựa chọn Chủ tế và đội tế luôn được các làng tuân thủ khắt khe. Khi làm Chủ tế, bản thân người được chọn phải luyện tập các động tác lễ bái cho thuần thục để điều hành hoạt động của đội tế.

Lễ vật chuẩn bị cho các buổi lễ (từ lễ mở cửa đến lễ rước, lễ đóng cửa đình/đền) đều được lựa chọn và chuẩn bị cẩn thận, chủ yếu gồm xôi/oản, hoa quả, rượu, vàng hương, gạo, muối, gà luộc (gà trống thiến), thịt lợn sống (lợn đen), bánh chưng và bánh dày…

Các hoạt động của lễ hội được tiến hành theo lộ trình rước kiệu từ miếu về đình/đền, sau đó đi quanh làng rồi trở về nơi xuất phát. Thứ tự các đội rước cũng được quy định rõ ràng, đầu tiên là đội múa rồng/lân, tiếp theo là đội cờ thần, đội kiệu lễ, phường bát âm, hai hàng bát bửu và bát khí, đội kiệu long đình (rước lô nhang), đội kiệu ngai và bài vị, đội tế, và cuối cùng là dân chúng. Nghi thức cúng tế gồm có lễ dâng hương, dâng lễ vật, đọc chúc văn, cầu cúng, trình diễn các diễn xướng truyền thống như đánh trống đồng, hát Xoan, rước nước, lễ cầu đảo...

Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt bắt dê, kéo co, cướp cờ, thi bơi, bắt vịt trên ao/sông, quây lợn, trò trám, đánh phết, bắt chạch trong chum, trò tùng rí…

Phạm vi công nhận của di sản gồm 109 làng có đình, đền thờ Vua Hùng thuộc thị xã Phú Thọ, thành phố Việt Trì và các huyện Cẩm Khê, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Ba, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Yên Lập (tỉnh Phú Thọ). (http://vietnamtourism.com/)

Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa (http://dsvh.gov.vn/): Với niềm tin thành kính, từ hàng nghìn năm qua, hết thế hệ này qua thế hệ khác, người Việt ở vùng đất Tổ Phú Thọ, nơi có Đền Hùng linh thiêng và nhân dân trên khắp mọi miền của đất nước, cùng đông đảo người Việt Nam ở nước ngoài, đã sáng tạo, thực hành, vun đắp và lưu truyền Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương để thể hiện sự biết ơn với vị thủy tổ, mong Ngài phù hộ cho quốc thái dân an, vật thịnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được các vương triều Lê, Tây Sơn (1788-1802), Nguyễn quan tâm cho ghi chép vào sử sách, cấp sắc phong và cấp đất phục vụ cho việc thờ cúng Hùng Vương. Những năm 70 của thế kỷ XX, ngành văn hóa tỉnh Phú Thọ đã tổ chức sưu tầm các truyền thuyết, thần tích về Hùng Vương.

Vào dịp Giỗ Tổ, nhân dân trong các làng xã có thờ cúng Hùng Vương ở khu vực Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, trong trang phục lễ hội, rực rỡ mầu cờ, sắc áo,  tổ chức thi kiệu, thi làm lễ vật. Họ chọn ra chiếc kiệu đẹp nhất và lễ vật ngon nhất, cùng chiêng, trống đồng, nghi trượng... rước lên đền Hùng dâng cúng, cầu cho quốc thái dân an, vạn vật sinh sôi.