Video
Công đức
Sách: DI SẢN VĂN HÓA DÒNG HỌ (NXB Hồng Đức XB 2016)

CHƯƠNG IV: LĂNG MỘ ĐỀN THỜ CÁC DANH NHÂN HỌ NGUYỄN THỜI PHONG KIẾN

4.1. Đền thờ Nguyễn Danh Lang

 Nguyễn Danh Lang  (阮名俍) tên hiệu Lang Công (俍公) là danh tướng nhà Triệu nước Nam Việt, em kết nghĩa của Tể tướng Lữ Gia. Lang Công chỉ được đề cập trong thần phả, không được sử sách nhắc tới.

Sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 và bản sách ký hiệu: TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân - 1572, triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc nguyên) viết: Thời Triệu Vũ Vương (207-137 TCN) nước Nam Việt, trang Nam Trì có một người tên Nguyễn Tuyên (sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 chép là Nguyễn Nghị), lấy vợ người trang Đoài, xã Thổ Hoàng bên cạnh, tên là Trần Thị Huyền. Tuy chỉ làm ruộng nhưng gia đình khá giả, vợ chồng là người có lòng trung hậu, lương thiện.

Năm Nguyễn công 51 tuổi, bà 42 tuổi vẫn chưa có con trai. Hai vợ chồng cầu đảo Trời Đất, thần linh phù hộ. Một hôm, bà Trần Thị ra sông Kim Ngưu tắm rồi ngủ và mộng thấy từ trên trời một con hổ vàng giáng xuống nằm cạnh bên trái mình. Bà trở về nhà và có mang. Ngày 9/3 năm Nhâm Thân bà sinh hạ được một con trai. Vì chiêm bao thấy hổ nên sau bách nhật đặt tên Danh Lang.

Lớn lên, Danh Lang có tướng mạo kỳ lạ, cao lớn khác thường. Ông kết nghĩa với Bảo Lang tức Lữ Gia. Hai người được nhân dân Nam Trì một lòng kính nể, phục tùng gọi hai ông là Bảo Công, Lang Công. Bảo Công và Lang Công cùng nhau mộ được 1000 binh sĩ đánh Đào Hoan để trả thù cho cậu của Bảo Lang. Trả thù xong, hai ông trở lại Nam Trì. Oai danh chấn động gần xa nên nhân dân kính nể, thần phục.

Hai năm sau, khi Triệu Vũ đế (Vũ vương Triệu Đà, 197-137 TCN) chết, Triệu Văn đế (Văn vương Triệu Hồ tức Triệu Mạt hay Triệu Muội, con Trọng Thuỷ) nối ngôi (136-125 TCN) lệnh cho các châu, huyện đề cử người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài, học vấn uyên bác ra giúp nước. Bảo Công, Lang Công đều trúng lại được yết kiến nhà vua ứng đối trôi chảy nên ra sắc chỉ phong Bảo Công chức Thị tụng Tham quan (Quân sư) đảm nhiệm việc luyện quân và công văn cho Triều đình; Lang Công chức Điển binh (Cấm quân bảo vệ triều đình).

Năm Văn vương thứ 6, Bảo Công được phong Tể tướng, Lang Công được phong Đốc lĩnh (chữ Đốc âm cổ là Đại tướng) châu Ái kiêm châu Hoan. Trong thời gian này, Văn vương cùng Bảo Công, Lang Công sắp đặt lại kỷ cương trật tự triều chính, quân thần hiệp đức nên thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui, no ấm. Văn vương chết, Triệu Minh Vương nối ngôi. Minh vương trọng đãi, hai họ của hai anh em quí hiển có hơn bốn mươi người làm quan truyền đời.

Bản sách TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân – 1572 và Sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 đều viết: ...Khi gặp Lữ Gia về lại Nam Trì chiêu mộ quân sĩ ở quán đầu làng, gặp lại Nguyễn Danh Lương thì kết vi bằng hữu, tương ái tương thân, như tâm như phúc, bốn biển gặp nhau như anh em sinh đôi. Hai anh em gặp nhau như tâm Trời đã định, như anh hùng tương ngộ, bẩm sinh tương tề như cùng một gốc, thề nguyện sinh tử cùng nhau. Nguyễn Danh Lang là người học vấn uyên bác, văn võ toàn tài, lúc đầu được phong chức Điển quân tức trông coi việc binh của triều đình. Sau do công sắp đặt lại kỷ cương trật tự triều chính nên năm Văn vương thứ 6, được phong Đốc lĩnh trấn thủ Châu Ái kiêm cả Châu Hoan. Cầm quân thủy đến châu Đại Điền hội quân, đánh cho quân Tây Hán thua hơn mười trận....

Đại Việt Sử ký toàn thư có nhắc đến người em Lữ Gia: khi Lữ Gia định nổi dậy chống Triệu Ai vương và Cù hậu bèn lấy quân lính của em dẫn về nhà, (Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư: Quyển II - Kỷ Nhà Triệu: Ai vương) nhưng không ghi tên người em đó là gì và chưa có cơ sở khẳng định người đó là tướng Nguyễn Danh Lang.

Nguyễn Danh Lang về đến Thiên Thi nhận chức Huyện lệnh thì mất.

Mộ Nguyễn Danh Lang và mộ Lữ Gia bên bờ sông Nam Trì, nay lăng mộ hai ông ở gò Ba Xã, đền thờ ở gò Vườn Soi, Nam Trì. Thời Bắc thuộc các triều đại Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống của Trung Hoa đều phong Thần Nguyễn Danh Lang là Trung Lang Tế thế Đại vương. Các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần của Việt Nam cũng sắc phong như vậy. Triều hậu Lê sắc phong là Dũng lược quả đoán và chuẩn cho trang Nam Trì lập đền thờ chính. Sau lại sắc phong thêm là Dực bảo trung hưng.

Sau này, đền này còn thờ cả Thánh địa lý Cao Biền, Thánh địa lý Tả Ao cùng Công chúa Hùng vương Lâu nương (phu nhân của Tể tướng Lữ Gia) cùng hai vị phu nhân của Cao Biền là Lữ Lương, Lự Lương. Sau Lữ Gia, Nguyễn Danh Lang và Cao Biền được phongThượng đẳng Phúc thần Dực bảo trung hưng Bản cảnh Thành hoàng Đại vương. Lễ hội tế, rước Thần gọi là Bảo, Lang, Biền.

4.2. Đền Gia Loan, thôn Vĩnh Mỗ, thị trấn Yên Lạc thờ Nguyễn Khoan

Đền thờ Nguyễn Khoan, một tướng của Ngô Vương Quyền (thế kỷ X). Ông còn có tên là Nguyễn Thái Bình, là Quảng Trí Quân (Những tên ông tự xưng thời thập nhị sứ quân). Hiện nay, tại đền Gia Loan còn giữ được cuốn ngọc phả viết năm Lê Vĩnh Hựu thứ VI (1752), được biết lược sử của ông như sau.

Nguyễn Khoan là tướng của Ngô Vương Quyền, có công đánh giặc Nam Hán. Do được phân phong ở vùng Tam Đái nên đã phát triển kinh tế và lực lượng quân sự riêng, với thủ phủ trên gò Biện Sơn (còn có tên là Độc Nhĩ Sơn) và đóng đồn ở gò Đồng Đậu. Ông có hai tướng tài và hai người vợ đều tài giỏi. Ông sống gần gũi, chan hoà với dân, nghĩa tình thắm thiết. Ông luôn khuyến khích và chăm sóc nghề nông, lại chú ý tới việc canh tân tập tục nông thôn. Nhờ vậy mà nhân dân vùng Tam Đái được Thái Bình thịnh trị, ấm no vui vẻ: Bức đại tự “Vĩnh Khang Tiện Dân (mãi mãi yên lành khoẻ mạnh cho mọi người dân) treo ở đền Gia Loan chính là để ca tụng công đức to lớn của ông đối với nhân dân vùng Tam Đái.

Năm 944, Ngô Quyền qua đời. Dương Tam Kha, em vợ Ngô Quyền cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập (con cả Ngô Quyền) và xưng vương, con thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn, phế truất Dương Tam Kha, lập lên triều hậu Ngô Vương (945 - 965). Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập cùng giữ quốc chính, tự xưng là Nam Tấn Vương. Ngô Xương Văn mất. Con là Ngô Xương Xí kế vị, nhưng bất lực trước thời cuộc nên tự lui về giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hoá), tự coi mình là một sứ quân.

Trong khung cảnh đất nước rối ren như thế, trong nước không có vua trị vì, 12 sứ quân mỗi người cát cứ một vùng, Nguyễn Khoan được nhân dân mến mộ ủng hộ, nghiễm nhiên trở thành một sứ quân mạnh, như câu đối lưu truyền:

Tam Đái tiểu triều đình, cát cứ nam thiên thân vũ trụ.

Ngũ trang lưu thắng tích, đạt bào tây địa trân sơn hà.

(Tạm dịch:

Triều đình nhỏ ở Tam Đái, phân chia cương vực chiếm giữ trời Nam.

Năm trang còn giữ được di tích đẹp cùng trong đất miền Tây vững bền sông núi)

Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai vợ của ông cũng tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu.

Nguyễn Khoan đã có công phò Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán, có công xây dựng cơ nghiệp cho cả vùng Tam Đái, nên các triều đại sau này đều sắc phong ông là “Thượng đẳng phúc thần”. Năm trang đều lập đền thờ và tôn làm thành hoàng. Hiện còn đền Gia Loan ở thị trấn Yên Lạc và đình Lác ở xã Tề Lỗ.

Hiện nay, đền thờ Nguyễn Khắc Khoan là địa chỉ nằm trong tam giác gắn kết với Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu và chùa Biện Sơn thành một quần thể di tích đặc trưng vùng sông Loan - núi Biện hấp dẫn các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, mỹ thuật và khách tham quan du lịch về vùng đất Yên Lạc nói riêng và Vĩnh Phúc nói chung. (vinhphuc.gov.vn)

Lễ hội Đền Gia Loan – chùa Biện Sơn mới được tổ chức lại, thu hút đông đảo Phật tử và du khách từ khắp mọi miền của tổ quốc về dự. Lễ hội diễn ra trong 4 ngày từ 21/2 đến 24/2 (tức 12/1 đến 15/1 Âm lịch) với nhiều hoạt động tín ngưỡng, nhiều hoạt động văn hóa thể thao và trò chơi dân gian. Đặc biệt là triển lãm Xá lợi Phật và tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông bằng ngọc xanh nguyên khối. Đây là hoạt động có ý nghĩa lớn, góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần, tâm linh tốt đẹp trong cộng đồng dân cư. (vinhphuc.vnpt.vn/)

4.3. Đền thờ Nguyễn Thủ Tiệp 

Nguyễn Thủ Tiệp908-967) hay Nguyễn Lệnh công  là một sứ tướng trong thời 12 sứ quân cuối triều nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông là sứ quân giàu tham vọng với việc tự xưng Vương ở châu Vũ Ninh, vùng đất thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay.

Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Nguyễn Thủ Tiệp còn một tên hiệu nữa là Ba An quân, mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm (Lôi Công). Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, đóng giữ huyện Tiên Du, sau đánh đuổi thứ sử Dương Huy, lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là Vũ Ninh vương, giống tên hiệu một vị vua trong thời kì Tam Quốc Triều Tiên.

Do có công cai quản và lập ấp ở địa phương, Nguyễn Thủ Tiệp được lập đền thờ ở xã Khắc Niệm, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và đình Phúc Nghiêm, Phật Tích, Tiên Du (Bắc Ninh).

Giữa những năm thập kỷ 60 thế kỷ XX nhà đền chuyển làm kho hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1982 ngôi đền được xây dựng lại, nằm cùng dãy và giáp hồi Cổ Niệm tự, kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm hậu cung 2 gian, tiền đường 5 gian, kết cấu vì đơn giản. Nhà đền lưu giữ một số hiện vật có giá trị như: Một lư hương sành thời Lê, hai chóe đựng nước cúng, một bộ bát bửu, tượng Nguyễn Thủ Tiệp tạc năm 1937, một thần tích bản sao, khắc gỗ năm 1932 và một số đồ thờ khác. Lễ hội lớn nhất trong năm là lễ hội kỷ niệm ngày sinh Thành hoàng Nguyễn Thủ Tiệp từ mồng 4 đến 11 tháng Giêng âm lịch.

4.4. Đền thờ Nguyễn Siêu

Nguyễn Siêu hay Nguyễn Hữu Công là một sứ quân nổi dậy trong thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 10

Tại khu vực Tây Phù Liệt ngày nay có rất nhiều di tích cổ thờ sứ quân Nguyễn Siê. Vùng đất Thanh Trì ngày nay còn 3 xã có đền và miếu thờ Nguyễn Siêu, tập trung vào 4 làng liền kề nhau: làng Việt Yên và Đông Thạch (xã Ngũ Hiệp), làng Đông Phù (xã Đông Mỹ) và làng Văn Uyên (xã Duyên Hà), riêng làng Đông Phù thờ ông làm thành hoàng vì đây là trung tâm của căn cứ Tây Phù Liệt. Người dân Đông Phù coi ông là người sáng lập làng

Đền Hậu thuộc thôn Đông Kết, xã Đông Kết, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cũng phối thờ Nguyễn Siêu cùng 1 vị tướng thời Hùng Vương. Tương truyền sau khi bị Đinh Bộ Lĩnh đánh cho thua trận, Nguyễn Siêu mất, thi hài ông trôi về địa phận xã Đông Kết, thi thể 3 tháng không nát, nước da vẫn tươi tắn như lúc còn sống, nhân dân địa phương phong cho là nhân thần nên đã lập đền thờ

4.5. Đền thờ Thiền sư Vạn Hạnh (Hán tự: 萬行) (938 – 1025) là tên một vị thiền sư người Việt có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông cũng là một nhà tiên tri. Quê ông ở châu Cổ Pháp (古法, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, ông đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu.

Ông thị tịch ngày Rằm tháng Năm năm Thuận Thiên thứ 9 (tức 30 tháng 6 năm1018), khi công hạnh đã viên mãn. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh Xá lợi của ngài về thờ tại chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). bài kệ như sau: "Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xanh tươi thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

 Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông"

Ông được tôn thờ ở nhiều chùa. Nhiều chùa và thiền viện chúc lâm đã mang tên ông

4.6. Đền  thờ  Đức Thánh Nguyễn Minh Không

Đức Thánh Nguyễn Minh Không sinh ngày 15 tháng 10 (1065-1141). Sau khi mất ông được tôn hiệu là Lý Quốc Sư, tên gọi này để chỉ ông là một cao tăng có chức vị đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo sau này là những nhân vật lịch sử có thật được người Việt tôn sùng là đức Thánh Nguyễn, đức Thánh Trần. Trong dân gian, Nguyễn Minh Khôngcòn được coi là một vị Thánh trong tứ bất tử ở Việt Nam và ông tổ nghề đúc đồng.

Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng Anra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.

Tại quê hương Ninh Bình rất nhiều đền thờ đức Thánh Nguyễn khác. Trong số đó phải kể đến đền thờ Thánh Nguyễn ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là nơi ông đã phát hiện ra các động và biến chúng thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh danh là "Nam thiện đệ tam động", tức động đẹp thứ 3 của trời Nam cũng có đền thờ và tượng của ông. Khu di tích động Hoa Lư thì phối thờ tượng ông cùng với tượng vua Đinh Tiên Hoàng trong ngôi đền cổ. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn và đền thờ Tô Hiến Thành dưới chấn núi Cắm Gươm ở bên sông Hoàng Longchùa Nhất Trụ và động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức Thánh cả. (wikipedia.org)

4.6.1. Đền Thánh Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Đền Thánh Nguyễn là một ngôi đền cổ thuộc làng Điềm, phủ Tràng An nay là hai xã Gia Thắng, Gia Tiến huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Đền thờ Nguyễn Minh Không, là danh nhân được sinh ra trên đất này. Đền được xây dựng trên nền ngôi chùa có tên là Viên Quang do Nguyễn Minh Không lập vào năm 1121. Khi ông mất, nhân dân Đàm Xá biến chùa Viên Quang thành đền thờ Thánh Nguyễn. Đền Thánh Nguyễn được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia tháng 2 năm 1989.

Đền quay hướng nam, song song với đường Vua Đinh hướng về cố đô Hoa Lư nên được xem như là một di tích thuộc Hoa Lư tứ trấn. Đền nằm trên mảnh đất dài 100m rộng hơn 40m, tổng thể công trình kiến trúc khá quy mô, được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Vào đền đi theo hai lối Đông Tây thấy có hai cột cờ hai bên vút cao. Đầu tiên là Vọng Lâu. Bên hồi của Vọng Lâu có cây đèn đá, cao hơn một mét, biểu tượng cái đèn của Nguyễn Minh Không ngày xưa ngồi thắp sáng để ngồi thiền tịnh. Huyền thoại kể rằng, cây đèn tự nhiên mọc lên, Nguyễn Minh Không thường đêm đêm ngồi bên cây đèn. Các loài chim, loài thú về chầu xung quanh, ánh sáng cây đèn chiếu sáng đến tầng mây trên không. Chính vì thế nhân dân tôn hiệu ông là Minh Không và từ đó trở đi tục gọi thiền sư là Minh Không.

Đền có 4 toà làm theo kiểu tiền nhất, hậu công (trước theo kiểu chữ nhất 一 sau là chữ công 工). Năm gian tiền đường làm theo kiểu chồng rường, hồi có mái đại, trụ non xà đuôi chuột, các cặp xà dọc, xà ngang, xà nách, được bám vào cột chắc khoẻ như những ngấn mộng chính xác kín kít, phân bổ ở vị trí không để ảnh hưởng tới sự chịu tải của cột. Gian giữa trên cao ở phía ngoài có cuốn thư chạm khắc bốn chữ Hán Thiên khái Thánh sinh (trời sinh ra Thánh). Bên trong để đồ tế khí, có hai chiếc trống rất quý hiếm, mặt trống đường kính 1,4 m. Trong cùng là chính tẩm gồm 5 gian, thờ Nguyễn Minh Không và cha mẹ ông. Phía sau chính tẩm là gác chuông hai tầng, tám mái, cũng toàn bằng gỗ lim. Gác chuông đây treo một quả chuông nặng hơn 1 tấn, cao 1,60 m. Quanh đền có nhiều cây cổ thụ tán là xanh tươi và những cây cảnh điểm trang cho đền, tạo thành một bức tranh phong cảnh làng quê thâm nghiên, tĩnh mịch.

Cũng giống như các đền thờ thần Cao Sơn, thần Thiên Tôn và thần Quý Minh trong Hoa Lư tứ trấn, lễ hội đền Thánh Nguyễn diễn ra cùng dịp với lễ hội cố đô Hoa Lư hàng năm. ( http://dulichninhbinh.info/)

Lễ hội đền Thánh Nguyễn diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch. Đây là dịp nhân dân địa phương tri ân đức Thánh Nguyễn Minh Không, người con của đất Gia Viễn. Lễ hội chính được tổ chức 5 năm một lần hoặc 10 năm một lần (tuỳ theo điều kiện kinh tế); lễ hội còn được tổ chức hàng năm vào dịp tháng Giêng. Trong phần lễ chính có tục rước nước từ sông Hoàng Long về đền; tế lục khúc, tế nam quan, nữ quan… phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian kéo co, cờ 32 quân, chọi gà, thi bóng chuyền, bóng đá. (wikipedia.org)

Đền thờ thánh Nguyễn ở Chùa Bái Đính 

Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được vua phong Quốc sư và nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không 4 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tôngđã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ Phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.

Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này. (wikipedia.org)

4.6.2. Đền thờ Đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không, Ý Yên, Nam Định

Từ thành phố Nam Định theo quốc lộ 10 về phía Ninh Bình khoảng 20km, rẽ phải vào đường 57 khoảng 4km là đền thờ Đức thánh Tổ thuộc thôn Tống Xá, xã Yên Xá huyện Ý Yên.

Tống Xá là một vùng đất được hình thành vào cuối thế kỷ VIII do công lao của Tống Phúc Thành. Từ một vùng đất hoang vu, dân cư thưa thớt, Tống Phúc Thành đã chiêu tập dân phiêu tán khắp nơi thành lập một khu đất trù phú với diện tích khoảng 1.450 mẫu. Ban đầu mảnh đất  này có tên là trang Kiến Hòa. Sau này để tưởng nhớ công lao của Tống Phúc Thành, nhân dân đã đổi tên Kiến Hòa thành Tống Xá.

 Về làng Tống xá, nếu như Tống Phúc Thành là ông tổ có công lao đặt nền tảng khai sinh ra mảnh đất thì Nguyễn Minh Không lại được nhân dân tôn làm ông tổ của nghề đúc đồng nổi tiếng nơi đây.

Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành sinh năm 1076, con ông Nguyễn Tất Đạt, quê ở Gia Viễn - Ninh Bình. Khi mới xuất gia, Nguyễn Chí Thành theo học nhà sư Giác Không ở chùa Diên Phúc, xã Yên Vệ, phủ Yên Khánh, Ninh Bình. Từ đây ông được sư phụ đặt cho pháp danh là Minh Không.

Quá trình tu hành của Thiền sư Nguyễn Minh Không được dân gian và sử sách truyền tụng với nhiều sự linh dị lạ thường. Ngoài những truyền thuyết mang tính huyền bí về pháp thuật như chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông, ông còn là một thi nhân với nhiều bài thơ nổi tiếng như: Ngôn hoài, Ngư nhàn... Đọc thơ của ông, người ta có thể cảm nhận được tình yêu đời sống đồng quê thanh nhàn và một làn điệu trữ tình sâu sắc, mang âm hưởng của Thiền học.

Không chỉ có thế, Nguyễn Minh Không còn là người đúc nên những công trình nặng hàng nghìn cân, mệnh danh là đại khí của nước ta như: Vạc Phổ Minh, chuông chùa Phả Lại...

Cuốn thần phả do tiến sĩ Vũ Huy Trác soạn năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781) cho biết trong khoảng thời gian từ năm 1115 đến năm 1120, Nguyễn Minh Không đã về làng Tống Xá thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, dân cư thuần hậu, đặc biệt chất đất nơi đây thích hợp để làm khuôn đục nên ông đã lưu lại , truyền lại nghề đúc cho nhân dân địa phương.

Nối tiếp sự nghiệp của ông truyền dậy, các thế hệ người dân ở đây đã khéo léo kết hợp kinh nghiệm truyền thống và sự sáng tạo để ngày càng hoàn thiện trình độ. Những công trình đúc liền khối với trọng lượng hàng chục tấn trên khắp mọi miền đất nước đều được những nghệ nhân nơi đây hoàn thành đảm bảo kỹ, mỹ thuật. Nhớ ơn ông, người đã truyền nghề cho dân làng, nhân dân Tống Xá đã thờ tự ông ngay bên cạnh vị tổ lập làng là Tống Phúc Thành, đời đời về sau tri ân hai vị tổ của quê hương. Chính vì vậy mà câu đối tại đền đã viết:

Phục tiên trù ư điền mẫu

Khải hậu thế dĩ công nông

(Nối theo vị khai khẩn đất của người xưa nơi đồng ruộng

Mở cho đời sau các nghề thợ và nghề nông)

Ngôi đền Tống Xá còn gọi là đền Đức Thánh Tổ được xây dựng tại trung tâm thôn Tống Xá. Đền được xây theo hướng tây nam, phía trước là con đường liên xã rộng rãi, thuận lợi cho việc phát huy giá trị di tích.

 Trước đây ngôi đền chỉ có tòa trung đường 3 gian và hậu cung 4 gian làm theo kiểu chữ đinh. Năm 2000, nhằm đáp ứng nhu cầu chiêm bái của người dân nên địa phương đã xây dựng thêm 5 gian tiền đường, tạo cho khu vực đền có tổng cộng 12 gian theo kiểu tiền chữ nhất, hậu chữ đinh. Mặc dù mới được xây nhưng công trình tòa tiền đường vẫn mang phong cách kiến trúc truyền thống với hệ thống vì bằng gỗ được sơn thếp chu đáo.

Tòa trung đường với 2 bộ vì được làm bằng gỗ lim theo kiểu chồng rường giá chiêng. Phần chạm khắc ở đây được điểm xuyết các họa tiết lá lật, mây tản cùng các hoa lá cách điệu được gia công một cách mềm mại, thanh thoát.

Hậu cung gồm 4 gian xây dọc nối với trung đường. Cả 3 bộ vì cung cấm được làm theo kết cấu mê cốn, chạm kênh bong họa tiết tứ linh, long cuốn thủy, triện tàu lá dắt... Toàn bộ đều được sơn thếp chu đáo tạo sự trang nghiêm, lộng lẫy cho nơi đặt tượng thờ của vị tổ làng nghề.

Ngoài những giá trị về lịch sử, kiến trúc, đền Tống Xá còn là nơi diễn ra lễ hội vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm. Đây là ngày lễ tưởng niệm ngày ông tổ làng nghề đặt chân đến đây và truyền nghề cho nhân dân. Lễ hội ngoài những phần lễ tế, rước để tưởng niệm Đức Nguyễn Minh Không, ban tổ chức còn tổ chức những trò chơi dân gian như tổ tôm điếm, bắt vịt dưới ao, vật cù... Ngoài ra, tham gia lễ hội, du khách còn có dịp tìm hiểu rõ hơn về mảnh đất và con người Tống Xá, về sự phát triển của một làng nghề truyền thống.( baonamdinh.com.vn).

4.6.3. Đền Lý Quốc Sư- Nguyễn Minh Không Hà Nội: là một ngôi đền cổ được xây cất từ năm 1131 thời nhà Lý và gọi là Lý Quốc Sư tự (李國師寺). Hiện nằm ở số 50 phố Lý Quốc SưHà Nội.

Nơi đây thờ thiền sư Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông được phong làm quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là Điềm Xá) huyện Gia Viễntỉnh Ninh Bình. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Quốc Sư.

Theo truyền thuyết ông giỏi pháp thuật và còn là tổ nghề đúc đồng. Đền còn tấm bia do Lê Đình Diên soạn năm Tự Đức 1855 nhân dịp trùng tu. Những ngày đầu toàn quốc chống Pháp, đền đã bị hủy hoại, năm 1954 mới trùng tu như ngày nay. Đền có nhiều tượng nghệ thuật truyền thần với các nhân vật lịch sử, phong cách điêu khắc thời Lê như nhóm tượng gỗ phủ sơn 4 tượng công chúa thời nhà Lý, 4 quan nhà Lý với phẩm phục triều đình, mỗi người một dáng vẻ thần thái khác nhau. Đáng chú ý có 4 chân dung phù điêu đá tô màu: Từ Đạo Hạnh trong bia cao 1,3m, Đức Thánh Mẫu ngồi chống chân trên đài sen như tượng tròn dựa vào bia cao 82 cm, Đức Thánh phụ cao 93 cm đội mũ vuông, có dải trùm vai và sư Giác Hải đầu búi tó, râu ngắn cao 97 cm. Đây là những tượng đá cổ thế kỷ 16 mô ta theo hình thức tự nhiên, gần với người thực. Chùa còn có một quả chuông Bảo Tháp tự chung có niên đại Ất Hợi nhưng chưa rõ đời vua. Năm 1995, chùa được Nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Ở đền Lý Quốc Sư, các nhà sư trong đền thường xuống đường, mở rộng cổng đền phục vụ cơm chay. Người đến ăn "chay" có cả người Việt lẫn người nước ngoài, ngày càng đông. Phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội là con phố độc đáo, nhất là ẩm thực.  (vi.wikipedia.org/)

4.7. Đền thờ Nguyễn Thuyên 

Nguyễn Thuyên (阮詮), có tên  là  Hàn Thuyên (1229-?)(chữ Hán: 韓詮),  làm tới chức Thượng thư Bộ Hình dưới thời Trần Nhân Tông.

Ông là người làng Lai Hạ, huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, nay là xã Lai Hạ, huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1247.

Đại Việt sử ký toàn thư chép:

Mùa thu năm Nhâm Ngọ 1282, khi quân Nguyên đang ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ 2; bấy giờ có cá sấu đến sông Hồng. Vua sai Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự nhiên đi mất. Vua xem việc này giống như việc Hàn Dũ (đời nhà Đường - Trung Quốc), cho đổi họ là Hàn Thuyên.( wikipedia.org)

Cách cửa sông Lai Hạ, ở làng Lai Hạ, xã Lai Hạ, huyện Lương Tài hiện có đền thờ danh nhân Hàn Thuyên, người được xem là ông tổ của chữ nôm. Tư liệu về cụ Hàn Thuyên không nhiều nhưng lại viết khá rõ về việc cụ làm văn đuổi cá sấu. Đó là vào năm 1282, dưới triều vua Trần Nhân Tông, Nguyễn Thuyên giữ chức Hình Bộ Thượng Thư

4.8. Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền, Nam Định

Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền nằm ở khu trung tâm của thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, cách thành phố Nam Định 14km. Tại đây còn lưu giữ bài vị, nhiều sắc phong, câu đối, đại tự ca ngợi Trạng nguyên Nguyễn Hiền và đặc biệt là cuốn ngọc phả chép các sự tích về ông.

Nguyễn Hiền sinh năm Ất Mùi (1235) trong một gia đình nghèo với ngôi nhà 3 gian bé nhỏ, cạnh chùa làng Dương A. Nhà sư trụ trì chùa là một bậc danh nho, mở trường dạy học cho con em trong vùng. Ngay từ khi mới lẫm chẫm biết đi, Nguyễn Hiền đã thường xuyên sang chùa xem các bậc đàn anh học tập. Cậu đứng ngoài cửa sổ chăm chú lắng nghe tiếng học trò đọc bài, tiếng nhà sư giảng giải. Ngày ngày, chữ nghĩa cứ thấm dần vào cậu. Thấy một cậu bé ham mê chữ nghĩa, nhà sư đã nhận cậu làm học trò và cho vào lớp ngồi học. Nguyễn Hiền học rất thông minh, một trang sách chỉ đọc một lần là thuộc nên đã đọc được nhiều pho sách quý của nhà sư. Bởi thế mà tài học của Nguyễn Hiền vang xa khắp nơi, nhiều chí sĩ xa gần đến thử tài đều bái phục. Năm 11 tuổi đã nổi tiếng thần đồng.

Năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Hiền vừa tròn 12 tuổi cũng là lúc triều đình nhà Trần mở khoa thi Tam khôi để chọn Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Vì còn quá ít tuổi nên dân làng đã cử người đưa ông cùng lều chõng đi thi. Năm ấy ông đỗ đầu, được tặng 4 chữ vàng “Khai quốc Trạng nguyên”. Vua thấy Trạng còn quá trẻ nên cho về học lễ, vài năm sau sẽ bổ dụng. Không lâu sau, sứ giả phương Bắc sang có đố một bài thơ nhưng cả triều đình chẳng ai giải được. Nhà vua sai người về mời Trạng vào triều, Trạng giảng giải đó là bài thơ tả chữ “điền”, làm cho cả triều đình và sứ giả phương Bắc phải nể phục. Từ đó danh tiếng của Trạng vang lừng hai nước. Triều đình phương Bắc biết đất An Nam có người tài giỏi nên không dám sách nhiễu. Trạng được cử về triều giữ chức Ngự sử đài, kiêm Đông các đại học sĩ- bộ Công.

Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay phò vua, giúp nước, đối phó với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La. Ông mộ dân đi khai hoang phục hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, tạo mùa màng thắng lợi, nhân dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng rèn vũ khí, các võ đường rèn luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược.

Ngày 14 tháng 8 năm Ất Mão (1255), Nguyễn Hiền qua đời trong niềm thương tiếc vô hạn của muôn dân. Về sau, để tránh tên huý của ông, huyện Thượng Hiền được đổi thành huyện Thượng Nguyên, vua ban cho ông sắc phong là phúc thần, miễn tô thuế cho cả làng Dương A. Nhân dân nơi đây tỏ lòng tôn kính đã xây đền thờ ông, tôn làm thành hoàng làng, ngày ngày lễ bái.Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền được làm theo hướng tây nam với bình đồ kiến trúc kiểu “tiền chữ nhất, hậu chữ đinh”. Phía trước đền là hồ sen, xung quanh có nhiều cây cổ thụ xoè tán lá rộng che bóng mát. Hệ thống nghi môn có 4 cột đồng trụ. Hai cột ở giữa cao 7m, phía trên có khung bảng đắp nổi hoạ tiết tứ linh với những đường nét tinh tế, tạo thành cổng chính của đền, hai cột bên thấp, nhỏ hơn, hợp cùng với cột giữa tạo thành hai cột: tả môn, hữu môn.

Toà tiền đường được tu sửa vào cuối thời Nguyễn, gồm có 5 gian, 2 chái với 6 bộ vì làm theo kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ bẩy”, đặt trên 4 hàng cột. Bên dưới là những chân tảng đá với dáng thắt cổ bồng. Mặt trước của tiền đường có hệ thống cửa gỗ lim chân quay. Cửa ở gian giữa được làm trên con song dưới bức bàn, các gian bên là cửa con bài.

Toà đệ nhị 3 gian có hệ thống cửa gỗ lim chân quay chắc chắn. Cửa ở gian giữa có 6 cánh chạm bộ tranh tứ quý “tùng, cúc, trúc, mai”, chính giữa là hình lưỡng long chầu nguyệt. Toà này có mái cong, với các đầu bẩy chạm hoạ tiết lá lật, trúc hoá long khá công phu, hoạ tiết chạm khắc trên các bộ vì chủ yếu là triện tàu lá dắt.

Cung cấm có 2 gian, được làm giao mái với toà đệ nhị. Trên bộ vì có chạm hoạ tiết long cuốn thuỷ, tứ linh, tứ quý. Các cánh cửa của cung cấm đều làm bằng gỗ lim, chân quay, trên con song, dưới bức bàn. Tại chính cung có đặt ngai và bài vị thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền.

Trạng nguyên Nguyễn Hiền tuổi nhỏ tài cao, là bậc kì tài của đất nước, là người con ưu tú của quê hương. Trải qua bao năm tháng đổi thay, đền thờ ông vẫn được nhân dân trân trọng giữ gìn, trở thành địa điểm thể hiện niềm tự hào, tấm gương cho mọi thế hệ người dân. Trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, nơi đây đã từng tiễn đưa bao lớp người dân lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Năm 1990, trường Năng khiếu huyện Nam Ninh (nay là huyện Nam Trực) được vinh dự mang tên Nguyễn Hiền.( dulichnamdinh.com.vn)

Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH, TT và DL) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Năm 2010, di tích đền thờ ông được chính quyền và nhân dân địa phương đầu tư trùng tu lại khang trang. Hằng năm, cứ vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, nhân dân địa phương lại mở hội tưởng nhớ ông tại đền thờ ông cũng chính là nhà ở của ông khi xưa. Lễ hội truyền thống Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền diễn ra trong 3 ngày. Trong thời gian diễn ra lễ hội sẽ có các nghi lễ và nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao dân gian và hiện đại như: lễ rước kiệu, lễ dâng hương, tế lễ, biểu diễn văn nghệ, thi đấu chọi gà, kéo co, leo cầu phao, bịt mắt đánh trống, cờ tướng, bóng chuyền...(http://baonamdinh.com.vn/)

4.9. Đền thờ Tuệ Tĩnh Thiền Sư - ông tổ thuốc Nam (Đền Xưa, Đền Bia)

 Nguyễn Bá Tĩnh - Tuệ Tĩnh Thiền sư (慧靜禪師, 1330-?), thường được gọi tắt là Tuệ Tĩnh hoặc Huệ Tĩnh (慧靜), sinh vào đời Trần, thế kỷ thứ XIV, tại làng Nghĩa Phú, xã Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tương truyền, Bá Tĩnh là người rất thông minh, học giỏi, mồ côi cha mẹ từ năm lên 6 tuổi, được các nhà sư nuôi dạy. Năm 22 tuổi, thi đỗ Hoàng Giáp, Tiến sĩ, khoa Tân Mão nhưng không ra làm quan mà nương nhờ cửa Phật, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh để theo đuổi chí hướng suốt đời nghiên cứu thuốc Nam, cứu dân độ thế…

Ông được phong là ông tổ ngành dược Việt Nam và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. Các bộ sách Nam Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư của ông không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học Việt Nam

    Với phương châm “Nam dược trị Nam nhân” (dùng thuốc Nam trị bệnh người nước Nam), cụ đã nghiên cứu những cây cỏ Việt Nam dùng để chữa bệnh, sưu tầm các bài thuốc lưu truyền trong dân gian, đúc rút kinh nghiệm trị bệnh của thuốc Bắc xây dựng được sự nghiệp y dược mang tính dân tộc đại chúng. Cụ đã để lại cho đời những tác phẩm có giá trị: “Hồng nghĩa giác tư y thư”, gồm 2 quyển nói về 13 phương thuốc gia giảm và 37 phương trị bệnh thương hàn; “Nam dược thần diệu”, gồm 11 quyển nói về dược tính của 580 vị thuốc Nam, 10 khoa và 3.873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh. Hai bộ sách quý trên được Nhà xuất bản Y học (Hà Nội) in bằng tiếng Việt năm 1960, phòng huấn luyện Viện Nghiên cứu Đông Y phiên dịch theo chủ trương của Bộ Y tế. Đến nay, sách dày 600 trang Toàn tập Tuệ Tĩnh đã được tái bản nhiều lần. Ông được cho là người sáng lập ra nghề thuốc Nam, về sau Hải Thượng Lãn Ông là người tuyên truyền thực hiện có hiệu quả cao về nghề thuốc dân tộc này. Năm 55 tuổi, do rất giỏi về nghề thuốc nên ông đã bị bắt cống cho nhà Minh (Trung Quốc), chữa khỏi bệnh sản hậu cho Tống Vương Phi, được phong là “Thái y thiền sư”, và giữ lại Viện Thái y. Được trọng dụng nhưng cụ luôn đau đáu tưởng nhớ về quê hương, đất nước. Biết số phận mình “sống nhà, thác gửi” nên cụ đã di ngôn tạc vào bia mộ dòng chữ: “Ai về phương Nam cho tôi về với”.

Hơn 200 năm sau, Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho, người cùng làng Nghĩa Phú với Tuệ Tĩnh được cử đi sứ nhà Thanh, cảm động với lời nhắn gửi tha thiết của cụ. Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê hương. Thuyền chở bia về đến cánh đồng làng Văn Thai thì bị lật, bia bị chìm. Nhìn ngắm thế đất nơi bia chìm, nhân dân cho rằng đây là nơi địa linh, đã đắp đất dựng bia, xây đền thờ cúng.

    Đền thờ đại danh y Tuệ Tĩnh tọa lạc tại quê hương ông, trên khuôn viên rộng 3ha với các hạng mục công trình: Tam quan, hồ sen, nhà bia, bái đường, cung đền, đông vu và tây vu… đặc biệt có khu Y xá và vườn thuốc Nam là nơi trồng những cây thuốc quý, chế biến, khám bệnh, cắt thuốc cho dân.

    Trong đền có nhiều câu đối, trong đó có câu ca ngợi công đức của vị Thánh y Tổ sư Nam dược.( http://baoanhdatmui.vn/)

Đền Bia  xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương – nơi thờ đại danh y Thiền Sư Tuệ Tình

Đền Bia thuộc thôn Văn Thai xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng. Đền Bia được xây dựng để thờ Tuệ Tĩnh và tấm bia thời Lê là di vật kỷ niệm của Tuệ Tĩnh nên có tên là Đền Bia. Theo tư liệu lịch sử đang lưu hành thì khi Tuệ Tĩnh 55 tuổi đi sứ Trung Quốc và mất tại Giang Nam.

Về tấm bia thời Lê thờ tại đền có lịch sử như sau:

Nhân dân địa phương cho biết tấm bia này do tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-1699) là người cùng làng với Tuệ Tĩnh soạn khắc vào năm 1699 khi ông đi sứ Trung Quốc đã đến viếng mộ Tuệ Tĩnh tại Giang Nam, đọc mặt sau tấm bia trên mộ thấy có ghi chữ : "Về sau có ai bên nước sang, nhớ cho hài cốt tôi về với", Nguyễn Danh Nho đã vô cùng xúc động trước tình cảm luôn hướng về quê hương đất nước của Tuệ Tĩnh nên đã cho dập mẫu tấm bia mang về nước, thuê thợ làm lại và chở về quê. Khi đó cả vùng quê ông bị ngập nước, xuôi thuyền đến địa phận đền hiện nay thì thuyền bị lật, tấm bia rơi xuống nước không lấy lên được, ít lâu sau nước cạn, nhân dân tìm thấy bia, thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (dao thái thuốc nam) nên đã dựng miếu thờ bia. Từ ngày dựng bia, người khắp nơi kéo về lấy thuốc, hái lá, xin nước đền Bia về uống với hy vọng mọi bệnh sẽ khỏi. Tương truyền vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) mỗi ngày có tới hàng nghìn người đến Đền Bia, nên vua đã hạ chiếu cấm việc cúng lễ và xin thuốc mang mầu sắc mê tín và mất vệ sinh, và sai người đem tấm bia về cất tại kho ở Hải Dương, sau này có một người làng Văn Thai làm chức thủ kho đã bí mật lấy lại bia đem về đền thờ.
Đền Bia nguyên được xây dựng từ thời Lê, trùng tu vào năm 1936, kiến trúc kiểu tiền nhất hậu đinh, mặt tiền quay hướng bắc, xung quanh cây cối xanh tươi và nằm giữa cánh đồng thuộc hai xã Cẩm Văn và Cẩm Vũ của huyện Cẩm Giàng, đền có vườn thuốc nam rộng lớn, phong phú các loại dược liệu, toà tiền tế trùng tu năm 1993 phỏng theo kiến trúc thời Nguyễn khá đẹp gồm 5 gian với diện tích 120 m2, trung từ và hậu cung nhỏ nhưng còn chắc chắn và đồng bộ từ kiến trúc đến các đồ thờ tự, nhà kiểu lòng thuyền tứ trụ, vì con chồng đấu sen, bức cốn chạm long cuốn thuỷ và hoa lá, chính giữa treo bức đại tự sơn son thiếp vàng ghi 4 chữ: " Thánh cung vạn tuế" nghĩa là: " Đức thánh muôn tuổi". Hai cột treo đôi câu đối ca ngợi Tuệ Tĩnh:

" Hoàng giáp phương danh đằng bắc địa

Thánh sư dược diệu trấn Nam bang"

Nghĩa là:

" Thi đậu hoàng giáp tiếng lừng đất bắc

Chữa bệnh thần diệu tài quán nước Nam".

Di tích còn nhiều cổ vật có giá trị từ các triều đại phong kiến như bệ đá thời Nguyễn chạm khắc tứ linh, tứ quý, cỗ khám sơn son thiếp vàng, tượng Tuệ Tĩnh, đặc biệt là tấm bia thời Lê là di vật kỷ niệm của Tuệ Tĩnh, được nhân dân địa phương coi như báu vật bảo quản tại hậu cung của đền.
Năm 2003 dự án trùng tu lớn đền Bia đã được phê duyệt, sau hơn 3 năm xây dựng công trình được khánh thành vào năm 2006 với tổng kinh phí là 14 tỷ 8 trăm triệu đồng. Tổng diện tích khu di tích là 3 ha, 7 mẫu gồm hai khu là: Khu thờ tự và khu y xá. Khu thờ tự gồm 5 công trình: Tam quan, nhà thuỷ đình, nhà tả vu và hữu vu, tiền tế và hậu cung, tổng số 23 gian, còn lại là sân vườn, tường bao và cổng. Kiến trúc phỏng theo thời Nguyễn, với chất lượng gỗ lim toàn phần, gạch Bát Tràng. Khu y xá gồm 3 công trình: Nhà bắt mạch kê đơn thuốc, nhà bốc thuốc và nhà chẩn trị, mỗi công trình 5 gian. Ngoài ra còn có nhà từ tâm dùng đón tiếp khách. Khu di tích đền Bia nằm ở cánh đồng nơi tiếp giáp giữa làng Văn Thai và làng Nghĩa Phú, tạo nên một không gian hoành tráng, cổ kính hài hoà với thiên nhiên.

Lễ hội Đền Bia:Trước khi có Đền Bia, nơi đây chỉ là một đống đất cao, nhưng vì khu đất có hình con dao cầu nên nhân dân vẫn thường tự đến cắm hương lễ bái, sau khi tấm bia được dựng nên thì mới dựng đền thờ tấm bia, ban đầu đền làm bằng gianh, tre, nhưng năm nào cũng bị cháy, vì thế dân làng mới cho lập một ngôi đền gọi là Đền Trung ở gần vị trí làng Văn Thai để thờ vọng lên đền Bia, sau đó mới xây dựng đền Bia bằng vật liệu gạch, gỗ lim chắc chắn hơn, từ đó dân làng lễ tại hai đền và gọi là đền Trung và đền Thượng.

Theo nhân dân địa phương cho biết lễ hội đền Bia được bắt đầu từ năm 1830, đó là vào đời vua Minh Mạng thứ 11, tương truyền có thánh ứng vào ngày mùng 1 tháng 4 (âm lịch) và lễ hội diễn ra từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 4 tháng 4, trong 4 ngày đó nhân dân gọi là Hội thánh ứng lần thứ nhất và chính là ngày giỗ của thiền sư Tuệ Tĩnh. Lễ hội do lý trưởng, hội đồng tộc biểu và các vị chức sắc của làng và các giáp đứng ra tổ chức, diễn biến của lễ hội thánh ứng lần thứ nhất có thể miêu tả như sau:

Thánh ứng lần thứ nhất (năm 1830):

Ngày mùng 1 tháng 4:

 Nhân dân tổ chức lễ rước bát hương và hòm sắc từ đền Trung ra đền Bia (đền Thượng), lễ rước gồm hai kiệu, kiệu thứ nhất rước bát hương gồm 12 thanh niên khoẻ mạnh mặc áo màu đỏ khiêng, những người khiêng kiệu được chọn từ các giáp của làng tuổi từ 18 đến 30. Kiệu thứ hai rước hòm sắc bố trí 4 người khiêng, trên kiệu có long đình đặt hòm sắc, đoàn rước bố trí như sau:
Đi đầu là những thanh niên cầm cờ, bát biểu, sau đó đến đội chiêng, trống, tiếp đến là kiệu bát hương, đi theo sau kiệu là các vị chức sắc của làng, xã, mặc áo lương, khăn xếp, kiệu được hai người cầm tàn lọng che hai bên, sau đó đến kiệu hòm sắc, theo sau là các vị trong hội đồng tộc biểu của làng, giáp trong xã, tiếp đến là đoàn các cụ, dân làng mặc áo dài, vấn khăn đội lễ vật và nhân dân đi theo. Lễ vật gồm lợn luộc để cả con, mâm xôi, trầu, rượu và hoa quả, đèn hương... nói chung đều là sản vật của quê hương. Đoàn rước đi trong tiếng chiêng, trống rộn ràng, không khí lễ hội tưng bừng hoà với quần áo đủ sắc màu. Khi đoàn rước đến đền bia, kiệu được đặt tại vị trí trang trọng và tổ chức tế thánh, đội tế nam gồm 15 người, chủ tế phải là tiên chỉ của làng.

Ngày mùng 2 tháng 4:

Tại đền Trung và đền Thượng (đền Bia) nhân dân đến tự do lễ bái và xin thuốc, gọi là hội thánh vì nơi đây thờ tấm bia kỷ niệm Tuệ Tĩnh, người được tôn là thánh thuốc nam, tương truyền trong những ngày diễn ra lễ hội ai vào đền Bia đều bứt lá đặt lên lễ thánh sau đó mang về sắc uống đều khỏi bệnh (bách bệnh), người nọ truyền người kia cho nên dân các nơi kéo về đền Bia rất đông, nhân dân trong làng đem ra đền đủ các loại lá để làm lễ bán, như lá tre dây, lá ngải cứu, lá cúc tần, lá mít, lá bưởi... ai mua lá xong đều phải đặt vào lễ thánh thì lá đó sắc uống mới khỏi bệnh vì lá đó đã được Thánh ứng. Năm 1830 có hàng vạn người đến lễ và xin thuốc thánh, nhân dân địa phương phải làm nhà sàn xung quanh đền để phục vụ. Không khí lễ hội nhộn nhịp suốt ngày đêm, cuốn hút tất cả mọi người trong làng xã, trong các làng chỉ còn các cụ già và trẻ con còn bé còn tất cả đều ra đền phục vụ lễ hội thánh.

Ngày mùng 3 tháng 4:

Nhân dân địa phương và các nơi vẫn đến đặt lễ thánh và xin thuốc. Để có không khí lễ hội, làng có tổ chức một số trò chơi dân gian như đánh cờ, bịt mắt bắt dê, đi cầu kiều, có treo giải thưởng. Buổi tối tổ chức hát chèo đến khuya.

 Ngày mùng 4 tháng 4:

Tổ chức rước kiệu bát hương và hòm sắc trở lại đền Trung và làm lễ tạ thánh, diễn biến của đoàn rước cũng diễn ra như khi rước ngày mùng 1 tháng 4, sau đó kết thúc hội đóng cửa đền.
Từ năm 1830 đến năm 1950 lễ hội hàng năm vẫn được hội đồng tộc biểu duy trì và tổ chức đầy đủ lệ bộ nhưng người đến dự Hội không đông bằng năm 1830. Lễ hội ở đây có lệ kiêng: Nhà ai có đại tang không được vào rước kiệu, ai ăn thịt chó thì không được vào đền làm lễ, mọi người đều phải kiêng đúng như quy định nếu ai làm sai sẽ bị làng phạt.

 Thánh ứng lần thứ hai ( năm 1936):

Hơn 100 năm, sau Thánh ứng lần thứ nhất năm1830, vào năm Bảo Đại thứ 11 (1936) tương truyền có Thánh ứng lần thứ hai, lễ hội Thánh cũng được tổ chức 4 ngày, từ mùng 1 tháng 4 đến ngày mùng 4 tháng 4 (âm lịch) như dịp Thánh ứng lần thứ nhất. Nhưng lần này người đến lễ và xin thuốc đông hơn lần một rất nhiều, mỗi ngày có tới hàng vạn người từ các nơi đổ về xin lá thuốc, tất cả những thứ lá gì trong đền cũng đều được coi là thuốc quý chữa bách bệnh. Nhân dân từ khắp các tỉnh thành trong Nam, ngoài Bắc đều kéo nhau về đền để lễ và xin thuốc, nhân dân địa phương gọi là hiện tượng " hiển thánh".

Từ đó đến nay lễ hội vẫn diễn ra bình thường nhưng không đông như năm 1936 nữa, vào năm 1962 đền Trung bị giải hạ, từ đó lễ hội tập trung vào đền Bia là chính.
Xét quy mô lễ hội cổ truyền Đền Bia đó là một lễ hội với quy mô rộng lớn hầu như trong cả nước, nhân dân từ khắp ba miền đất nước kéo về lễ hội như một hiện tượng đặc biệt vì sự "hiển thánh" ở Đền Bia truyền đi rất nhanh, nhân dân rất tin vào vị Thánh thuốc nam Tuệ Tĩnh.
Từ năm 1992 xã Cẩm Văn thành lập Chi hội đông y, chuyên sản xuất, kê đơn bốc thuốc nam, bắc, số hội viên khá đông, địa điểm đặt tại đền Bia, xung quanh đền trồng nhiều cây thuốc, vào những ngày hội nhân dân đến dự hội, lễ Thánh và vẫn xin thuốc chữa bệnh, mặt khác còn có thày thuốc bắt mạch lấy thuốc tại đền, Chi hội đông y đền Bia là chi hội mạnh của Chi hội đông y huyện Cẩm Giàng và tỉnh Hải Dương, hoạt động có hiệu quả tốt, phát huy truyền thống của thuốc nam Tuệ Tĩnh.
Ngày nay di tích đền Bia vẫn được chính quyền địa phương đứng ra tổ chức, những hình thức cổ truyền trong dịp hội vẫn được kế thừa có chọn lọc, tiếp tục duy trì được những phong tục hay và loại trừ những biểu hiện, những hành động chưa tốt, cùng nhau xây dựng quê hương.
Sau một năm lao động vất vả, những ngày hội vui vẻ đem đến cho người dân sự thoải mái, đồng thời thắt chặt thêm tình đoàn kết xóm làng, dòng tộc trong những dịp lễ hội thiêng liêng. Số tiền công đức của thập phương được công khai để xây dựng di tích, nhân dân địa phương có dịp được giao lưu với nhân dân các tỉnh khác về dự lễ hội. Song lễ hội cũng cần khắc phục một số hạn chế hiện tượng một số người lợi dụng lễ hội để kinh doanh, có như vậy việc tổ chức lễ hội mới thực sự có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của nhân dân. (haiduongdost.gov.vn)

Ngày 15 tháng 02 Kỷ Sửu tại Đền Bia tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm đại danh y Tuệ Tĩnh. Lễ hội này tổ chức hàng năm vào 14/2 âm lịch tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Lễ hội suy tôn Thánh y sư Tuệ Tĩnh. Người đi hội làm lễ dâng hương, lễ thánh vị, xin thuốc lá (dược liệu) về dùng.

Đền Xưa  thờ Đại danh y thiền sư Tuệ Tĩnh tại thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng

        /)/ăm 1385, Cụ Tuệ Tĩnh được cử đi sứ sang nhà Minh - Trung quốc giữ chức Y tư cửu phẩm và nổi tiếng là thầy thuốc giỏi. Cụ đã chữa khỏi bệnh cho Hoàng Hậu vợ vua nhà Minh nên được vua Minh phong là Đại Y Thiền sư. Sau Cụ mất ở Giang Nam, Trung quốc không rõ năm nào.

    Hơn 300 năm sau, năm 1690 đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hoà, Cụ Nguyễn Danh Nho người cùng làng được cử đi sứ sang nhà Thanh Trung Quốc. Cụ đã tìm đến viếng mộ Cụ Tuệ Tĩnh và chép văn bia đem về quê hương. Bia đem về để ở khu đất giáp địa phận Nghĩa Phú và Văn Thai. Tại nơi đây nhân dân đã dựng thành đền Bia.

Cũng trong thời gian này, để tỏ lòng biết ơn vị Thánh thuốc Nam, nhân dân làng Nghĩa Phú (nơi chính quê hương Tuệ Tĩnh) đã dựng một ngôi đền gọi là đền Xưa để thờ. Đền khoảng năm 1830 (thời Minh Mệnh) nhân dân khắp nơi kéo về lễ hội và xin thuốc rát đông, gọi là Hội Thánh lần thứ nhất. Số tiền công đức thu được, nhân dân đã trùng tu  ngôi đền này và còn tậu được 3 mẫu ruộng để thờ cúng. Đến năm 1936 lại Hội Thánh lần thứ hai, nhân dân khắp nơi lại kéo về lễ hội và xin thuốc đông hơn lần trước nhiêu và kéo dài gần 3 tháng. Số tiền công đức lần này nhân dân lại xây được ngôi đền ngoài vào năm 1937. (http://dulichhaiduong.vn/)

4.10. Đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu

Nguyễn Thị Bích Châu quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định con gái đại thần Nguyễn Tướng Công. Bà được cha mẹ nâng niu đặt tên Bích Châu (碧珠), tự là Bích Lưu (碧琉). Ngụ ý con gái của ông bà quí giá sánh với châu ngọclưu ly ở trên đời.

Bà sớm nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, lại có dung mạo xinh đẹp, nên rất nổi tiếng trong vùng.

Năm 1373, bà được Trần Duệ Tông tuyển làm cung nhân, lúc đàn ca, khi ngâm vịnh, được nhà vua rất đỗi thương yêu, gọi là Nguyễn Cơ (阮姬), ái phi Bích Lưu hay ái phi Bích Châu.

Bà có tài thơ văn, lại nhìn xa trông rộng, từng dâng "Kê minh thập sách" (Mười kế sách trị nước) để can gián Trần Duệ Tông bỏ qua việc chinh chiến mà củng cố đất nước, nhưng nhà vua không nghe, dẫn đến kết cục bi thảm

Năm 1376, đất nước ta bị chúa Chiêm Thành Chế Bồng Nga thường sang gây hấn quấy rối. Mùa Đông năm đó giặc lại tràn sâu vào lãnh địa của ta phá phách rất hung bạo. Vua Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. bà Bích Châu bồn chồn lo lắng dâng biểu khuyên can.

Rồi bà lại viết tiếp đoạn ngắn nhắc nhở nhà vua: "…Việc trị đạo nước trước gốc sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên hàn. Trị cái rắn nên dùng cái mềm, phục rợ xa cốt lất đức… Đó là thượng sách, xin quan gia xét đoán cho minh."

Bài biểu dâng lên cũng không lay chuyển nổi nhà vua. Cung phi Bích Châu buồn lo than thở: "…Nghĩa lớn là vua tôi, ái tình là vợ chồng. Vậy mà không giỏi khuyên can để giữ nền bình trị, không biết khéo lời để ngăn lòng hiếu chiến, như thế ta đã là người vô dụng chăng?" Biết nhà vua nhất định không chịu nghe, bà đành xin đi theo hộ giá.

Khi quan quân nhà Trần đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn) vua Chiêm là Chế Bồng Nga cho sứ giả đem vàng ngọc tới quan quân ta để trá hàng, nhưng sau đó lại bất ngờ tiến đánh vào lúc nửa đêm. Quân của Trần Duệ Tông bị tấn công bất ngờ, long thể nhà vua lại bất an, Nguyễn Thị Bích Châu cưỡi ngựa tả xung hữu đột cầm quân xung trận và không may bị trúng tên độc sau đó từ trần.

Ba ngày sau vì vết thương quá nặng nhà vua cũng băng hà, quân nhà Trần rút về kinh đô khi tới địa điểm Châu Hoan vì sóng to gió lớn tàu thuyền phải ghé vào vũng Ô Tôn (Vũng Áng). Lúc này vua Trần Phế Đế mới lên ngôi nghe tin liền xuống chiếu rước linh cữu nhà vua về bằng đường bộ còn linh cữu Thần phi đi bằng đường biển. Sau mấy ngày thời tiết không thuận lợi triều đình xuống chiếu cho an táng Thần phi tại Cửa Khẩu, bến Kỳ La huyện Kỳ Hoa thuộc Châu Hoan. (wikipedia.org/wiki)

Năm 1470, trong lần đem quân đi đánh Chiêm Thành giành chiến thắng trở về, vua Lê Thánh Tông cho quân dừng lại nơi đây và sai người chặt gỗ, gọt đá, xây dựng ba toà điện thờ bà và sắc phong cho bà là: “Chế Thắng phu nhân”.

Đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu, còn gọi là đền Bà Hải, đền Hải Khẩu, hay đền Chế Thắng phu nhân, cung phi vua Trần Duệ Tông, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Trải qua sự biến thiên của thời gian và lịch sử, đền vẫn giữ được vẻ cổ kính, linh thiêng, trở thành địa chỉ du lịch tâm linh nổi tiếng.

Đền thờ được xây dựng thời Trần chỉ có tiền miếu hậu lăng, đến năm 1470, đền có 3 toà: Hạ điện, trung điện và thượng điện.

Đền Bích Châu được xây dựng trên bãi đất pha cát biển rộng khoảng 4.500m2, quay về hướng đông nam. Phía trước đền, từ trái sang phải là núi Ô Tôn có đền Eo Bạch được xây dựng cuối đời Trần. Vũng Áng còn gọi là "Cửa Cá" nổi tiếng với nhiều hải sản quý như tôm hùm, mực, yến sào... Núi Cao Vọng có hang nhỏ tương truyền là nơi ẩn náu của Hồ Hán Thương vào năm 1407. Sau lưng đền, xa xa là núi Bàn Độ có đầm Tiên nữ, có bàn cờ tiên, xưa là nơi có rất nhiều hươu sao. Đỉnh núi bằng phẳng giống như cái mâm vàng đặt qua biển (kim bàn đồ hải) nên có tên là núi Bàn Độ.

Toàn bộ công trình của đền hiện tại được bao quanh bằng cát bồi lấp thành bức tường tự nhiên. Ba toà điện Hạ điện, Trung điện, Thượng điện và nhà dâng hương là hệ thống nối liền khép kín với nhau kiến trúc theo kiểu chữ Công (I). Phía sau thượng điện tương truyền có mộ của bà Quý phi Nguyễn Thị Bích Châu. http://www.baohatinh.vn/

Theo http://dantri.com.vn/ Năm 1991 ngôi đền đã được Bộ Văn hoá công nhận di tích lịch sử văn hoá danh lam thắng cảnh. Năm 2010 ban quản lý khu di tích đã cho xây thêm một số hạng mục như nhà văn bia, nhà dịch vụ, nhà ban quản lý….

Hàng năm cứ đến ngày 11/2 âm lịch, Ban quản lý phối hợp với chính quyền địa phương làm giỗ cho Thánh Mẫu và tổ chức nhiều trò chơi dân gian như đua thuyền, kéo co… Đặc biệt lễ giỗ Thánh Mẫu năm nay, ngoài việc mỗi xóm dâng một mâm hoa quả thì lễ chung phải sắm đủ 634 bánh chưng tượng trưng cho 634 năm tuổi của ngôi đền để tăng phần trang trọng linh thiêng.

Theo ông Lê Bá Khang, Trưởng ban quản lý Khu di tích, năm 2010 lượng khách đến đền là hơn 20 vạn lượt. Còn những ngày đầu xuân 2011 này mỗi ngày ước tính hơn 5.000 người vào thăm viếng.

4.11. Đền thờ Nguyễn Cảnh Hoan ở xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An

 Thái Phó Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan sinh năm Tân Tỵ 1521, mất năm Bính Tý 1576. Lớn lên, Nguyễn Cảnh Hoan là người thông minh trí dũng, văn võ song toàn, một lòng yêu nước thương dân. Ông sinh ra và lớn lên vào thời kỳ đất nước loạn ly, được theo cha rèn văn luyện võ. Năm Ất Mùi 1535, ông đi thi và đậu Hương Cống.

Năm 1536, khi mới 15 tuổi đã cùng với 4 anh em ruột hăng hái theo cha lên Sầm Châu phò Vua Lê Trang Tông. Nguyễn Cảnh Hoan được sự giáo dục và dìu dắt trực tiếp của cha nên sớm trưởng thành và có mặt trong hàng ngũ quân đội triều Lê. Ông sớm được vua Lê giao trọng trách làm tướng chỉ huy với tước Dương Vương Hầu.

Trận đánh mở đầu cho cuộc đời binh nghiệp oanh liệt của Ông là trận đánh tháng 12 năm Đinh Mão 1547. Năm đó, nhà Mạc kéo quân vào đánh phá Thanh Hóa, căn cứ địa của vua Lê. Ông được giao trách nhiệm chỉ huy cánh quân phục kích.

Trải qua 37 năm xông pha trận mạc, chiến đấu ngoan cường, bất chấp hiểm nguy, kể từ trận đánh mở đường đưa vua Lê Trang Tông từ Sầm Châu về nước, đến những lần vào, ra giữ vùng đất Hoan Ái "đất căn bản của triều đình", Thái phó Tấn Quận Công Trịnh Mô tiếng tắm vang dội trong hàng võ tướng và toàn quân.

Đến năm Quý Dậu 1573, Tiết Vương thấy ông làm tướng đã lâu, tiếng tăm lừng lẫy, có tài biện luận, muốn đưa ông vào hàng quan văn, bèn phong làm Hiệp mưu công thần đặc tiến Kim Tử Vinh lộc đại phu, Binh Bộ Thượng Thư, Thái Phó Tấn Quốc Công.

Năm 1574 đến năm 1576 quân Mạc do Thạch Quận công Nguyễn Quyện chỉ huy vào đánh phá Hoan Châu, Thái Phó Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan đã lãnh đạo đại quân cùng với 30 viên tướng, trong đó có 5 người con trai của ông là Thể Quận Công Nguyễn Cảnh Hựu, Trung Quận Công Nguyễn Cảnh Huân, Cường Quận Công Nguyễn Cảnh Vạn, Lập Quận Công Nguyễn Cảnh Chiêu, Thư Quận Công Nguyễn Cảnh Khiên chống cự đánh bại quân địch, đuổi quân Mạc chạy từ sông Tam Kỳ ra khỏi Cửa Hội.

 Sau khi đuổi được giặc, Nguyễn Cảnh Hoan rất quan tâm giúp đỡ dân lưu tán chạy giặc, trở về quê quán làm ăn yên ổn.

Năm 1576, Mạc Kính Điển lại đưa quân vào đánh phá Ái Châu (Thanh Hóa). Tiết chế trưởng quốc công Trịnh Tùng cho mời Tấn Quốc Công Trịnh Mô từ Hoan Châu về Thanh Hóa bàn việc chống giặc.

Vâng lệnh triều đình, trên đường hành quân về Thanh Hóa, không ngờ bị nội phản báo, Nguyễn Quyện đem quân mai phục tại huyện Ngọc Sơn bắt được Tấn Quốc Công Trịnh Mô đưa về Đông Kinh, hậu đãi nhằm dụ dỗ ông theo nhà Mạc. Dụ dỗ mãi không được, kẻ thù đã hãm hại ông trong ngục. Ngày 16 tháng 9 năm Bính Tý 1576 ông qua đời, thọ 57 tuổi.

Để tỏ lòng kính trọng và thương tiếc ông, vua Lê cho tổ chức lễ Quốc tang. Năm 1602, Triều đình truy tặng ông 8 chữ "Hùng Nghị Khuông Tế Trạch Dân Đại Vương". Đồng thời nhà vua sai Quốc Sư Chính Hòa đưa hài cốt cát táng tại xứ Chọ Mây trong dãy núi Cấm và xây dựng ngôi đền thờ lớn trên bờ Lam Giang thuộc xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An để nhân dân hương khói phụng thờ.

Năm Giáp Thìn 1664, triều đình quyết định hàng năm cứ đến ngày rằm tháng 3 âm lịch tổ chức lễ hội tại đền thờ Nguyễn Cảnh Hoan, và cứ đến 10 năm tức là cứ đến năm Giáp thì tổ chức đại lễ gọi là Thập niên đại lễ hội. Đại lễ hội đầu tiên tổ chức vào năm 1664 đến nay đã được 350 năm. Mục đích của lễ hội là phát huy truyền thống "trung, cần, nhân, nghĩa, bảo quốc hộ dân" của ông cha, tổ tiên. Nội dung được thể hiện bằng sinh hoạt văn hóa mang đậm sắc thái dân tộc như lễ rước, lễ dâng cỗ chay lên bàn thờ tổ tiên, đêm văn hóa hát các làn diệu dân ca xứ nghệ, các trò chơi truyền thống của địa phương Đô Lương. 

Lễ hội đã thu hút hàng vạn người trong dòng họ và du khách gần xa. Trước lúc lễ hội diễn ra, dòng họ đã tổ chức lễ rước tổ từ đền thờ đến Đền Đức Hoàng – nơi thờ vua Lê Trang Tông để tưởng nhớ đến công lao của nhà Vua. Đây là ngày hội lớn của dòng họ Nguyễn Cảnh nên các chi phái của dòng họ trên phạm vi cả nước đã về dự. Đoàn rước lễ được diễn ra sinh động với đoàn voi tượng trưng cho tước quận công, ngựa tượng trưng cho tước hầu đó được mô phỏng lại. Bên cạnh đó, các nam thanh nữ tú của dòng họ đã rước hàng chục bức sắc phong của nhà Vua ban cho Thái Phó Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan và dòng họ. Lễ rước đã diễn ra trọng thể với sự tham gia của hàng vạn người kéo dài gần 2 km

 Năm 1991, đền được xếp hạng Di tích Văn hóa – Lịch sử.  Ngoài đền chính ở Tràng Sơn còn có các đền thờ Nguyễn Cảnh Hoan ở xã Lưu Sơn (Đô Lương) và ở một số địa phương thuộc các huyện Nam Đàn, Thanh Chương. Phần mộ của ông hiện ở rú Cấm xã Tràng Sơn. (http://ngheannews.vn/)

4.12. Đền thờ Nguyễn Biểu xã Hưng Lam, Hà Tĩnh

Nguyễn Biểu (chữ Hán: 阮表, ?- 1413) là tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam, quê ở quê làng Bình Hồ, huyện La Sơntrấn Nghệ An (nay thuộc xã Yên Hồ, Đức ThọHà Tĩnh).

Ông là người nổi tiếng thông minh học giỏi “Học một biết mười, văn chương siêu chúng”  đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) cuối thời Trần, làm quan đến chức Điện Tiền Thái sử (Ngự Sử). Khi quân nhà Minh xâm lược Đại Ngu, ông đã phò vua Trần Trùng Quang Đế (1409-1413) tổ chức cuộc kháng chiến.

Năm 1413, quân Minh đánh vào Nghệ An,vua Trùng Quang Đế chạy vào Hóa Châu.Từ Nghệ An rút vào đây, vua Trần hy vọng có thể nhóm lại lực lượng, rồi từ căn cứ cực nam của đất nước, tung quân đi dẹp bọn xâm lượt nhà Minh, rửa hận cho thần dân, dựng lại cơ nghiệp nhà Trần

Nguyễn Biểu là một mưu sĩ, ngay từ rất sớm đã theo phò tá Trần Quý Khoáng, ông là một trong những người đã có nhiều đóng góp cho cuộc khởi nghĩa như: bàn mưu tính kế giúp vua Trùng Quang nhiều lần tiến quân ra Bắc giành được thắng lợi và gây cho quân Minh nhiều thiệt hại, ông còn giúp vua chọn địa thế để đóng đại bản doanh ở vùng Chi La và đốc thúc quân lính xây dựng phòng tuyến kiên cố tại đây.

Trước tình thế ngày càng bất lợi cho nghĩa quân, vua Trùng Quang quyết định thiên đô vào Hóa Châu (Quảng Trị - Thừa Thiên Huế), để làm kế hoãn binh và tin vào lời chiếu của vua Minh Thái Tổ. Vua Trùng Quang cử người đi “cầu phong”. Nguyễn Biểu quan Ngự sử của triều đình đứng ra nhận trọng trách này, ông biết chuyến này đi dễ khó về nhưng vẫn dám xả thân vì nghĩa lớn. “ Há một cung tên lồng chí trẻ, bội mười vàng sắt đúc gan già”

Trước kẻ thù ông giữ vững phong thái ung dung, tư thế hiên ngang “không run, không sợ, nét mặt vững vàng lời nói mạnh bạo”. Trương Phụ dùng mọi cách để bắt ông khuất phục. Hắn bắt ông lạy, ông không lạy, hắn dọn cỗ đầu người mời ông ăn, không chút do dự ông lấy đũa khoét 2 con mắt chấm dấm ăn, vừa ăn ông vừa đĩnh đạc thốt lên câu “Đã mấy khi người Nam được ăn đầu người Bắc”, sau khi ăn xong ông còn ngâm bài thơ “ăn cỗ đầu người”. Sau khi nghe xong bài thơ Trượng Phụ phải khâm phục mà thốt lên rằng “Thực là một tráng sĩ thấy thế mà không kinh sợ” rồi thả cho ông về nhưng khi đoàn sứ giả vừa đến Lam Kiều thì bị bắt trở lại. Chúng dẫn ông đến trước mặt Trượng Phụ bắt ông quỳ lạy, ông không chịu khuất phục, chúng trách ông vô lễ, ông liền nghiêm sắc mặt mà mắng Trương Phụ rằng: “Bề trong thì lấy kế để mưu đánh lấy, bề ngoài thì phao rằng đem quân để làm việc nhân nghĩa. Đã hứa lập con cháu họ Trần, mà lại bày đặt ra quận, huyện để cai trị, không những cướp của cải quý báu, mà lại còn giết hại sinh dân, bay thật là tụi giặc làm càn”. Trương Phụ sai trói ông dưới chân Lam Kiều để nước sông dâng lên dìm chết. Trong lúc chờ đợi cái chết đến với mình Nguyễn Biểu đã để lại bút tích bằng máu được truyền khẩu đến ngày nay tại chân cầu với 7 chữ “Sóc nhật, thất nguyệt, Nguyễn Biểu tử”(ngày mồng 1 tháng 7 ÂL Nguyễn Biểu chết). Nhưng lạ thay hôm đó nước thủy triều không dâng lên đến chỗ Nguyễn Biểu bị trói, Trương Phụ sợ quân lính bị lung lạc tinh thần khi nghe Nguyễn Biểu vạch trần tội ác của mình, liền cho quân lính đưa ông về chùa An Quốc và giết hại ông tại đó.Vua Trùng Quang được tin ông tử tiết hết sức thương xót sai làm văn Dụ tế, nhà sư chùa Yên Quốc cũng soạn bài văn làm lễ cầu siêu cho ông. Nguyễn Biểu vị sứ giả của dân tộc đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh. Tiết tháo của Nguyễn Biểu thật là lẫm liệt, trước giặc giữ lòng chỉ nghĩ đến vua, trước vận suy của nước vẫn làm rạng danh quốc thể. 

Sau cái chết oanh liệt của sứ thần đất Việt, Trương Phụ càng khâm phục khí khái của ông nên đã lấy hậu lễ cho đưa thi hài của ông về an táng tại quê nhà xã Bình Hồ, huyện Chi La. Vùng đất Nghĩa Liệt xưa là nơi chứng kiến sự kiện Nguyễn Biểu đi cầu phong, chứng kiến khí phách kiên cường của ông trước kẻ thù và là nơi ông trút hơi thở cuối cùng nên vua Lê Thái Tổ đã phong cho ông là “Nghĩa sĩ đại vương” và cho xây dựng ngôi đền tại quê nhà. Về sau các triều đại phong kiến Lê - Nguyễn tiếp tục gia phong và cho xây dựng thêm nhiều ngôi đền tại vùng Nghĩa Liệt để thờ phụng như: đền Trên, đền Dưới, đền Yên Cư, đền Phúc Hải, đền Yên Thái,…

Nguyễn Biểu chết nhưng tấm gương Nghĩa Liệt của ông vẫn sống mãi với non sông đất nước, với quê hương núi Hồng, sông Lam.

Vua Lê Thái Tổ sau khi chiến thắng quân xâm lược Minh, đã cho lập đền thờ ông ở Nội Diên, phong là Nghĩa Liệt Hiển ứng Uy Linh Trợ Thuận đại vương, tức Nghĩa sỹ Đại Vương, đến đời vua Lê Thánh Tông sai lập miếu thờ Nghĩa sĩ ở Bình Hồ. Đến cuối thế kỷ 18 đền bị cháy, sau cơn binh lửa vua Gia Long lại có sắc phong, năm Kỷ Tị (1869) nhân dân trùng tu lại đền, các quan viên địa phương và những người hảo tâm quyên góp dựng thêm ngôi Trung điện và ngôi Thượng điện cũng được sửa sang thêm. Cả hai toà đều được lợp ngói âm dương, cổng đền xây hai cột trụ biểu cao, phía trong có hai tấm bia đá. Trong  toà đền, ngoài kiệu hương án và nhiều đồ tự khí còn có các biển gỗ khắc thơ “ngự chế” nhiều đối liễn của dân địa phương, quan chức và nhà khoa bảng.

Di tích đền Nguyễn Biểu nằm trên núi Lam Thành - là một di tích lịch sử danh thắng nổi tiếng, có vị trí đẹp, cảnh sông uốn, núi chầu, đã tạo cho nơi đây một vùng non nước mây trời hùng vĩ, là điểm giao hoà với trời đất, là nơi khí thiêng hội tụ. Di tích đã tồn tại hàng trăm năm nhờ ý thức bảo vệ và giữ gìn của nhân dân. Kiến trúc di tích tuy không đồ sộ nhưng vẫn giữ được đầy đủ các công trình như: tam quan, nhà hóa vàng, nhà Bái đường và hai nhà hậu cung, tạo thành một quần thể kiến trúc liên kết chặt chẽ trên một mặt bằng không gian vừa phải. Kết cấu kiến trúc tương đối cổ kính với nhiều mảnh chạm trang trí đẹp, nhiều hiện vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật kiến trúc cao như: mảng chạm 2 vì kèo đầu đốc phía trước hai nhà mái đường, long ngai bài vị, lư hương bằng đất nung, biển gỗ, đại tự, câu đối,…

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử dưới sự tác động của thiên nhiên, chiến tranh và con người di tích đã bị xuống cấp, năm 2009 chính quyền địa phương cùng nhân dân xã Hưng Lam đã công đức tu sửa để di tích được khang trang, sạch đẹp như hôm nay. Năm 2009 đền Nguyễn Biểu đã được UBND tỉnh Nghệ An ra quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa, đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Đó không chỉ là vinh dự cho nhân dân xã Hưng Lam, mà là của cả Đảng bộ và nhân dân huyện nhà. Hướng tới kỷ niệm 600 năm ngày mất Nguyễn Biểu là dịp để chúng ta nhìn lại và tự hào về mảnh đất mình sinh ra, với những tên xóm, tên làng, tên người đã góp phần tạo nên truyền thống lịch sử, văn hoá tốt đẹp.

Trước năm 1945, lễ hội đền Nguyễn Biểu được tổ chức 3 năm một lần vào ngày mất của Đức Thánh Nghĩa Vương Nguyễn Biểu do Tổng Phù Long và Làng Hưng Nhân tổ chức, sắc được rước từ đền Nguyễn Biểu về đình làng Hưng Nhân làm lễ, rồi rước sắc xuống đền Dưới rồi vòng về yên vị tại Đền và tiến hành lễ đại tế. Theo lời kể của nhân dân địa phương, ngày tế Ngài thường có mưa, mây đen đầy trời, chớp lòe sấm động và ai cũng tin là uy linh của Ngài có thể chuyển trời động đất. Trong ngày đại tế người người về đây thắp nén hương thơm cầu mong thần thánh phù hộ độ trì cho sức khỏe, yên vui và thịnh vượng.

Sau lễ đại tế, xung quanh đền còn tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống như: đua thuyền, chọi gà, đấu vật, chạy thi, chơi đu,…Ngoài lễ hội chính hàng năm tại di tích còn diễn ra các ngày lễ thường tân vào tháng tư, lễ thay áo vào 30/6, ngày 15/1 và 15/8.( http://hungnguyen.gov.vn/)

4.13. Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê Hà Nội và ở Côn Sơn Hải Dương

Nguyễn Trãi (1380 – 19 tháng 9 năm 1442), quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí LinhHải Dương). Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán

Thân phụ ông là  một danh sỹ nổi tiếng đương thời, đến học tập, lập nghiệp ở làng Ngọc ổi, huyện Thượng Phúc, nay là xã  Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, trở thành vị tổ đầu họ Nguyễn Nhị Khê sau này.

Trong sự nghiệp bình Ngô, Nguyễn Trãi giữ vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến lớn lao trong việc đề ra đường lối cứu nước, phò tá Lê Lợi trong trù hoạch mưu lược đưa cuộc khởi nghĩa phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng trên quy mô cả nước. Nguyễn Trãi còn được Lê Lợi giao cho trọng trách tổ chức và chỉ đạo cuộc đấu tranh địch vận "ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất" dịch là (ta đánh bằng mưu nên đánh vào lòng người khiến không đánh mà chúng phải khuất phục). Vào giai đoạn kết thúc chiến tranh, Nguyễn Trãi là người đảm đương cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao. Ông là người soạn thảo Văn " Hội thề Đông Quan" và viết bài "Bình Ngô đại cáo". Đây là một bản tuyên ngôn độc lập, áng thiên cổ hùng văn bất hủ, bản tổng kết tuyệt vời về cuộc chiến tranh chống giặc Minh và toàn bộ lịch sử Việt Nam cho đến lúc đó. Đến triều nhà Lê, Nguyễn Trãi lại đem tài sức ra phò vua, giúp dân, dựng nước. Ông được phong tước Quan phục hầu, giữ chức Nhập nội hành khiển, Thượng thư bộ lại, kiêm coi công việc Viện khu mật, có lúc giữ chức Trung thư, coi việc Môn hạ sảnh và Tam quán.

Với những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong quá trình cứu nước và dựng nước, lịch sử Việt Nam đã tôn vinh Nguyễn Trãi là anh hùng cứu nước vĩ đại, nhà tư tưởng, chính trị, nhà chiến lược quân sự, nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, nhà địa lý... Ông đã cùng với Lê Lợi lập nên thắng lợi của sự nghiệp Bình Ngô, cứu nước cứu dân khỏi họa đô hộ và đồng hóa của ngoại bang. Trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước, ông cũng có nhiều cống hiến to lớn nhưng gặp rất nhiều gian nan, khó khăn, không thể thực hiện hết hoài bão và lý tưởng cao đẹp của mình. Dù cuối cùng cuộc đời kết thúc bằng một bi kịch đau xót, nhưng Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử và hậu thế một tấm gương sáng về phẩm giá một người trí thức trọn đời vì nước vì dân, đấu tranh không biết mệt mỏi cho độc lập dân tộc và hòa hiếu với lân bang, cho một đất nước giàu mạnh có vua sáng tôi hiền, có cuộc sống ấm no cho mọi người, và một sự nghiệp văn hóa đồ sộ với biết bao trước tác trên nhiều lĩnh vực phản chiếu lẽ sống, nhân cách và tài năng sáng tạo của ông. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hoá của Việt Nam và thế giới

Đền thờ Nguyễn Trãi, tại xã Nhị Khê, huyện Thường Tín Hà Nội từ lâu đã là địa chỉ đỏ để người dân Thủ đô đến thăm, viếng mỗi độ xuân đến, tết về. Nơi đây không chỉ lưu giữ những giá trị văn hóa lịch sử của Người anh hùng, danh nhân văn hóa Thế giới Nguyễn Trãi, mà còn là nơi giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ những truyền thống tốt đẹp về lịch sử hào hùng của cha ông một thời.

Hiện nay, quần thể di tích Nguễn Trãi gồm nhiều hạng mục như ngôi Mộ Tổ, tương truyền do một vị tiền bối của dòng họ thiên di từ Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương chuyển về, đặt tại nơi đắc địa, huyệt phát tích khoa bảng; Khu Trại Ổi - Ao Huê tương truyền là nơi cụ Nguyễn Phi Khanh mở trường dạy học từ năm 1387 đến 1400. Khu văn chỉ, là nơi đặt bia đá ghi danh các vị khoa bảng của làng trong đó có tên và tước vị của 2 cha con Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Khanh. Ngôi đền thờ do vua Lê Thánh Tông sau khi minh oan đã cho xây dựng để thờ phụng và tưởng niệm Nguyễn Trãi; di tích đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch ra quyết định  xếp hạng di tích cấp quốc gia.

 Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhận xét "Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc". Còn đối với Đại tướng Võ Nguyễn Giáp: Nguyễn Trãi là tấm kính hội tụ những ánh hào quang của quá khứ, là tiêu điểm phản ánh của cả thời kỳ lịch sử quan trọng của đất nước, là sao Khuê tỏa sáng soi đường cho đất nước phát triển tương lai của dân tộc. Với Nguyễn Trãi, nền văn hiến của Đại Việt đã vươn lên một tầm cao mới...( http://www.hanoi.gov.vn/)

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn

Đền thờ Nguyễn Trãi được khởi công xây dựng lại ngày 14-12-2000, trên khuôn viên đất rộng gần 10.000m2, tại chân núi Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ bà Trần thị Thái, thân mẫu của Nguyễn Trãi.

Phía bên phải là dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền và đem cái mát lành, êm dịu, tươi tốt cho cả một vùng suốt chiều dài dòng suối chẩy qua.

 Công trình gồm các hạng mục:

  Đền thờ chính, hai nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn Ngoại, Nhà Bia, Am hoá vàng, cầu vào cổng chính, cầu qua suối Côn Sơn theo kiểu thượng gia hạ kiều để lên Thạch Bàn, nhà từ đền, hệ thống sân vườn, đường cấp thoát nước ...

  Ngôi đền chính tưa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là dãy núi An Lạc đã tạo lên thế núi lớp lớp điệp trùng.

   Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình trọng điểm nằm trong quần thể khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc,  kiến trúc theo truyền thống và rất độc đáo ; với một nguồn  lớn kinh phí  cùng với những người có tâm đức, các Nghệ nhân và những người thợ khéo tay, cần mẫn lao động hơn 2.500 ngày để có được công trình hôm nay, thoả mãn cao nhất nhu cầu du lịch gắn với lịch sử và tâm linh của các thế hệ mai sau  

Tại gian chánh điện bức tượng Nguyễn Trãi bằng đồng cao 1,4m nặng 600kg, được lấy mẫu từ bức họa trong nhà thờ họ Nguyễn ở Nhị Khê, đã thể hiện khá thành công thần thái một nhân tài kiệt xuất. Tại đây còn có nhiều bức đại tự và câu đối nói lên niềm tự hào và tri ân của các thế hệ đối với công đức lớn lao của Nguyễn Trãi

Nhắc tới Côn Sơn, không thể không nhắc đến Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã hòa mình vào Côn Sơn. Năm nay, kỷ niệm 570 năm ngày mất Nguyễn Trãi, Ban Tổ chức lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc lần đầu tiên đưa nghi thức rước văn từ nhà tổ chùa Côn Sơn lên đền thờ Nguyễn Trãi vào chương trình lễ hội. Lễ rước và lễ tế được tổ chức trang trọng, theo nghi lễ truyền thống vào ngày 30-9 (15-8 âm lịch). Cùng với đó là đêm thơ Côn Sơn với nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi viết về Côn Sơn, thơ viết về Côn Sơn, viết về Nguyễn Trãi như những nén tâm nhang tưởng nhớ vị anh hùng - thi sĩ vĩ đại một thời gắn bó với Côn Sơn. 

4.14. Đền thờ Nguyễn Lý 

Nguyễn Lý (阮理, ? - 1445) là tướng quân Lam Sơn, công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là người thôn Dao Xá, huyện Thủy Nguyên – nay là xã Xuân Lamhuyện Thọ XuânThanh Hóa. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ. Nguyễn Lý được phong làm nhập nội tư mã, Suy trung tán trị Hiệp mưu công thần. Ông được cải sang họ Lê của vua.

Năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc bảng tên 93 công thần, tên ông đứng hàng thứ 6, được phong làm Hương thượng hầu.( vi.wikipedia.org)

Ngày 20/6/1445, Nguyễn Lý qua đời. Vua Lê Nhân Tông ban tên thụy là Cương Nghị, biểu dương đức tính cứng rắn, nghị lực của ông và có sắc cho dựng đền thờ ở Lâm La. Lăng mộ của Nguyễn Lý được táng ở Cốc Xá, làng Dựng Tú, Lương Giang (nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa). Năm Giáp Thìn (1484), vua Lê Thánh Tông truy phong cho ông làm “Thái sư, Dụ Quận công”, sau lại gia thăng “Dụ Quốc công”. Các đời vua Lê về sau đều phong làm “Trung đẳng Phúc thần Đại vương”.( baohatinh.vn)

4.15. Đền thờ Nguyễn Chích

Nguyễn Chích (阮隻) hay Nguyễn Chính (13821448) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh HóaViệt Nam

Khu di tích lịch sử Nguyễn Chích thuộc làng Vạn Lộc- xã Đông Ninh, cách trung tâm huyện khoảng 8 km về phía Tây Nam là di  tích lịch sử văn hoá, nơi thờ tự danh tướng Nguyễn Chích

Di tích lịch sử Nguyễn Chích bao gồm : mộ, bia đá và đền thờ Nguyễn Chích. Nằm Trong khuôn viên hơn 748m2 đền thờ Nguyễn Chích được bố trí theo cột dọc, từ đường hướng đông nam, trước có đường làng, ao cá. Chính giữa có nghi môn, từ đường là ngôi nhà ba gian xây hai hồi trước sau không có cửa, tiếp dó là ngôi chính tẩm  là ngôi nhà ba gian.Nhưng qua thời gian, đền thờ đã bị mai một và mất đi những nét vốn có của nó.

Di tích Nguyễn Chích ở làng Vạn Lộc, xã Đông Ninh đuợc nhà nước công nhận, xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1992. Hiện nay, huyện Đông Sơn nói chung và xã Đông Ninh nói riêng đã và đang tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền nhằm quảng bá hình ảnh, giá trị lịch sử, văn hoá nổi bật của đền thờ Nguyễn Chích, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. (http://dongson.gov.vn/).

4.16. Đền thờ Nguyễn Xí ở Nghi Lộc, Nghệ An

Nguyễn Xí (chữ Hán: 阮熾; 1396-1465) là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương Giánhuyện Nghi XuânHà TĩnhViệt Nam

Đền thờ Nguyễn Xí, một vị đại thần dưới bốn triều vua: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, làm phụ chính cho hai vua: Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. 

Đền được xây dựng trên một khu đất cao ráo, hơi tách riêng với khu dân cư. Hiện nay,  diện tích của đền gồm khu vực I (phần đền thờ) dài 137 mét, rộng 61 mét. Khu vực 11 (phần đất trồng cây ăn quả chung quanh đền dài 184 mét, rộng 96 mét). Khu đền, mặt trước hướng về phương nam. Mặt sau là phương bắc, có một quần thể núi non gồm núi Mão, núi Gươm, núi Cồn Thông, núi Voi là điểm tựa, trông thật hùng vĩ và khoảng đạt Riêng núi Cờ nằm phía đông, xưa có tượng đá thần đồng, cùng góp phần tăng thêm vẽ hùng vĩ. Cách đặt tên núi ờ đây dễ thường là có sau khi có sự nghiệp hiểm hách của Nguyễn Xí.

Đã có nhiều cách gọi tên khu đền. Gọi theo chữ Hán là Cương Quốc Công Từ (đền thờ Cương Quốc Công). Gọi theo tên Nôm là đền Nguyễn Xí. Dân gian còn quen gọi là nhà thờ họ Nguyễn Đình. Khu đền được khởi công theo lệnh của Vua Lê Thánh Tông vào năm (1467) tức là hai năm sau khi Nguyên Xí qua đời (1465). Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, đền thờ Nguyễn Xí đã qua nhiều lần trùng tu, hiện nay khu đền gồm có:

I. Khu vực  “Hoa biểu” với:

1. Bảng hổ: Cao 1,2 m, dày 0,25, dài 2 m. Xây bằng gạch đá và vôi vữa. Trên mặt bảng có hình một con hổ đắp nổi trong tư thế ngồi., hai chân trước chụm vào nhau trên một món đá, đầu ngẩng cao, mắt nhìn tới phía trước. Thờ hổ là chuyện phổ biến với nhiều đền đài. Nhưng với đền thờ Cương Quốc Công, còn gắn với truyền thuyết hổ lầm mà vồ chết vị thân phụ của Nguyễn Xí như đã nói.

2. Tứ trụ: Xây ở ngay phía sau bảng hổ, gồm hai trụ chính cách nhau một lối đi khoảng 1,50 m và hai trụ nhỏ nằm hai bên trụ chính, được bố trí cần đối Giữa trụ chính và trụ nhỏ mỗi bên đều có đắp nối với nhau bằng một bức tường trên đó có đắp hình ngựa trong tư thế đứng thoải mái.

II. Cầu ao:

Qua khu khu vực Hoa biểu, đi vào trong chừng 30 m là khu cầu ao. Cầu bắc qua ao 3 mét, làm bằng xí măng cất thép, có trụ cao 1,2 mét hình cấu vồng, có lan can. Dưới cầu, hai ao bán nguyệt thông nhau, mỗi ao dài 12 mét, rộng 8 mét, sâu 1,2 mét. Ngày trước có sen vào mùa hạ, sen nở hoa thơm ngát, trên bờ trồng dừa, trúc, cao, trông rất ngoạn mục nhưng sau đó cảnh tượng không còn như trước. Năm 1999, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Nghệ An đã đầu tư kinh phí tu tạo lại trông khang trang hơn 

III. Tam quan:

Toàn bộ Nghi Môn tam quan nằm trên một diện tích: Dài 1 6 mét, rộng 9 mét gồm:

1. Cột đèn: (Còn gọi là đại đăng trụ, hoặc thiền trụ ngũ sắc đăng), nằm phía trước và hái bên cửa tam quan (3 cửa) cao 12 mét bao gồm bệ vuông, thân cột, bệ vuông thót đáy và trên cùng là bộ lồng đèn, tất cả đều xây bằng xi măng. Thân cột bên trong trống rỗng, có thể trèo bên trong để thắp đèn ngũ sắc ở bộ lồng đèn ở trên trong những ngày ngày lễ trông thích mắt vào những buổi đêm nơi thôn dã mà thủa xưa, tại khu đền chung quanh còn có cây cối rập rạp. 

2. Tả môn và hữu môn: Được nối liền từ phía trong của hai cột đèn bởi hệ thống tường bao, mỗi bên dài 4 mét. Tả môn và hữu môn đều được xây dựng theo cấu trúc chồng diêm, mỗi cửa dài 2,40 m, rộng 1,60 mét, cao 4,50 mét. Tầng dưới nhìn tổng thể có hình dáng như 4 cột được nối liền với nhau t bởi hai bờ tường hai đầu. Cửa ra vào được xây theo kiểu vòm cuốn cao 2,20m, rộng 1 mét.

3. Chính môn: Nằm giữa tả môn & hữu môn và nối liền với tả hưu môn bằng tường bao gấp khúc hình chữ chi. Chính môn cũng cấu trúc theo hình chồng diêm 3 tầng cao 8 m, rộng 3 mét, dài 4 mét: Táng dưới có 4 cột trụ xây liền tường và cũng theo hình vòm cuốn cao 2,50 mét, rộng 2,95 mét. Ngày xưa còn có cửa lim đóng mở. Tầng 2 cao 2 mét cũng tạo dáng giống tầng 1, cũng theo kiểu vòm cuốn. Phía trong của lầu tầng có đặt bàn thờ rộng 0,80 mét, dài 0,85 mét. Lầu trên cũng là bộ phận cổ diêm: Cao 1,2 mét dài 1,4 mét, rộng 0,80 mét, có mái và bờ nóc Ở trên. Nghệ thuật trang trí điêu khắc tại chính môn rất phong phú và dẹp mắt. Ở hai tường bao nối liền với tả môn và hữu môn, có đắp một con voi trong tư thế chầu vào trong đầu ngẩng cao, vòi cong xuống, mập và khoẻ trên lưng có bành voi. Ở hệ thống tường bao nối liền cửa chính lại có đắp hình ngựa, cũng mỗi bên một con cao 1,20 mét, dài 1,30 mét trong tư thế đứng và cũng hướng vào trong có mang yên cương. Ở hai bên mảng tường ngay tại cửa chính còn đắp hình hai người nghĩa quân, tay chống nạnh hai thanh gươm tuất trần, đầu đội mũ, mình mặc áo giáp, chân đi hài.

Phía trên hai mảng tường cũng có đắp ngựa và đắp tượng sư tử trong tư thế nằm rình mồi, đầu hướng ra phía trước, bốn chân co lại, mặt to, mắt lồi, mũi nở, miệng rộng để lộ hàm răng dự tợn. Phía trước hai bên chính môn đắp hình hai con rồng đang trong tư thế cuộn mình từ trên xuống dưới, đầu ngẩng cao và cùng chầu vào giữa có mây xoắn làm nền. Phía trên cửa vòm cuốn đắp hai con chim phượng đang hướng đầu vào một bức cuốn thư với tư thế ngẩng cao đầu Phía hai bên cửa vòm cuốn của tầng lầu còn có hai con hạc đứng trên lưng rùa, miệng ngậm cành hoa hướng đầu vào giữa cửa. Phía trên cùng, ở chính giữa của tầng lầu là một biển hình chữ nhật có khắc 4 chữ Hán: THIÊN KHAI CẤM SẮC (trời mở sắc đẹp). Mặt phía sau cửa chính môn trang trí đơn giản hơn. Nhìn chung tam quan là một công trình nghệ thuật trang nghiêm mỹ lệ vào loại hiếm có trong các đền đài còn lại, không chỉ ở Nghệ An mà còn với nhiều địa phương khác.

IV. Khu chính điện:

Phía trong tam quan qua một cái sân rộng lát gạch là khu chính điện bao gồm:

l. Nhà bái đường: Có 3 gian chính và 2 gian phụ với 5 hàng cột dọc và 6 hàng cột ngang, gian chính giữa rộng 3mét, hai gian kề mỗi gian rộng 2,6 m, hai gian phụ môi gian rộng 2 mét. Hiên nhà rộng 1,6 mét. Bái đường làm bằng gồ lim. mít, dạ hương. Mái lợp ngói vẩy, hai đầu hồi là tường xây. Phía trước có hệ thống cửa gỗ lim và mít. Phía sau ăn thông vào trung điện. Trong bái đường có treo hoành phi, câu đối và cuốn thư. Ở gian chính giữa, có hai con hạc cao lớn đứng chầu hai bên .

2. Sân trung điện: Dài 7 mét, rộng 6 mét, lát gạch bát tràng, giữa sân có bể cạn và nhà đốt vàng. Hai bên bể 'cạn là bồn hoa. Bể cạn dài 1,4 mét, rộng 0,5 mét, cao 0,6 mét. Mặt ngoài thành bể có đắp nổi 4 loại cây: Tùng, cúc trúc, mai. Nhà đốt vàng nằm phía trong bể cạn, móng cao 0,2m, nhà rộng 0,9 m, dài im, cao 2 m, có 4 chân quì, có đắp 4 đầu rồng nâng đỡ có thêm hình mây soạn với ý là rồng đang lượn trong mây. Mặt ngoài cũng được trang trí các cây cảnh trong bộ tứ quí.

3. Gác chuông - Khánh: Được xây dựng ở hai bên tả hữu vu đương đối.

Hai gác nằm ngay sau cửa hai gian nhà hồi của bái đường và cũng cấu trúc theo kiểu chồng diêm 3 tầng, tầng dưới cao 2,2 mét, tầng giữa cao 1,6 mét, tầng trên cao 1,2 mét. Ở phần chính giữa của cửa vòm cuốn cả gác chuông và gác khánh đều có đắp 3 chữ Hán: Vạn tư niên (ở gác chuông), kinh hữu thổ (ở gác khánh). Việc xây dựng hai gác chuông và khánh Ở hai bên tả vu và hữu vu đã tôn thêm vẻ đẹp cân đối, hài hoà; trang nghiêm của khu chính diện.

4. Nhà Trung diện: Nằm giữa vị.trí trung tâm của khu di chính diện.

Nhà được xây dựng theo kiểu chồng điểm 3 tầng trông rất uy nghi, độc đáo. Nó có kích thước 5,50 x 5,50 , có nền cao hơn sân là 0,25 mét. Kết cấu nhà trung điện giống với kết cấu của Khuê văn các (gác Khuê Văn) thuộc Văn miếu Hà Nội. Việc trang trí bằng kiến trúc của nhà Trung điện cũng rất công phu, đầy sáng tạo. Bốn phía của tầng dưới có xây tường 'Liên hoa' và đều có lối ra vào. Tường cao 1,20 m. Trên mặt bằng của tầng dưới, phía trước có một án thư, tiếp đó là một giường thờ và trong cùng là một cái kiệu rống. hai bên phía trước án thư có 'Bát bảo' và bốn phía của Trung và điện (tầng dưới) đều có hệ thống y môn có giá trị nghệ thuật độc đáo về điêu khắc, chạm chỗ. Y môn phía trước dài 3 mét. Chiều cao hai bên gắn vào thân cột là 1,20 mét. Tất cả chạm thủng và sơn son thiếp vàng. Có hình chạm một cuốn thư, hai bên có hình chim phượng trong tư thế dang cánh bay cao giữa mây trời. Ở hai đai của hai bên y môn cũng có hình rồng cuộn mình từ dưới lên. Ở y môn tả hữu cũng có sự trang trí hấp dẫn. Có mặt ngũ phúc. Có  mặt con dơi ngậm chữ Hỷ. Có hoa lá, có hai con sóc trong tư thế ngồi thoải mái, đầu quay vào giữa. Đặc biệt với y môn chính diện thì có rất nhiều hoạ tiết. Có  hình mặt trời ở chính giữa và thấp thoáng phía sau mặt trời ở hai bên là những đám mây được cách điệu. Mặt trời còn có hình ảnh rồng cuộn dài ba khúc.

Ở tầng hai cũng trang trí y môn chạm lộng như tầng dưới nhưng khác về kích thước và đề tài trang trí. Ở đây có hoa lá, văn triện nối tiếp nhau trong một khoảng dài 1,60 mét. Có hai chim hạc đang chầu vào giữa. Phía trong tầng hai có đặt giường thờ trên có một án thư và một án hương bằng sứ. Trong hệ thống kiến trúc phong phú bề thế của đền thờ Cương Quốc Công, có lẽ cùng với tam quan, nhà Trung điện là một loại công trình có giá trị nghệ thuật nhất.

5. Nhà tả vu - hữu vu: Nằm cân đối hai bên nhà trung điện và sát mái với nó. Mỗi nhà rộng 3 mét, dài 9 mét, kết cấu giống nhau, gồm 3 gian, 2 hồi, 4 hàng cột ngang, 2 hàng cột dọc. Phía sau là tường. Phía trước thông với sân nhà Trung điện. Kết cấu nói chung đơn giản. Cả 3 gian của tả vu, hữu vu đều có khám thờ đặt trên giường thờ xây xi măng, mỗi giương cao nhét, rộng 2,20 mét, dài 2,50 mét. Nhà Tả vu và Hữu vu là nơi thờ 16 người con trai của Cương Quốc Công.

6. Nhà Thượng điện: Nằm trong cùng của hệ thống đền thờ. Có thềm nhà cao hơn cả. Cao 0,80 mét, dài 7 mét, rộng 6 mét, có 3 gian, gian giữa rộng 2,6 mét. Hai bên mỗi gian rộng 2,20 mét. Mái nhà Thượng điện và Trung điện sát kề nhau có máng nước chung . thuật chính diện của ba gian có 3 bức y môn cũng chạm thủng với hình 'Lưỡng long triều nguyệt' mặt hổ phù miệng ngậm chữ Hỷ, 2 chim phượng Ở hai bên trong tư thế đang bay, đầu hướng vào giữa... Bài văn trùng tu.... biên ký (1921) do quản tộc Nguyễn Huy Côn soạn và sách Levieux (An Tĩnh xưa) của người Pháp H.Le Brenton (Lơ Bờrờiông) đều ghi: Ở nhà Thượng điện, gian giữa thờ cụ Nguyễn Hội (thân phụ của Cương Quốc Công) và vợ, gian bên trái thờ cụ Nguyễn Biện (anh trai của Cương Quốc Công) và vợ, gian bên thờ Cương Quốc Công và vợ. Việc bố trí bàn thờ như trên là có từ bao đời nay. không thay đổi.

Trong đền còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị nghệ thuật như: Bia đá; Kiệu rồng; Hai con hạc (đứng trên lưng rùa); Hai bức cuốn thư sơn son thiếp vàng (1 ở Trung điện, 1 ở bái đường); Tượng hổ sư bằng gỗ mít, (đặt ở hai bên trước Thượng điện);Chuông đồng; Nhiều tế khí: (đồ thờ) hoặc bằng gỗ sơn son thiếp vàng, (như long ngai, thần chú, khám thờ, mâm cỗ bồng, cọc sáp, ống hương, mâm tiến tự hương án, trống...), hoặc bằng sứ, đất nung (như độc bình, bát hương, chén tống, bát sứ, (ra sứ hoa, bê đựng rượu...) hoặc bằng ngà (chén), hoặc bằng kim loại dư hương, hạp hương, tam sự, thất sự, chiêng...) hoặc bằng vải thêu (cờ ngũ hành, bức trướng đại có 4 chữ Trung nghĩa can đảm), hoặc bằng giấy (hai cuốn gia phả bằng chữ Hán); Câu đối, hoành phi, văn bia: (Riêng câu đối được khắc gỗ là rất nhiều, gần như tương đương với số cột chính của các nhà). Bức hoành phi ở chính giữa Trung điện gồm 3 chữ 'Nhạc giáng thần' (Khí thiêng của núi đã giáng vào vị thần này) là của vua Lê Thánh Tông ban cho.

Nằm chung trong quần thể di tích đền Nguyễn Xí, cách chừng 500 mét về phía Đông, còn hai ngôi mộ là của cụ Nguyễn Hội và Nguyễn Xí hiện vẫn giữ nguyên trạng thái đắp đất không xây gạch đá có từ bao đời nay. Riêng mộ Nguyễn Xí, có tài liệu cho biết cũng đã từng được vua Lê Thánh Tông ngự tứ mộ chí: ' Nam Việt Quốc, đặc ân khai quốc phủ Nghi đồng, Tam ty nhập nội, kiểm hiệu Thái sư Cương Quốc Công, tứ quốc tính Lê Công chí một”. 

Đền thờ Cương Quốc Công Nguyễn Xí quả là một khu di tích lịch sử - văn hoá nguy nga, trầm hùng đẹp đẽ thuộc loại hiếm, còn lại hiện nay trên đất Nghệ và đã được xếp hạng Di tích lịch sử - Văn hoá Quốc gia'  được công nhận theo QĐ số 34/VHQG ngày 10/01/1990. (nghiloc.nghean.gov.vn/).

Lễ hội đền Nguyễn Xí được tổ chức từ ngày 29 tháng giêng đến 2 tháng 2 âm lịchhàng năm

Đền ông Hoàng Mười - Nguyễn Xí là một ngôi đền cổ tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Ngôi đền được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1 ha ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên

Một sự tích được lưu truyền Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ AnHà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên ngã ba sông la,sông minh giang và sông Lam nơi linh từ mỏ Hạc. Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười.(Ông là một bậc Thiên Thần hiển linh tái thế Nhân thần theo truyền thuyết nên không có mộ)( http://vi.wikipedia.org/)

4.17. Đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh

 Đền thờ và mộ Nguyễn Tuấn Thiện còn có tên gọi Kim Quy linh từ (đền Kim Quy), Kim Quy Sơn thần chi mộ, đền cụ Quận - Lăng cụ Quận, phân bố trên một gò đất cao có tên chữ Kim Quy sơn hay gọi nôm là Động Quy, xưa thuộc làng Ninh Xá, nay thuộc xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

 Nguyễn Tuấn Thiện (1401-1494), người làng Phúc Đậu, xã Phúc Dương nay là xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, lại sớm mồ côi cha, lớn lên trong cảnh nước mất quê hương bị giặc Minh đô hộ áp bức bóc lột, ông đã nuôi chí diệt thù cứu nước giải phóng quê hương. Ông thành lập đội quân "Cốc Sơn", tập trung tất cả các trai tráng trong làng để bảo vệ xóm làng. Khi nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Đỗ Gia (Hương Sơn), Nguyễn Tuấn Thiện cùng với đội quân Cốc Sơn của mình phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc Minh với chiến thắng oanh liệt tại trận Khuất Giang (núi Nầm). Với chiến công đó, Lê lợi đã thu nộp đội quân Cốc Sơn thành nghĩa quân kháng chiến và cùng với Nguyễn Tuấn Thiện kết nghĩa anh em, cắt tóc, giết ngựa trắng ăn thề, nguyện một lòng diệt giặc cứu nước.

 Thời gian sau, Nguyễn Tuấn Thiện cùng với nghĩa quân Lam Sơn xây dựng doanh trại trên động Tiên Hoa, xây dựng căn cứ trên thành Lục Niên và phát triển lực lượng ra khắp vùng Hương Sơn và các nơi khác. Ông trở thành vị tướng lĩnh thân cận và tài nghệ của thủ lĩnh Lam Sơn, đóng góp rất lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc. Do có tài năng và nhiều công lao đánh giặc cứu nước Nguyễn Tuấn Thiện được phong làm Đô tổng quản phó Nguyên soái, được liệt vào hàng Khai quốc công thần tước Đại trí tự, được đổi quốc tính họ Lê - Lê Thiện.

 Nguyễn Tuấn Thiện mất năm 1494 an táng tại động Kim Quy, sau khi ông mất triều đình nhà Lê và con cháu của ông đã lập đền thờ tại khu vườn cũ nơi sinh thời và cũng là nơi ông sống cảnh điền viên những năm hưu trí. Về sau con cháu trong dòng họ đã chuyển đền thờ về đặt ngay trên động Kim Quy gần sát ngôi mộ của ông như hiện nay.

 Đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện gồm 2 toà nhà, kiến trúc theo kiểu chữ nhị (=), diện tích khoảng 3000 m2, cao hơn mặt ruộng 1,5m, xung quanh, trên khu gò trồng nhiều loại cây như bạch đàn, long não, xà cừ...Toà thượng điện gồm 3 gian tường xây bao quanh lợp ngói vảy, gỗ làm nhà hầu hết bằng mít và lim, bên trong là nơi đặt bàn thờ thần chủ và bức trướng gỗ sơn son thiếp vàng ghi phổ hệ và gia tước do Lê Lợi phong cho. Nhà bái đường nằm ở phía trước thượng điện làm bằng cột gỗ vuông, mái lợp ngói mới hiện đại và trong nhà bái đường có đặt “ Hòn đá buộc voi của Đức Hầu - Nguyễn Tuấn Thiện”.

 Phía sau đền thờ là mộ của ông, mộ đất có hình chóp, đường kính 7 m, cao khoảng 2m, nhìn vào như là một gò đất cao nổi lên sau đền thờ. Sau những năm tháng phụng sự Lê triều, về trí lão được triều đình cho chọn đất Ninh Xá để an trí, ông đã tự tìm cho mình đất an táng ở Kim Quy Sơn và ngôi mộ được giữ nguyên từ bấy đến giờ. Hàng năm đến ngày 18 tháng Giêng con cháu dòng họ cùng chính quyền địa phương đã tổ chức chu đáo ngày giỗ của ông và là dịp ôn lại truyền thống đánh giặc cứu nước của ông và các thế hệ tiếp nối sau này. (http://www.vietnamtourism.com.vn/). Đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện ở xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.( http://vi.wikipedia.org/).

4.18. Đền thờ Nguyễn Lỗi

Nguyễn Lỗi, một vị tướng tham gia nhiều trận đánh lớn trên đất huyện Đỗ Gia - Hương Sơn, lập căn cứ đánh giặc Minh vùng Nghệ Tĩnh, là 1 trong 18 chiến hữu cận thần của Lê Lợi có mặt trong hội thề Lũng Nhai. Sau ngày chiến thắng quân Minh xâm lược, ngày 5/3/1428 Lê Lợi ban biển ngạch công thần cho 93 người, Nguyễn Lỗi được xếp thứ 17 trong số 93 vị khai quốc công thần triều Lê, được ban quốc tính họ Lê. Ngày7 /11/1434 Đình thượng hầu, Thượng tướng quân Nguyễn Lỗi mất khi ông đang giữ chức vụ Tây đạo hành khiển - tả bộc xạ. Xét công lao của ông đối với sự nghiệp giúp dân cứu nước, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông vào hàng ngũ các công thần tiết nghĩa.

Đền thờ Nguyễn Lỗi nằm nép mình dưới chân núi Bạch Mã thuộc làng Bảo Thịnh xã Dương Trai huyện Hương Sơn, nay là xã Sơn Bình huyện Hương Sơn.

Đền thờ Nguyễn Lỗi được cấu trúc theo kiểu chữ Nhị (=)bao gồm 2 bộ phận chính là hạ điện và thượng điện. Hạ điện có kết cấu kiến trúc ngang kiểu chữ nhất, gồm 3 gian 2 hồi xây tường bít đốc. Mái được lợp ngói âm dương, trên nóc mái có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Kết cấu nội thất nhà được kiến trúc theo kiểu tứ trụ “nội kẻ cầu, ngoại kẻ mái” rất phổ biến trong các làng quê Nghệ Tĩnh. Thượng điện kết cấu gồm 3 gian 2 hồi, xung quanh xây tường bít đốc, mái lợp ngói âm dương, trên đỉnh nóc mái ở chính giữa được đắp nổi hình hổ phù đội mặt trời, 2 đầu là hình đầu rồng được đắp nổi bằng vôi vữa và các mảnh sành sứ cố ghép lại. Nội thất có các bàn thờ Nguyễn Lỗi và hậu duệ của ông, có đầy đủ các đồ thờ theo truyền thống.( http://www.vietnamtourism.com.vn/). Đây là di tích danh nhân lịch sử, niên đại TK 15, được xếp hạng 28/12/2001.

4.19. Đền thờ Nguyễn Đức Trung

Nguyễn Đức Trung (1407-1477), hay 'Nguyễn Văn Thường, danh thần thời Hậu Lê, người được xem là cao tổ của Nguyễn Đức. Ông là Thụy Quận công có tên húy là Nguyễn Đức Trung, tự Phấn Cường, thụy Đức Nhân, quê ở xã Quế Ổ, tổng Đại Toán, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Ông có tài chỉ huy quận đội, trong những năm niên hiệu Thịnh Đức đời Lê, phụng mệnh thảo phạt giặc ở Cao Bằng, Hoa Sơn, Thất Nguyên, không bọn nào mà không đánh thắng. Được tiến phong Đô Đốc Thụy Quận công”.

Gia tộc Nguyễn Đức xây dựng đền thờ riêng Thụy Quận công ở Quế Ổ, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ở chùa Mộ Đạo, kề bên xã Chi Lăng cũng có bia đá ghi khắc công đức của Thụy Quận công. Thác bản bia đá này hiện lưu trữ ở Viện Hán Nôm, ký hiệu N5085-5086*.

 4.20. Đền thờ Nguyễn Trực (chữ Hán: 阮直, 1417 - 1474), hiệu là Hu Liêu, tự là Công Dĩnh, quê xã Bối Khê huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Ông đỗ đầu trong số đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (tức trạng nguyên) năm 1442 đời vua Lê Thái Tông.

Năm 1444, đời vua Lê Nhân Tông, ông được bổ làm Trực học sĩ Viện hàn lâm, kiêm Vũ kỵ úy. Ít lâu sau ông được thăng làm An phủ sứ Nam Sách. Khi trở về triều, Nguyễn Trực được bổ nhiệm làm Thị giảng, kiêm Ngự tiền học sinh cục thứ hai Viện Hàn lâm. Sau đó ông được thăng tới chức Trung thư thị lang ở sảnh Trung thư.

Năm 1445, ông được phong Thiếu trung khanh đại phu Ngự sử đài Ngự sử thị Đô úy, ông từ chối, vua Lê Nhân Tông phải ra sắc dụ tới 3 lần ông mới chịu nhận.

Ngoài ra, trong sự nghiệp của mình, Nguyễn Trực còn từng giữ các chức: Thự trung thư lệnh, Tri tam quán sự, đặc thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc tử giám Thăng Long

Ông là lưỡng quốc trạng nguyên. Theo bài viết trên báo Bình Dương thì năm 1457, vua Lê Nhân Tông triệu ông vào triều để tiếp sứ thần nhà Minh, là Hoàng Gián. Nhờ đối đáp tài tình ông khiến sứ giả nhà Minh khâm phục. Sau đó ông được cử đi sứ, cùng phó sứ là Trịnh Khiết Tường (có thể làTrịnh Thiết Trường), sang kinh đô nhà Minh. Sang tới Bắc Kinh, gặp kỳ thi Đình, vì muốn cho nhà Minh biết tài học của người Việt, ông đã ứng thi và đỗ Trạng nguyên nhà Minh, trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên. Trịnh Khiết Tường (hay Thiết Trường đỗ Bảng nhãn triều Minh. Trở về nước cả ông và phó sứ Tường (hay Trường) đều được phong chức Thượng thư

Đền thờ ông  nằm trong địa phận thôn Đĩnh Tú, xã Cấn Hữu, trong một không gian rộng, riêng khuôn viên đền thì chỉ trên 500m2  nhưn xung quanh là đình, chùa và trước mặt là hồ nước rộng khiến cho du khách cảm thấy sự thoáng đãng của một không gian đẹp.

 Đây là một công trình kiến trúc đặc biệt vì có đến hai ngôi nhà nằm song song nhưg hai phía hai dĩ ở đầu hồi lại được xây nối với nhau tạo thành tổng thể “nội công ngoại quốc” (xây bao kín, tạo thành hình vuông). Mỗi nhà gồm 3 gian 2 dĩ, kiến trúc giống nhau. Mỗi gian rộng 2,3m; lòng nhà sâu 5,7m; tàu trước mặt nhà cao 2,1m; nóc cao 3,7m; xà bẩy chỉ cao 1,9m. Hậu cung nằm ở gian giữa, có sàn gỗ cao 0,9m, trong hậu cung có ngai và ban thờ cụ Trạng. Gian bên trái sau năm 1954 có làm thêm ban thờ Tiến sĩ Đỗ Hiệu (1474-?, quê Đĩnh Tú, đỗ tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất, 1502, khi 28 tuổi), chuyển từ quán xóm chùa vào. Mái nhà có bốn góc uốn hình mui đao cong lợp, lợp ngói ri. Dù đã trải qua hàng trăm năm nhưng hầu hết các chi tiết gỗ của công trình vẫn còn nguyên vẹn. Trước đây, đền có 12 đạo sắc phong của các triều đình phong kiến nhưng trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), khi thực hiện tiêu thổ kháng chiến thì tất cả các đồ thờ tự và sắc phong đều bị chuyển đi và thất lạc. Năm 1993, đền được tu bổ lớn.

 Đây còn là một công trình kiến trúc quý hiếm vì nó liên quan đến Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực (1417-1473), tự Công Dĩnh, hiệu Vu Liêu, quê gốc ở thôn Bối Khê, xã Tam Hưng (Thanh Oai, Hà Nội) , sinh ra và lớn lên ở Nghĩa Bang (nay là thôn Văn Khê, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, Hà Nội).

 Đền thờ đã được UBND tỉnh Hà Tây ra quyết định số 172/QĐ-UB năm 2002 công nhận là di tích Lịch sử -Văn hóa (http://quocoai.hanoi.gov.vn/)

4.21. Đền thờ Nguyễn Sư Hồi ở Vạn Lộc ở xã  Nghi Tân - Thị xã Cửa Lò, Nghệ An

Đền Vạn Lộc ở xã  Nghi Tân - Thị xã Cửa Lò, Nghệ An thờ Quận công Đô đốc trấn thủ thập nhị hải môn Nguyễn Sư Hồi nằm ở phường Nghi Tân - Thị xã Cửa Lò, là di tích lịch sử được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng quốc gia năm 1991 theo Quyết định số 1075/QĐ-BVHTT ngày 14/6/1991. Đền được nhân dân xây dựng lên để thờ Phó mã Thái úy Quận công Đô đốc trấn thủ thập nhị hải môn Nguyễn Sư Hồi - Người có công chiêu dân, lập ấp, xây dựng nên làng Vạn Lộc (Nguyễn Sư Hồi đặt tên làng Vạn Lộc với ý nghĩa “Muôn lộc đổ về đây”, là vùng đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa và trở thành một vùng đất văn hiến của xứ Nghệ).

Nguyễn Sư Hồi sinh ngày 26/5/1444 ở làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc (nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc). Ông sinh ra trong một gia đình làm quan to, trong bối cảnh đất nước hòa bình, gia đình có nhiều thuận lợi nên Nguyễn Sư Hồi đã bộc lộ tư chất thông minh, nhanh nhẹn. Hơn thế ông lại được dạy dỗ đến nơi đến chốn nên sớm trưởng thành và biểu lộ nhiều tài năng văn võ. Ở tuổi đến trường, ông đã nổi tiếng với những món võ như tay không đấu kiếm, lăn chiêng, cưỡi ngựa, phi lao cũng như các môn thực hành bày binh bố trận… chuẩn bị đánh giặc ở đất Thăng Long thời bấy giờ và được làm Đô đốc khi còn rất trẻ (năm ông 19 tuổi).

Nguyễn Sư Hồi vì có công cùng với cha (là Cương Quốc công Nguyễn Xí) và các quan trung thành đã có nhiều kế sách để diệt trừ bọn gian thần hại dân, hại nước và ông đã được phong chức “Nhập nội Thái úy, tham dự triều chính, Phó mã Đô úy” đồng thời cấp cho ông 130 mẫu ruộng thế nghiệp.

Năm 1465, Nguyễn Xí mất. Thương tiếc vô hạn con người trung quân ái quốc, sống hết mình vì nghĩa cả, vua Lê Thánh Tông cho Nguyễn Sư Hồi đưa thi hài cha về quê an táng và lập đền thờ tại quê nhà. Thực hiện theo kế sách của triều đình và di huấn của cha, sau mãn tang cha, Nguyễn Sư Hồi vâng lệnh Vua đi trấn thủ vùng ven biển Nghệ An, lấy Cửa Xá làm trung tâm xây dựng đồn lũy, khai khẩn đất hoang, chiêu dân lập ấp lập nên làng xóm và đồng thời ông chiêu mộ binh lính lập nên được một đội quân hùng mạnh tại vùng Cửa Xá này. Với lòng trung quân ái quốc và tài thao lược về quân sự, Nguyễn Sư Hồi đã cùng binh lính giữ vững cả vùng biển Nghệ An yên ổn. Sau khi Chiêu trưng vương Lê Khôi mất, ông được phong làm “Trấn thủ thập nhị hải môn” (trấn thủ 12 cửa biển từ Sầm Sơn cho đến Cửa Tùng). Do làm việc nhiều, dãi nắng dầm sương nên năm 1506, Nguyễn Sư Hồi lâm bệnh nặng và mất tại Cửa Xá. Tuy ông mất đi nhưng tư tưởng và công lao của ông còn sống mãi với quê hương, đất nước.

Dẹp giặc, yên dân, nghĩa khí ngàn năm ghi nhớ

Khai cơ, lập nghiệp, công ơn muôn thuở lưu truyền

Nguyên xưa đền Vạn Lộc đặt ở Lum Cò (nay là bến cảng số 1) đền được xây trên một mặt bằng kiểu “Tiền miếu hậu mộ” (tức là đền phía trước mộ phía sau). Đền lúc đó gồm ba tòa: Hạ - Trung – Thượng. Đền nằm giữa vườn cây rậm rạp, có nhiều cò, vạc, quạ… đến đây trú ngụ và làm tổ. Đến thời Nguyễn do mưa gió, bão lụt, do biến động lịch sử nên Đền bị hư hỏng mất nhà Thượng điện. Hai ngôi nhà còn lại với nhiều đồ thờ được chuyền về vị trí mới gần đền cha con đức Quận công cho đến ngày nay. Nay đền Vạn Lộc được xây dựng trên một diện tích 270m2, ở vị trí đẹp, Đền nằm sát phía Nam hạ lưu sông Xá hay còn gọi là Cửa Xá. Đứng trên sân Đền nhìn ra phía trước là dòng sông trong xanh với những con thuyền ra khơi, xa hơn một chút là dãy núi Lô Sơn, chếch về phía Đông có núi Long Sơn, phía Tây là núi Kiếm, phía Đông Nam là khu nghỉ mát Cửa Lò. Nhìn tổng thể Đền được bao bọc bởi núi, sông, biển nên có một vị trí cảnh quan thật lý tưởng “nhân sơn quy tụ” vừa hợp với thuyết phong thủy, vừa linh thiêng.( http://khachsancualo24h.com/)

Lễ hội đền Vạn Lộc

 Tưng bừng trong không khí náo nức của dòng người trẩy hội, trong không khí sum vầy của các gia đình, dòng họ ngày tết Nguyên Tiêu, những tiếng trống khai hội đã vang lên, nhộn nhịp khắp một miền quê nơi cửa biển, thúc dục người dân nơi đây về với lễ hội đền Vạn Lộc - một lễ hội truyền thống của vùng sông nước Vạn Lộc nói riêng, nhân dân Cửa Lò nói chung để tưởng nhớ tới người đã khai sinh ra mảnh đất này - Thái úy Quận Công Nguyễn Sư Hồi. Tuy tiếng trống khai hội bắt đầu từ ngày 16 tháng Giêng âm lịch nhưng trên thực tế lễ hội đã bắt đầu diễn ra từ ngày 11 tháng giêng và kéo dài đến hết ngày 16 với các bước hành lễ rất bài bản và linh thiêng trong phần lễ và nhiều trò chơi dân gian đặc sắc mang nét riêng của vùng sông nước trong phần hội.

 Phần lễ được chia làm 4 phần: Lễ tẩy trần, lễ yết cáo, lễ rước và lễ Đại tế hay còn gọi là lễ kỳ phúc kỳ yên.

 Lễ tẩy trần: Được tiến hành từ tối ngày 11 tháng Giêng âm lịch, với nội dung xin được mang các đồ tế khí của đền ra chùi rửa để chuẩn bị cho lễ rước vào ngày 16 tháng Giêng.

 Lễ yết cáo được tổ chức vào tối ngày 15 tháng Giêng, nhằm báo với Nguyễn Sư Hồi và các vị thần linh được thờ tụng trong đền về công việc chuẩn bị và các bước tiến hành của lễ rước sẽ được thực hiện vào ngày hôm sau. Các lễ này, đều diễn ra tại đền Vạn Lộc với nghi thức hết sức trọng thể, trang nghiêm. Những người đang chịu tang không được dự lễ; trong ngày lễ, chủ tế không được làm chuyện phòng the và các việc uế tạp. Những điều cấm kỵ ấy còn giữ mãi đến tận bây giờ.( http://dulichcualo.com.vn/)

4.22. Đền Cổ Đà thờ Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục

Ngôi đền ở thôn Cổ Đà, xã Yên Phú, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đền thờ Nguyễn Phục, tức Đông Hải Đại Vương. Ông vốn người làng Đoàn Lâm, xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.  Ông làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tông, chức Tham nghị xứ Thanh Hoá. Năm 1470, vua Lê Thánh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành, phong Nguyễn Phục chức Đốc lương đô chỉ huy, có nhiệm vụ vận chuyển lương thực ra chiến trường.

Đoàn thuyền của ông đến cửa Thần Phù thị gặp sóng to, gío lớn, không qua được. Lỡ hạn kỳ, ông phải chịu tội chết chém. Thi hài ông được nàng hầu Mỹ Dạ đem về an táng tại khu Mao Cá, làng Cổ Đà, huyện Yên Mô, gần cửa Thần Phù.

Sau khi chiến thắng quân Chiêm trở về, đến cửa biển này, lại gặp gió to, sóng lớn, biển động, chiến thuyền nhà vua không qua được. Vua nhớ tới việc thuyền lương lỡ hạn kỳ là do bão sóng gây ra, nhà vua trong lòng hối hận, thương quan Đốc lương bị thác oan.  Trong lúc mơ màng, tâm thần bất định, vua chợt thấy quan đốc lương dung trang tề chỉnh, đứng trước giường ngự, vái lạy mà tâu rằng: “kẻ hạ thần cảm ơn tri ngộ của bệ hạ, nên dẫu thác, linh hồn vẫn theo ra chiến trận. Nay nhờ hồng phúc quốc gia, bệ hạ dẹp xong Chiêm khấu, hạ thần lại xin theo hộ giá khải hoàn”. Sáng ra thấy quả nhiên sóng yên biển lặng thì Lê Thánh Tông mới ngộ ra đã giết oan vị quan có trách nhiệm. Ông truy tặng sắc phong Nguyễn Phục làm Thần Đông Hải Long Vương và dựng đền thờ tại 72 nơi. Vua Lê Dụ Tông ban sắc phong cho ông là phúc thần, tước Uy Linh Hiển Ứng Dực- Thánh Hộ Quốc Phù Tộ Bảo An Thượng Đẳng Thần

Còn nàng Mỹ Dạ ở lại thôn Cổ Đà trông nom phần mộ Nguyễn Phục, và dạy dân làng cách bện thừng chão. Khi bà mất, dân lập miếu thờ gọi là đền vua Bà, còn đền Nguyễn Phục gọi là đền vua Ông, hoặc đền vua Ông, vua Bà. Thành hoàng Nguyễn Phục Đông Hải Đại Vương được hàng trăm nơi dựng đền miếu tôn thờ.  Riêng vùng biển Hà Trung, Thiệu Hoá và Tĩnh Gia đã có đến 43 xã thôn lập đền miếu phong thờ ông. (http://mobile.coviet.vn/).

Rùa đá Phú Lộc của đền Tùng Giang?

Theo http://www.hue.vnn.vn/: Khoảng hai mươi năm trước, một số cộng tác viên của bảo tàng thuộc Phòng Thông tin Văn hóa Huế từng về nghiên cứu rùa đá ở xóm Rùa thuộc huyện Phú Lộc. Tác giả Tiến Vinh trong bài “Bí ẩn rùa đá xóm Rùa” (Thừa Thiên - Huế Cuối tuần, số 694, 9/5 đến 12/5/2013) đã cung cấp một số phát hiện mới ở xóm Rùa như đá kê cột, gạch ngói,… Để góp phần nghiên cứu giải mã bí ẩn rùa đá xóm Rùa ở Phú Lộc, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một giả thuyết.

Phải chăng ở xóm Rùa thuộc xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, gần Bệnh viện huyện Phú Lộc từng có Đền Tùng Giang, thờ Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục, xây dựng từ năm 1471, sau cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông, dựng bia sự tích của thần năm Kỷ Mùi 1499, thời vua Lê Hiến Tông. Giả thuyết này dựa trên những cơ sở sau

Di vật

Rùa đá xóm Rùa được tạc từ một tảng đá Thanh nguyên khối nên có khả năng hiện vật được tạc trước năm 1627 (năm mở đầu cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn) hoặc sau năm 1786 (Nguyễn Huệ ra Bắc phò Lê diệt Trịnh). Trên đầu rùa đội bia có chữ “vương”, chứng tỏ bia mà rùa đội ghi sự tích của một nhân thần được hoàng đế phong tước vương. Ở Thừa Thiên Huế, sau năm 1786 chỉ có hoàng đế Quang Trung, các hoàng đế triều Nguyễn, không thấy phong một vị nhân thần nào ở gần cửa Tư Khách (cửa Tư Hiền), tước vương. Trong khi đó, trước 1627 chỉ có các hoàng đế thời Lê sơ và Mạc. Vậy rùa đá phải được tạo tác vào thời Lê-Mạc (thế kỷ 15 - 16). Thời Lê Mạc không có một vị tước vương nào sống và làm việc ở Phú Lộc, ngoài Phi vận tướng quân Nguyễn Phục, trong đoàn quân thân chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1470 - 1471, bị trảm theo quân lệnh và sau đó được phong thần “Đông Hải đại vương”. Vậy chữ “vương” trên đầu rùa đá, đội bia ghi hành trạng của Đông Hải đại vương Nguyễn Phục.

Ba tảng đá kê cột và nền xây bằng gạch vồ chứng tỏ ở xóm Rùa từng có công trình đền miếu với bộ khung gỗ. Riêng gạch vồ tạo tác bằng đất sét mịn, không có hồ vữa kết dính, mang phong cách gạch Chăm, có thể đoán định thế kỷ 15, 16, người Việt gốc Chăm ở Thuận Hóa còn nhiều. Những người thợ nung gạch xây đền có người Chăm với kỹ thuật truyền thống của họ.

Nhân vật lịch sử

Căn cứ vào chính sử, thần tích một số làng có đền thờ Đông Hải đại vương Nguyễn Phục, do các nhà nghiên cứu Ngô Đức Thọ, Lê Đức Kiên, Chu Đức Soàn, …công bố, có thể tóm lược thân sử của vị nhân thần này như sau:

Nguyễn Phục hay còn gọi là Phục Công, sinh năm 1434, quê xã Đoàn Tùng (sau đổi là Đoàn Lâm), huyện Trường Tân (nay là Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương). Năm 20 tuổi, ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Dậu niên hiệu Thái Hoà 11 (1453) đời vua Lê Nhân Tông, làm quan đến chức Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, kiêm Phó tả thị giảng (thầy dạy học cho vương tử). Năm 1470, vua Lê Thánh Tông đưa đại quân đi đánh Chiêm Thành, giao cho ông giữ chức Đốc lương lo việc vận chuyển lương thực. Nguyễn Phục là thầy của Bình Nguyên vương Tư Thành thời Lê Nhân Tông, góp công đưa vương lên ngôi vua sau vụ tiếm ngôi của Nghi Dân. Khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông trọng dụng Nguyễn Phục, cử ngay Nguyễn Phục đi sứ nước Minh ba lần. Mặc dầu trọng dụng Nguyễn Phục nhưng vua Lê Thánh Tông thường viết dụ trách cứ, buộc tội cận thần Nguyễn Phục khá gay gắt. Điều này chứng tỏ có nhiều đồng liêu ghét ông nên gièm pha ông khi họ gần vua. Bi kịch xảy ra khi ông theo vua bình Chiêm năm 1470, thuyền lương qua cửa Tư Khách (Tư Hiền ngày nay) gặp bão, ông cố ý phạm quân luật để bảo vệ quân lương khi gặp bão, cho neo thuyền ở bờ phá Cao Đôi (phá Cầu Hai) để tránh bão. Ông bị phạm tội, người ta bắt ông đến bãi Nam (bán đảo Sơn Trà), chiếu luật bị hành hình, đến lúc nhà vua hối lỗi quyết tha tội thì ông đã bị trảm. Tương truyền trên đường rút quân, sau khi thắng lớn, đoàn thuyền gặp gió lớn, vua Lê Thánh Tông mộng thấy ông đến chầu vua và hứa phù trì đoàn quân về Thăng Long an toàn… Vua Lê Thánh Tông hối lỗi, quyết định phong Nguyễn Phục làm phúc thần.Vua cũng truyền chỉ địa phương nào ngày trước có công tích của Nguyễn Phục thì cho lập miếu đền để thờ thần. Về sau vua Lê Thánh Tông gia tặng, ban sắc phong ông làm Thần Đông Hải đại vương và dựng đền thờ cúng. Có 72 nơi lập miếu thờ nhân thần Nguyễn Phục.

Đền Tùng Giang trong Ô Châu cận lục

Ô Châu cận lục chép khá chi tiết về Đền Tùng Giang, ở cửa biển Tư Khách, tức cửa Tư Hiền ngày nay, chứng tỏ tác giả sách từng đọc tấm bia ở đền. Đặc biệt Ô Châu cận lục còn cho biết, người viết văn bia ở đền là quan huyện bản hạt có tên là Phạm Chính. Do trên bia có ghi năm dựng là Quý Mùi (1499), nên về sau có người nhầm lẫn vị nhân thần Nguyễn Phục đỗ tiến sĩ năm Quý Mùi. Ở cửa biển Đà Nẵng, nơi Phi vận tướng quân bị trảm, nhân dân còn lập miếu thờ, từng có mộ của Nguyễn Phục và các binh sĩ chết theo, sau khi con cháu cải táng về quê ở xã Đoàn Tùng, dân sở tại biến thành mộ vọng. Ở xã Dương Xuân xứ Bộ Hóa còn có miếu thờ Nguyễn Phục, nơi từng có bản doanh của quan Phi Vận, đóng quân để thu mua, sản xuất lương thảo.Trên bờ sông Hương và bờ phá Tam Giang, các nhà nghiên cứu từng phát hiện một số am thờ có bài vị Phi Vận tướng quân… Vì lẽ đó, nơi Phi Vận tướng quân cho đoàn thuyền lương dừng lại, tránh bão, gần cửa Tư Khách là địa điểm xóm Rùa hiện nay. Khu vực xóm Rùa vừa gần cửa Tư Khách, vừa kín gió tránh bão. Sau khi Nguyễn Phục bị trảm oan, nơi trú quân với lượng lương thảo lớn, các bộ tướng, binh sĩ và nhân dân đã lập Đền Tùng Giang.

4.23. Triệu Miếu thờ Chiêu huân tĩnh vương Nguyễn Kim

Nguyễn Kim (chữ Hán: 阮淦; 1468-1545) ở Thanh Hóa là một danh tướng Việt Nam thời nhà Lê sơ và là người đặt nền móng cho sự thành lập nhà Lê trung hưng

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư quyển XV ghi: ông là con An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ (có sử chép là Nguyễn Lựu), cháu nội Nghĩa Huân Vương Nguyễn Văn Lang thời vua Lê Chiêu Tông

Ông đã tìm được con vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh ở Thanh Hóa và đưa sang Sầm Châu tôn lên ngôi vua là Lê Trang Tông (1533-1548). Ông giúp vua Lê tiến binh về nước, từng bước đánh chiếm các huyện ở Thanh Hóa và sau đó xây dựng hành điện ở xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Nguyễn Kim được vua Lê phong làm Thái sư, Hưng Quốc công, nắm giữ tất cả binh quyền.

Năm 1545, Nguyễn Kim bị một hàng tướng họ Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Dương Chấp Nhất mời ông ăn dưa có độc rồi bỏ trốn. Khi đó ông 77 tuổi. Vua Lê Trang Tông truy tặng cho ông tước Chiêu Huân Tĩnh Vương.

Nguyễn Kim được các vua nhà Nguyễn sau này truy tôn miếu hiệu là Triệu Tổ, thụy hiệu là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế. ( http://vi.wikipedia.org/)

Sau khi thống nhất đất nước, tháng 3 âm lịch năm 1803, vua Gia Long cho dựng Triệu miếu, Thái miếu và Hoàng khảo miếu trong phạm vi hoàng thành Huế.

Triệu Miếu (Triệu Tổ Miếu ) thờ Chiêu huân tĩnh vương Nguyễn Kim (năm 1806 truy tôn là Triệu tổ Thánh tĩnh hoàng đế), thân phụ Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng, và là người có công lớn trong việc phục hưng ngôi vị của nhà Lê. 

Triệu Tổ Miếu là một công trình kiến trúc thuộc Đại Nội Huế, được xây dựng dưới thời vua thứ nhất của nhà Nguyễn, năm Gia Long thứ 3 (1804). Đây là miếu thờ Nguyễn Kim, thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sử sách ghi lại, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết và triều Nguyễn truy tôn ông miếu hiệu là Triệu Tổ.

Miếu được xây trong một khuôn viên hình chữ nhật, tường phía nam gắn liền với tường Thái Miếu. Bên trong điện chính đặt án thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế và Hoàng hậu. Mỗi năm tổ chức 5 lần tế tương tự ở Thái Miếu. Từ năm 1989, do Thái Miếu xuống cấp nặng nên Triệu Miếu trở thành nơi thờ chung cho 9 chúa Nguyễn.

Về hình thức và qui mô kiến trúc, Triệu Miếu tương tự như Hưng Miếu, miếu gồm 1 tòa điện chính theo lối nhà kép, chính đường 3 gian 2 chái, tiền đường 5 gian 2 chái đơn. Hai bên điện chính có Thần Khố (phía đông) và Thần Trù (phía tây).

Trải qua hơn 200 năm, công trình này đang xuống cấp nghiêm trọng, lần trùng tu gần đây nhất là năm 1984, tức là cách đây (2014) 30 năm. Tuy nhiên dự án trùng tu không bao gồm toàn bộ di tích mà chỉ trùng tu một phần. Chính điều này cùng với sự ảnh hưởng của khí hậu, thiên tai khắc nghiệt tại Huế đã khiến Triệu Miếu thêm hư hỏng, nền miếu bị bong tróc, hệ thống cột gỗ, vì kèo bị ẩm mục; chân tảng bị nghiêng, lún; mái ngói bị xô lệch dẫn đến hiện tượng thấm dột vào mùa mưa. Những bài thơ và họa tiết được chạm khắc trên công trình cũng bị mất đi do mối mọt. Khu vực sập thờ, bài vị của các vị chúa và công thần cũng bị thấm dột. Mỗi lần mưa, những người trông coi lại phải dùng bạt nilon che tạm.

Một điều đáng tiếc là do công trình đang xuống cấp nặng nề ở tất cả các hạng mục nên du khách đến chỉ có thể vãn cảnh ở bên ngoài mà không thể vào trong tham quan nội thất. Đây là điểm hạn chế rất lớn đối với công tác giới thiệu và quảng bá giá trị di sản Huế tới đông đảo công chúng.

Trước tình hình cấp thiết đặt ra, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã lập Dự án bảo tồn, tu bổ di tích Triệu Miếu với tổng vốn dự án hàng chục tỷ đồng nhằm trùng tu tổng thể các hạng mục của di tích, dự kiến tiến hành vào khoảng thời gian đầu năm 2014. Riêng phần nội thất bên trong đã nhận được một dự án tài trợ của Đại sứ quán Mỹ có kinh phí là trên 29.000đôla.

Việc khẩn trương thực hiện dự án này sẽ mang lại kỳ vọng mới trong công tác bảo tồn và gìn giữ những nét đặc sắc của công trình Triệu Tổ Miếu nói riêng và quần thể di tích Huế nói chung, giúp phát huy những giá trị lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đặc sắc của di sản Huế. Triệu Miếu hiện đang phải đóng cửa chờ trùng tu (http://disanxanh.vn/)

4.24. Đền thờ trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm 

Nguyễn Bỉnh Khiêm  (chữ Hán: 阮秉謙; 14911585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm  là nơi trưng bài danh nhân văn hóa lỗi lạc của nước nhà.

Di tích Trạng Trình cũng là nơi trưng bày khá đầy đủ hiện vật về thân thế và sự nghiệp trong suốt cuộc đời của ông. Khu di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm tọa lạc tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Tp. Hải Phòng. Toàn bộ quần thể đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được quy hoạch trên một diện tích rộng 5,7 ha. Khu di tích gồm  gồm 9 hạng mục: tháp bút Kình Thiên; đền thờ dựng sau khi cụ mất (1585) với ba gian tiền đường, hai gian hậu cung, phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất, bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”; nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần mộ cụ thân sinh ở phía sau đền; tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá; hồ bán nguyệt rộng khoảng 1.000m²; chùa Song Mai; Nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt, vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Quán Trung Tân, nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “Trung” hướng lòng theo “chí trung chí thiện.

Qua khỏi cổng tam quan với 3 chữ Hán: Trung Am từ (tức đến Trung Am) là ngôi đền thờ chính gồm 3 gian, là nơi đặt tượng và bài vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tượng ông được làm bằng gỗ, trông thế ngồi trên ngai, mình mặc áo rồng vua ban, đầu đội mũ cánh chuồn, tay phải cầm cuốn tập giơ lên như đang giảng đạo thơ cho các học trò. Phía trước đền là hồ Thái Nhâm, trên khoảng đất giữa hồ (có cầu bắc qua) còn tấm bia đá làm năm Vĩnh Hựu nhà Lê (1736) ghi lại việc làm đền thờ Trạng và tên những người đã đóng góp xây dựng đền. Trải qua mưa nắng và thời gian, nhiều chữ trên bia đã mờ, khó đọc. Đi ra phía sau đến khoảng hơn 100m là 3 gian nhà lợp cói, mô phỏng Bạch Vân am là nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan đã về dạy học, làm thơ. Bên phải Bạch Vân am là khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm và cáo phù điêu. Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác phẩm kiến trúc đeo, cao 5,7 mét, nặng 8,5 tên được làm bằng chất liệu đá Granit và được tả trong tư thế ngồi tay cầm bút, tay cẩm sách, y phục nhà Nho, cốt cách giản dị.

Phía sau đền là 3 gian nhà lợp cói, mô phỏng am Bạch Vân, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan đã về dạy học, làm thơ. Cách không xa Bạch Vân am là khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm và phù điêu. Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác phẩm cao 5,7 mét, nặng 8,5 tấn được làm bằng chất liệu đá Granit và trong tư thế ngồi tay cầm bút, tay cẩm sách, y phục nhà Nho, cốt cách giản dị. Hai bức phù điêu, mỗi bức có cao khoảng hơn 5 mét, dài hơn 20 mét và được làm khá hoàn chỉnh cả về nồi dung, bố cục mỹ thuật… Một bức diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình từ lúc còn bé đến cuối đời.

Trong quần th di tích Nguyn Bnh Khiêm, cách không xa đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm là phần mộ cụ Nguyễn Văn Định, thân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm và tháp Bút Kình Thiên, tương truyền là do học trò tạo dựng để ca ngợi tài năng của Trạng trình như trụ cột chống trời, chùa Song Mai và đền thờ bà Minh Nguyệt (vợ thứ của Trạng Trình), di tích Quán Trung Tân bên bờ sông Hàn… Đặc biệt trong không gian của khu di tích có rất nhiều vườn tượng, với kích thước bằng người thật, diễn tả lại cuộc đời, cảnh dạy học khi xưa của Nguyên Bỉnh Khiêm, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động.

Hàng năm cứ đến ngày 23/12, người dân trong vùng và các nơi lại kéo về đền thờ tế lễ, dâng hương tưởng niệm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bên cạnh phần lễ, phần hội với nhiều trò chơi dân gian đánh vật, kéo co, chọi gà, cờ người… đã mang đến một không khí lễ hội dân gian độc đáo, để lại những ấn tượng tốt đẹp cho du khách trong và ngoài nước (http://yatlat.com/)

Và cứ vào những ngày Tết Nguyên đán, hàng nghìn người dân và khách thập phương, đặc biệt là các em học sinh, sinh viên lại lườm lượp về chiêm bái, thắp hương tưởng nhớ, tri ân công đức Danh nhân văn hóa Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tại Khu di tích lịch sử văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thôn Trung Am, xã Lý Học (Vĩnh Bảo, Hải Phòng).

Các bậc phụ huynh cũng đưa các cháu nhỏ đến đây để dâng hương tưởng nhớ và nhắc nhở, giáo dục con cháu noi theo tấm gương sáng về đức tính hiếu học, tính tự tôn dân tộc, lòng yêu nước thương dân của Cụ Trạng. 

Năm 1991, di tích này đã được Nhà nước xếp hạng cấp Quốc gia. Cuối năm 2000, nhân kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng Trình, Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng cho khởi công xây dựng dự án nâng cấp tạo dựng cả một vùng rộng lớn thành quần thể "Khu di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày 8/01-10/01/2013, UBND huyện Vĩnh Bảo đã tổ chức lễ kỷ niệm 427 năm ngày mất danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, gồm các hoạt động tôn nghiêm như: Lễ mộc dục, Lễ rước văn, cáo yết, dâng hương… 

Bên cạnh đó, nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ thu hút đông đảo sự tham gia của du khách và nhân dân như: Hội chợ sinh vật cảnh; vật truyền thống, thi đấu bóng chuyền, kéo co, cờ tướng, cờ người, hội thi “chọn người hiền tài”, múa rối cạn, rối nước, pháo đất… 

Một số hạng mục công trình cũng đã được đầu tư chỉnh trang, tu bổ như đền Song Thân; phục chế một số đồ thờ tự trong đền gồm: Long ngai, bài vị, đại tự, di chuyển cụm tượng quan Trạng, phun cát san nền, hoàn thiện các văn tự tại đền Chính, đền Song Thân, Am Bạch Vân... 

   4.25. Đền thờ Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du; ngoài ra, có người gọi bà tên Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền), là nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam. Nguyễn Thị Duệ là người ở Kiệt Đặc (nay là phường Văn An), Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Tại Cao Bằng, nhà Mạc mở khoa thi hội, kén chọn nhân tái sỹ tử ứng thi khá đông. Bà đã đóng giả trai đi thi cùng với thầy giáo của mình. Sau khi chấm bài, khớp phách, bà được điềm cao, đỗ đầu, thầy giáo của bà đỗ thư hai. Cảm kích trước tài năng của người học sinh ưu tú của mình, ông nói :"Mầu xanh từ màu lam mà ra nhưng đẹp hơn màu lam". Khi vào dự yến, vua Mạc thấy diện mạo giống phụ nữ, xét hỏi, biết sự thật đã không xử tội mà còn khuyến khích và liền lấy làm vợ và đặt tên là Sao Sa, do đấy mà dân gian gọi là Bà chúa Sao Sa.       

  Bà ở trong cung mái đến 70 tuổi mới xin về nghỉ. Tại quê nhà, bà dựng một cái am gọi là am Đào Hoa, ngày ngày đọc sách, bảo ban các sĩ tử trong làng. Vua Lê cho bà hưởng lộc bằng cách nhận thuế hàng năm của xã, bà chỉ xin với dân làng lo liệu cho đủ ăn, còn bao nhiêu dành cho công việc có ích và trợ giúp người nghèo. Dân xã Kiệt Đặc đều được hưởng ân huệ của bà, nên mọi người đều kính trọng. Năm 1653, nhân dân lập bia ghi công đức bà, sau đó tạc tượng thờ, gọi là tượng Vua bà.

       Nguyễn Thị Duệ mất năm 80 tuổi, di hài được mai táng trên đỉnh núi Tri Ngư (còn gọi là núi Tháp) tại quê hương. Trên mộ xây một ngọn tháp có tên là  Tinh Phi, nay đã mai một. Theo Chí Linh phong vật chí thì trên bia cổ tháp hồi đó, để xưng tụng tài năng của bà, có khắc 10 chữ : Lễ sư sinh thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương.  (dulichhaiduong.vn)

Đền thờ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ. Đền cách đường cái vài trăm mét, con đường đất dẫn vào phía trước đền cỏ mọc lúp xúp. Ngôi đền được xây dựng khang trang giữa lưng đồi, kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm tiền tế 5 gian chồng diêm và 1 gian hậu cung.

Đền bà chúa Sao Sa thưa vắng người đến thăm. Bà Nguyễn Thị Dung, thủ nhang Đền thờ tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ cho biết: Năm 2006, đền thờ Nguyễn Thị Duệ được tỉnh Hải Dương triển khai dự án xây dựng lạiHiện đã hoàn thành các hạng mục Đền chính, 2 am hoá vàng và sân trước. Thời gian tới sẽ tiếp tục đầu tư xây Tả hữu vu, Tam quan và cải tạo nâng cấp Lăng mộ.

Đình làng Kiệt Đặc có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thời vua Khải Định nhà Nguyễn, có ghi: “Xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương thờ phụng Chánh Vương phủ, thị nội cung tần, Lễ  sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân, rất linh ứng từ xưa... phong làm Tề lĩnh, dực bảo trung hưng, trung đẳng thần”.

Đánh giá cao công lao, sự nghiệp của nữ tiến sĩ đầu tiên của đất nước, từ năm 2004, Nguyễn Thị Duệ được tỉnh Hải Dương đúc tượng, khám thờ. Linh vị bà được thờ cạnh Khổng Tử và các vị đại khoa danh tiếng của Hải Dương và Việt Nam như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh. Tuệ Tĩnh... trong hậu cung của Văn miếu Mao Điền (Hải Dương).

Ngước nhìn tượng tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ sơn son thiếp vàng uy nghi trong  gian thờ nơi hậu cung, chứng kiến lãnh đạo, phóng viên các báo lần lượt thành kính dâng hương trước bà chúa Sao Sa, chúng tôi không khỏi xúc động, cảm phục ý chí, nghị lực của nữ sĩ tài danh vùng Chí Linh địa linh, nhân kiệt. Không chỉ trong thời phong kiến mà bây giờ và mãi mãi về sau, tấm gương hiếu học, tài năng và đức độ của tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ sẽ được các thế hệ người Việt Nam ghi nhớ, noi theo để không ngừng phấn đấu học tập, trưởng thành, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Vòng ra sau đền, chúng tôi lên thăm Tinh Phi cổ tháp - tháp mộ bà Tinh Phi Nguyễn Thị Duệ - ở trên một đỉnh đồi cạnh núi Phượng Hoàng. Cuối thời Lê,  ngôi tháp này được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ, nghĩa là một trong 8 di tích cổ nổi tiếng của huyện Chí Linh, có khắc mười chữ Hán: “Lễ sư sinh thông tuệ. Nhất kính chiếu tam Vương” (Lễ sư sinh thời rất thông tuệ, một cái nhìn thấu cả ba vua).

Theo Chí Linh phong vật chí, văn bia Chí Linh Bát cổ, khắc dựng năm Gia Long nguyên niên (1802), dựng tại văn chỉ phủ Nam Sách còn bài thơ chữ Hán ca ngợi Tinh Phi cổ tháp, tạm dịch:

“Tay ngọc bẻ cành cao

Mặt gương in tháp cổ

Từ xưa núi sông này

Đến nay còn âm u

Hoa cỏ tự nở tàn

Ngư tiều cùng vấn đáp

Sắc núi vẫn trong xanh

Tiếng thu sao xào xạc”.

Đứng bên tháp mộ rêu phong, trầm mặc, trong khói hương huyền ảo, chúng tôi bùi ngùi tưởng nhớ bà chúa Sao Sa Nguyễn Thị Duệ, bậc nữ nhi tài sắc vẹn toàn, danh thơm muôn thuở, vẳng nghe đâu đây tiếng tiền nhân vọng về:

“Giáp khoa tiên chiếm Cao Bình bảng

Đại bút do truyền Bát Cổ bi”

Dịch là: “Khoa giáp đứng đầu bảng ở Cao Bằng

Văn chương lừng danh để lại ở bia Bát Cổ”.( http://baocaobang.vn/)

4.26. Đền Vực Vông  thờ Nguyễn Thị Niên

Nguyễn Thị Niên (chữ Hán: 阮氏年, ? - 1600?) người làng Canh Hoạch, phủ Thanh Oai nay là huyện Thanh OaiHà Nội. Giai nhân là con gái thứ ba của lão tướng Nguyễn Quyện, lấy võ tướng Bùi Văn Khuê.

Đền Vực Vông là một di tích lịch sử văn hóa nằm trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư, ngay bên dòng sông Hoàng Long, thuộc thôn Chi Phong - Trường Yên - huyện Hoa LưNinh Bình.

Đền được xây dựng từ thế kỷ 16 và được trùng tu xây dựng lại nhiều lần. Kiến trúc tổng thể đền theo kiểu chữ Công gồm ba phần: Bái đường, Trung đường và chính cung. Bái đường thờ Quan Giám Sát, chính cung thờ bà Nguyễn Thị Niên, nhân dân địa phương tôn thờ bà là Mẫu Thoải vì đã có công trong việc trị thuỷ, xoá bỏ tục lệ cúng người cho thuồng luồng, đem lại bình yên cho người dân đất cố đô.

Đền Vực Vông còn lưu giữ được 17 thần sắc về Quận công Bùi Văn Khuê, là chồng của Bà Niên, người có công tu tạo các đền thờ ở cố đô Hoa Lư để nó có được kiến trúc gần như nguyên trạng tới hôm nay

Theo truyền thuyết và thần phả đền Vực Vông, Nguyễn Thị Niên là con gái của Nguyễn Quyện, tướng quân thời nhà Mạc. Bà là người văn võ song toàn, có nhan sắc, theo cha về trấn thủ đất Hoa Lư. Trong đoàn quân của Nguyễn Quyện có hai vị quận công là Quận Mỹ (Bùi Văn Khuê) và Quận Kế (Phan Văn Ngạn). Quận Mỹ có tài văn võ, tính khiêm nhường. Quận Kế tài hèn, tính kiêu căng, cậy vương quyền. Cả hai đem lòng yêu Nguyễn Thị Niên.

Lúc ấy ở đoạn Vực Vông có một vực xoáy lớn, hàng năm gây ngập lụt và tai họa cho dân làng. Vì vậy nơi đây có một tục lệ là mỗi năm phải cúng lễ và sau đó ném một người con gái xuống vực xoáy cho thuồng luồng ăn thịt. Nếu không làm vậy, họ nghĩ rằng quái vật sẽ dâng nước gây tai họa cho cả vùng. Bất bình trước tục lệ này nên bà Niên ra điều kiện hai người phải tìm ra nguyên nhân để phá bỏ nó. Ai làm được, bà sẽ đồng ý làm vợ.

Quận Mỹ đã lặn xuống vùng xoáy thăm dò phát hiện dòng chảy bị đá ngầm ngăn làm đổi hướng. Năm nào nước lên to vực xoáy càng chảy xiết, hút thuyền bè nhấn chìm, gây nhiều thiệt hại trong vùng. Chỉ cần kè đá xoay lại dòng chảy thì không còn vực xoáy nữa. Ông đã phá đá trên núi lấp dòng chảy đối lưu, dòng sông trở lại yên ổn. Kết quả là quận Mỹ chiến thắng nên cưới được bà.

Quận Kế tức giận dùng mưu hãm hại cha bà để đoạt chức trấn thủ Trường Yên. Sau đó âm mưu hại chết Quận Mỹ để chiếm đoạt Nguyễn Thị Niên. Bà giả vờ ưng thuận, chuốc rượu say rồi chặt đầu Quận Kế trả thù cho cha và chồng. Sau đó bà nhảy xuống sông Hoàng Long tự vẫn. Thi hài bà trôi dạt vào Vực Vuông, nhân dân vớt lên làm lễ an táng. Dân trong vùng đưa tang bà với lòng thương cảm, nhớ ơn ông bà đã xoá bỏ hủ tục, cứu sống bao người. Họ xây ngôi đền thờ bà ngay nơi đó, nay gọi là đền Vực. Ngôi đền được tu sửa thờ cúng uy nghi, có tiếng là linh thiêng, nhân dân thập phương đến lễ bái đông đúc. Ngày nay, khi đến Ninh Bình, ngoài việc thăm các điểm du lịch khác du khách có thể đến thăm đền Vực, thắp hương để tưởng nhớ về một người con gái tài hoa, tiết nghĩa. Đồng thời thưởng thức cảnh đẹp thanh nhã u tịch của ngôi đền

Đền Vực còn bức đại tự mà vua ban tặng 4 chữ "Tiết Liệt Trung Trinh" và bài thơ:

Gián khẩu gieo mình giương tiết nghĩa

Vực Vông dựng lại cảnh cương thường

Hỡi khách má hồng qua lại đó

Dừng chân ngắm cảnh để làm gương. (vi.wikipedia.org/wiki/)

4.2.7. Đền thờ Nguyễn Cảnh Kiên 

Nguyễn Cảnh Kiên  (阮景健 21/8/1553 - 04/08/1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng quân Đô đốc phủ, Thái y viên chưởng viện sự, kiêm Tế sinh đường sứ, tước Thư Quận công, hàm Thiếu Phó. Về sau được gia phong là Tả Tư Không, Mặc tướng hồng đồ, hàm Thái Bảo. Ông người xã Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Ông mất ngày 4/8/1619 thọ 67 tuổi. Hoàng thượng nghe tin ra lệnh bãi chầu 3 ngày, sai quan Bộ Lễ mang vật cúng cùng hai chiếc hốt bằng vàng và ba ngàn quan tiền cổ đến viếng, đồng thời gia phong cho ông là Hiệp mưu Dương vũ uy dũng Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Nam quốc Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thự phủ sự Tri Thái y viện chưởng viện sự, Thiếu phó, Tả Tư Không, Thư Quận công sai binh lính thủy bộ cùng mười lăm chiếc thuyền chiến đưa linh cữu về bản quán, an táng tại xứ Mô Sơn, thôn Cẩm Hoa Thượng, xã Đng, huyện Nam Đường (nay là xã Tràng Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An)

Về sau ông được phong thêm là Mặc tướng hồng đồ, Thái Bảo

Hiện nay ông được phối thờ cùng đền thờ cha là Nguyễn Cảnh Hoan tại xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An

              4.28. Đền thờ Tể tướng Nguyễn Văn Giai ở  Đồng Cổ, làng Đan Nê, xã Yên Thọ, Thanh Hoá

Nguyễn Văn Giai (1553 - 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái Bảo, Quận công, là vị khai quốc công thần thời Lê Trung hưng. Ông nổi tiếng chính trực, biết giữ nghiêm pháp luật triều đình, đồng thời cũng là nhà thơ thời Lê - Trịnh.

Ông là vị Tam nguyên đầu tiên của thời Lê Trung hưng.

Ông là tham mưu đắc lực cho Trịnh Tùng trong việc đánh bại nhà Mạc. Ông mất khi đang tại chức ngày 13 tháng giêng năm Mậu Thìn, tức 27-2-1628, thọ 75 tuổi. Triều đình truy tặng ông là Đại tư đồ, thụy là Cẩn Độ.

 “Tên tuổi tể tướng Nguyễn Văn Giai đã đi vào sử sách như một bậc tể phụ đầu triều lừng lẫy cách đây hơn bốn trăm năm. Lẫy lừng đến mức xung quanh ông có cả một kho huyền thoại được thêu dệt ngay lúc ông còn sống và cứ thế lưu truyền đan xen với sự thật. Vì thế, cả huyền thoại lẫn thơ ca của ông từ lâu đã đan kết với nhau, tạo nên một hiện tượng phức hợp, một hiện tượng “văn sử bất phân”, cần được giải mã”.  Đền thờ ông được dựng ở Đồng Cổ, làng Đan Nê, xã Yên Thọ, Yên Định, Thanh Hoá.  (http://svhttdl.thanhhoa.gov.vn/).

Tại đền thờ ông ở Hà Tĩnh hiện nay vẫn còn những con chó đá mà tương truyền do ông tự tay gánh về từ Thanh Hóa bằng dây buộc cày (ở vùng Nghệ Tĩnh gọi là “chạc cày”), giữa đường dây bị đứt ông phải bện rơm buộc lại rồi gánh một mạch về làng, vừa gánh vừa ngâm:

Chạc cày gánh đá đứt đi
Chạc rơm bện lại có khi hãy bền.( http://vietbao.vn/)

4.29. Đền Phúc Khê thờ Nguyễn Văn Nghi huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá

Nguyễn Văn Nghi là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Nguyễn Văn Nghi người làng Ngọc Bội, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1554 đời Lê Trung Tông, ông đỗ nhất giáp chế khoa, làm Lại bộ Tả thị lang đời vua Lê Trang Tông.

Là vị quan thanh liêm được 3 đời vua trọng dụng, công đức của Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi luôn được con cháu đời đời kính ngưỡng.

Không rõ Nguyễn Văn Nghi mất năm nào, được truy tặng là Thượng thư bộ Công, gia thăng Thái bảo. Trong một năm đại hạn, người ta cầu ở đền thờ ông được mưa, nên vua Lê phong ông làm phúc thần.

Sử gia Phan Huy Chú nhận định về ông như sau:

“Ông là bậc danh nho đỗ cao, được 3 vua tri ngộ, sự nghiệp và tiếng tăm hơn cả các Nho thần đầu thời trung hưng”

 Vị trí Đền Phúc Khê, thuộc làng Phúc Triền, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.

Với tổng diện tích 38.000m2, khu đền thờ - lăng mộ Nguyễn Văn Nghi bao gồm nhiều thành phần kiến trúc với chức năng khác nhau được bố trí theo kiểu "Nội công ngoại quốc", gồm 2 vòng thành khép kín: Thành đất (thành ngoại) ở ngoài, thành đá (thành nội, rộng tới 16.000m2) ở trong. Bên trong thành nội là các cụm kiến trúc gỗ được xây dựng theo hình chữ "Công", chữ "Tam", chữ "Nhị" và "Nhất" rất tiêu biểu cho lối kiến trúc thời hậu Lê.

Đường dẫn từ thành ngoại vào trong khu nội viên được lợp đá tảng, hai bên là hàng chó đá, ngựa đá, voi đá và tượng thần hộ pháp. Hai chiếc bia đá rộng hơn 2,5m đối xứng hai bên, một chiếc bao gồm cả phần mái che cũng được đục nguyên khối không tách rời khiến người xem phải kinh ngạc vì sự tỉ mỉ của từng con chữ và hoa văn được khắc tinh tế trên bia.

Cổng vào hình mái vòm, bên trên có khắc ba chữ "Tướng công môn". Tường đá bao bọc cao tới gần 2m, bề rộng 1,5m dựng bằng hai hàng đá tảng, ở giữa đổ đất nện, phía trên là những phiến đá hình mai rùa úp xuống. Tính chiều dài bao phủ của tường thành nội cũng đến cả cây số, nhưng do nhiều lý do, một phần của tường thành đã bị chuyển ra làm cầu cống nên mất mát không ít.

Bông sen lớn nở giữa đầm nước trũng

Theo lời các cụ truyền lại, đền thờ Quốc công Nguyễn Văn Nghi được xây dựng theo dáng của một bông sen lớn, nở giữa đầm nước. Người dân quê quanh năm làm nông nghiệp, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, quen với mùi bùn nên càng trọng hương thơm hoa sen vươn lên từ trong bùn mà vẫn ngạt ngào, mát lành. Có thể dễ dàng tìm thấy những "bông sen" nhỏ hơn trong kiến trúc của đền, cho dù đã xuống cấp nhiều, chỉ còn lại một phần nhỏ của cụm di tích.

Trước đây, tính tổng ra, cả khu có tới 24 dãy nhà lớn bé bao quanh, bố trí từ nhà sắp lễ ở ngoài cổng, khu đền thờ, khu hậu viên, khu nhà tổ, khu nhà thờ bà… Hiện nay chỉ còn lại khu nhà chính nằm ở giữa thế đất với gian nhà cầu nối làm nơi thờ tự. Đây là gian nhà nằm giữa, nối gian tiền đường, trung đường với nhà chánh tổng dài và rộng ở phía sau. Tất cả đều có mái chạm trổ cong cong, lát gạch lợp mũi hài, có những viên nặng tới 7kg, trông như một bông sen hồng đang e ấp nở.

Gian nhà cầu nối vốn ban đầu không có tường bao quanh, chỉ gồm những cột trụ to, tròn được chạm trổ tinh tế. Sau, do chiến tranh, loạn lạc, những khu nhà khác lần lượt sập, chỉ còn lại gian cầu nối, người dân và chính quyền địa phương mới chung tay làm nên bức tường bao cho gian nhà để tránh nắng mưa, tiện nơi thờ tự.

Phía trước thành ngoại là một khu ao rộng, người dân dùng để trồng sen, cứ đến mùa lại nở ra thơm mát cả một vùng. Một phần khác thuộc khu di tích, nhỏ nhưng lại khá thú vị với chúng tôi là giếng Ngọc nằm bên trái khu đền. Giếng nhỏ nhắn, phần chân được chạm hình những cánh hoa sen và mây đều đặn tạo cảm giác dễ chịu và hài hòa, đẹp mắt, không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị nghệ thuật cao. Xung quanh thành giếng tròn là những bệ đá được sắp xếp. Chiếc giếng cổ có tuổi đời bằng chính lịch sử của khu di tích, đây cũng là nơi người dân quanh vùng tụ họp, xin nước lành mỗi dịp lễ tết.

Theo sử sách, đền thờ Nguyễn Văn Nghi được xây dựng từ năm 1617 niên hiệu Hoàng Định thứ 18 đời vua Lê Kính Tông (1600-1619). Đến năm 1628, con trai thứ hai của ông là Binh bộ thượng thư Đăng quận công Nguyễn Khải đã mở rộng thêm quy mô kiến trúc. Đến đời cháu ngoại của ông là Lê Khắc Tuy- tri phủ Hà Trung cùng dân 14 xã trong huyện Đông Sơn tu bổ hoàn chỉnh vào tháng 9 năm 1632, đời vua Lê Thần Tông (1619 - 1643), đền thờ được tôn tạo đúng vị trí ban đầu.

Khi còn sống, ông vẫn giương cao đạo học chốn quê hương và tích cực hỗ trợ cho các nho sinh trong vùng, ban tiền, ban của để họ có thể tiếp tục theo đuổi sách thánh hiền. Tới khi ông mất, đền thờ được dựng lên, mỗi khi có chuyện liên quan tới học hành thi cử, người dân lại đến kính ông, thắp một nén nhang trước lúc lên đường. Những người theo đạo Nho, ra vào cửa Khổng sân Trình đều xem ông như bậc thầy học lớn để noi theo.

Ngày nay, việc học của con em trong vùng vẫn luôn được chú trọng. Năm 2011, tỉ lệ học sinh đậu đại học, cao đẳng của xã lên tới hơn 60%, chính quyền và nhân dân cũng luôn tạo điều kiện tốt nhất cho con em được học hành thuận lợi.

"Cứ đến ngày lễ, ngày tết, nhất là ngày nhà giáo, tết âm lịch, ở đền lúc nào cũng rộn rã tiếng người. Người đến đây cũng chẳng phải vì cầu danh, cầu lợi mà là đến để tri ân một người thầy lớn, đạo học lớn của vùng", ông Nguyễn Xuân Thái, người giữ đền cho biết.

Đền được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá và là một di tích bằng đá hiếm thấy.

( nguoiduatin.vn)

4.30. Đền thờ Nguyễn Đăng 

Nguyễn Đăng (1577-?) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Đăng người làng Đại Toán, huyện Quế Dương, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Ông có học vấn sâu xa, sở trường về thơ Đường luật và phú tám vần. Mỗi bài ông soạn ra đều được mọi người truyền tụng cho là bài mẫu, đến nỗi mang tiền đến xin mua văn của ông.

Nguyễn Đăng làm quan được thăng tới chức Hộ bộ tả thị lang, tước Phúc nham hầu. Ông đã từng phụng mệnh vua đi sứ nhà Minh phong làm Trạng nguyên, rồi vì thế mà không ít người quen gọi ông là “Lưỡng quốc Trạng nguyên

Nguyễn Đăng mất vào khoảng những năm 1638 – 1639. Đền thờ ông ở làng Hán Đà, xã Hán Quảng (Quế Võ) đã được Nhà nước công nhận và cấp bằng di tích lịch sử văn hóa.

4.31. Đền thờ danh nhân Nguyễn Duy Thì (1572 - 1652) tọa lạc tại quê hương ông: thôn Yên Lan, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyêntỉnh Vĩnh Phúc. Tại phủ đường nơi ông làm việc khi về quê, sau khi ông mất, nhân dân sử dụng làm đền thờ.

Nguyễn Duy Thì là một danh nhân văn hóa tầm cỡ quốc gia. Tại khoa thi năm Mậu Tuất (1598) đời vua Lê Thế Tông, Nguyễn Duy Thì đỗ Tiến sĩ năm 27 tuổi, được triều đình Lê Trịnh trọng dụng. Ông đã hai lần đi sứ Trung Quốc (năm 1606 và 1620) được cả triều đình nhà Minh nể phục. Sách “Toàn Việt thị lục” của Lê Quý Đôn đã có những dòng chữ trang trọng khắc ghi về uy danh Tướng công Nguyễn Duy Thì. Suốt 50 năm làm quan, ông lần lượt được thăng chức từ Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, đến những chức ngang hàng Tể Tướng, giúp chúa Trịnh điều hành mọi công việc trong phủ Chúa.

Nguyễn Duy Thì là một trí thức có vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời Lê Trung Hưng, ông đã đem hết sức mình cống hiến cho sự ổn định tình hình chính trị đất nước ở buổi đầu thời Lê Trịnh, trong thì giữ yên chính trị, ngoài thì trấn áp phản loạn, khôi phục mối bang giao hữu hảo với phía Bắc, giữ gìn tình cảm truyền thống người Việt với nhà Nguyễn ở phía Nam; một lòng trung quân, ái quốc, thương dân.

Đền thờ ông tọa lạc trên một khu đất bằng phẳng, thông thoáng tại khu Độc Lập, đền thờ Tướng công Nguyễn Duy Thì được xây dựng theo kiểu dáng nhà tiền tế có 5 gian, 24 cột gỗ lim, qua một khoảng sân hẹp vào từ đường 5 gian, tạo thành hình chữ “Nhị”. Gian giữa đặt ngai thờ. Hai bên đặt bàn thờ. Trải qua hàng trăm năm tồn tại, di tích vẫn khá chắc khoẻ, thoáng đãng, mát mẻ, mang rõ nét dấu ấn của loại hình kiến trúc thế kỷ 17 ở vùng nông thôn trung du Bắc Bộ.

Trong đền hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật, tư liệu quý: chiếc đòn võng gỗ mít ông vẫn dùng khi đi từ triều đình về quê và ngược lại, một bản chúc thư gồm 188 trang chữ Hán do công thần Nguyễn Duy Trực sao lại năm 1780 với nội dung ghi các chức tước và ruộng đất được ban cấp của ông, 34 đạo sắc phong nguyên gốc và nhiều hiện vật là đồ thờ tự tại đền có niên đại thế kỷ 17 bao gồm: ngai ỷ, án gian, chấp kích, bát bửu và hệ thống hoành phi, câu đối ca ngợi tài đức, công lao của Nguyễn Duy Thì trong nửa thế kỷ làm quan.

Ghi nhận những giá trị kiến trúc và văn hóa đó, năm 1993, UBND tỉnh Vĩnh Phú cũ (nay là Vĩnh Phúc) đã công nhận đền thờ Tướng công Nguyễn Duy Thì là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Hàng năm vào ngày 11 tháng 9 âm lịch, kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Duy Thì, nhân dân địa phương, nhân dân các xã trong vùng với lòng thành kính đã về dâng hương tưởng niệm tại di tích, nhiều trò chơi dân gian mang sắc thái truyền thống quê hương cũng được tổ chức, như chọi gà, chơi đu, cờ người rất tưng bừng náo nhiệt.( http://mobile.coviet.vn/)

4.32. Đền thờ Nguyễn Cảnh Hà ở Nghệ An

Nguyễn Cảnh Hà (1583-1645) giữ chức Thiếu phó Tả tư mã Đô úy tước Thắng quận công. Người gốc xã Ngọc Sơn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Làm tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Ông là đời thứ 7 của dòng họ Nguyễn Cảnh nổi tiếng ở Nghệ An, xuất thân trong gia đình tướng lĩnh nhiều đời làm tướng. Ông nội là Thái phó Tấn quốc công Nguyễn Cảnh Hoan, cha Thái bảo Tả tư không Thư quận công Nguyễn Cảnh Kiên, mẹ người họ Nguyễn ở huyện Chân Phúc (nay là huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An) cháu mấy đời của Cương quốc công Nguyễn Xí. Do có nhiều công lao với triều đình, ông được chúa Trịnh ban quốc tính nên còn có tên gọi khác là Trịnh Tông.

Hiện nay ông được phối thờ cùng đền thờ cha là Nguyễn Cảnh Hoan tại xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An

4.33. Đền thờ Tham Đốc Lỵ Quận công Nguyễn Cảnh Cống

 Nguyễn Cảnh Cống(1585-19/5/1643) Tham đốc Đô úy Lỵ quận công; người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An làm tướng trong triều đình Hậu Lê Việt Nam.

Ông là đời thứ 7 của dòng họ Nguyễn Cảnh tại Nghệ An; Cha là Thái Bảo, Thư Quận công Nguyễn Cảnh Kiên,vợ ông là Trịnh Thị Ngọc Thịnh con gái của Bình An Vương Trịnh Tùng, có 2 con trai cũng làm tướng cùng Triều: Thọ lộc hầu (không rõ tên) và Tùy trung hầu Nguyễn Cảnh Sử. Hậu duệ hiện nay tập trung chủ yếu tại xã Thanh An, huyện Thanh Chương

Ông được thờ tại Trang Tảo Nha (căn cứ địa). Ở đây thờ 2 vị: Lỵ Quận công và Thọ Lộc hầu.

4.34. Đền thờ Nguyễn Đăng Cảo ở Hoài Bão, Bắc Ninh

Nguyễn Đăng Cảo (chữ Hán: 阮登鎬, 1619-?), người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Năm 28 tuổi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (tức Thám hoa) khoa thi Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái thứ 4 (1646) thời Lê Chân Tông Do khoa thi này không lấy Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (trạng nguyên) và Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (bảng nhãn) nên ông là người đứng đầu trong số những người thi đỗ khoa này. Sau ông lại đỗ đầu khoa Đông các và làm quan Đông các Đại học sĩ (1659).

Hiện nay làng Hoài Bão có đền thờ thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, Quang tiến thân lộc đại phu Đông các đại học sĩ và đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo gần đình làng.(Vietgle.vn)

Vừa qua, đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo được tôn tạo lại với kinh phí 200 triệu đồng vừa giữ được kiến trúc cổ vừa đảm bảo tính bền vững và khang trang hơn. Đền do ông Nguyễn Đăng Tuý, 45 tuổi, hậu duệ Trạng nguyên trông nom. Đền thờ Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo do cụ Nguyễn Đăng Mễ, 84 tuổi trông nom. Ngoài những hoành phi, câu đối, sắc phong, gia tộc còn giữ được bản Gia phả ghi chép khá nhiều tư liệu quý về dòng họ, trong đó có cả những danh nhân khoa bảng. Bản Gia phả này truyền đến đời thứ 20 thì đã cũ nát, năm 1985 cụ Nguyễn Đăng ấu, trưởng đời thứ 20 dòng Trạng nguyên và cụ Nguyễn Đình Hoè, tự Quế Sơn, hậu duệ đời thứ 18 chi Đại Sơn phụng sao chép lại như bản cũ trên giấy dó, có bổ sung phần phiên âm Hán Việt.( http://baobacninh.com.vn/)

4.35. Đền thờ Nguyễn Quán Nho ở Thiệu Hưng Thanh Hoá 

Nguyễn Quán Nho (1638-1708)  là người làng Đông Triều, xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên, thuộc thừa tuyên Thanh Hóa thời Hậu Lê; sau Cách mạng tháng Tám (1945) là làng Dương Hòa, xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Hóa và nay thuộc tiểu khu 8, thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Quán Nho là quan nhà Lê trung hưng.

Năm 1693, Nguyễn Quán Nho được thăng làm Thượng thư bộ Binh. Ông ở ngôi tể tướng 5 năm, làm việc giản dị, không giấu giếm. Ngày 12 tháng 8 năm 1708, ông qua đời, thọ 71 tuổi.

Sách Đại Nam quốc sử diễn ca ghi nhận người con quê Thanh này là “Bởi ai thiên hạ âu ca. Chẳng quan Tham tụng Vạn Hà là chi”. Về nơi Cửu tuyền ông được nhà Lê phong là Trung đẳng thần, đến thời Nguyễn gia phong là Cương ý rực bảo trung lương, thượng đẳng thần. Năm 1993 ông được nhà nước ta công nhận là Danh nhân văn hóa cấp quốc gia.

Đền thờ ông tại thôn Dương Hòa xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Hóa của tỉnh Thanh, ở đây người dân Vạn Hà còn mãi truyền tụng về gương sáng hiếu học của chàng Nguyễn Quán Nho mà họ yêu mến gọi bằng cái tên “chàng Cháy”.( lichsuvietnam.vn)

4.36. Đền thờ Nguyễn Đăng Đạo tại làng Bịu Bắc Ninh

Nguyễn Đăng Đạo (chữ Hán: 阮登道, 16511719) là một trong số rất ít trạng nguyên làm quan tới chức tể tướng. Nguyễn Đăng Đạo tự là Thất, thụy Đôn Nhã, trước tên húy là Đăng Liễn, sau đổi là Đăng Đạo. Ông ở xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, Bắc Ninh nay là thôn Hoài Thượng, xã Liên Bão, là con trai thứ hai của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh (đỗ năm 1646), cháu họ Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo (đỗ năm 1646), em Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân (đỗ năm 1673). Năm 33 tuổi Nguyễn Đăng Đạo đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 (1683) đời vua Lê Hy Tông. Năm Đinh Sửu (1697) ông được cử đi sứ sang nhà Thanh thương lượng về việc đòi lại 3 động: Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viện thuộc huyện Vị Xuyên, xứ Tuyên Quang. Với trí thông minh và tài ứng đối ông đã làm cho sứ thần nhà Thanh cảm phục, triều đình kính nể, suy tôn làm “Đệ nhất khôi nguyên của Bắc Triều” và phong tặng là Lưỡng quốc trạng nguyên. Ông làm quan trải các chức: Đô ngự sử, Nhập thị kinh diên, tước Thọ Lâm tử, thăng Binh bộ Thượng thư, Tham tụng kiêm Đông các đại học sĩ, tước Bá. Năm Mậu Tuất (1718) ông về hưu tại quê nhà, tạ thế năm Kỷ Hợi, thọ 69 tuổi, khi mất được tặng Lại bộ Thượng thư tước Thọ quận công. Tác phẩm tiêu biểu của ông có 8 bài thơ chữ Hán chép trong 'Toàn Việt thi lục

Đền thờ Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo tại làng Bịu, Bắc Ninh được Bộ VHTT xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa theo quyết định số 226/VH - QĐ, ngày 5/02/1994. Ông còn được phối thờ vời Thành hoàng làng ở đình làng Hoài Thượng (http://hannom.vass.gov.vn/)

4.37. Đền thờ Nguyễn Bá Lân ở Cổ Đô, Ba Vì, Hà Nội

Nguyễn Bá Lân (阮伯麟, 1701-1785) là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Thượng thư Nguyễn Bá Lân quê làng Cổ Đô, phủ Tiên Phong, trấn Sơn Tây (nay là thôn Cổ Đô, xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, TP Hà Nội). Quê tổ 3 đời của ông ở làng Hoài Bão, Tiên Du, Bắc Ninh giỏi phong thuỷ, thích phong thuỷ làng Cổ Đô nên dời đến đây. Ông là người văn võ kiêm toàn, có tài "đánh dẹp" và "vỗ yên", nhiều lần được chúa Trịnh cử đi trị loạn như: phá tan vụ trộm cướp ở Sơn Tây và Thái Nguyên (1737); đánh bọn Duy Mật (1740), đánh đạo Đà Giang... đặc biệt, ông có công lớn trong đợt trấn ải ở biên cương Cao Bằng.

Năm Canh Thìn (1760), cảm phục ân đức và ngưỡng mộ công lao của Nguyễn Bá Lân trong những năm trấn ải ở vùng biên cương, nhân dân Cao Bằng đã làm một bức trướng gấm vẽ hoa rồng để mừng Cụ và một bức trướng văn gửi lên chúa với tiêu đề: "Cao Bằng đất khách hạ trướng văn". trong bức trướng có đoạn: "Thị lang họ Nguyễn, trước khi lên trấn trị Cao bằng, giặc cỏ nổi lên khắp nơi, đói rét triền miên, ông không chút phiền lòng, không hề động binh, cũng không hề dùng một mũi tên, chỉ chiêu dụ vỗ về, vậy mà mọi thứ trở về như cũ, thu dẹp tàn dư binh đao, kẻ lưu vong trở lại, giảm bớt binh biến, nới lỏng thuế khoá, khôi phục nghề nghiệp, do vậy kẻ khốn được hồi sinh, người nạn được cứu giúp, khách buôn bám trụ lại nhờ đó mà an dân, cho nên một thời ca ngợi ông, hết thẩy xa gần nhớ đức trị của ông mà không trái lệnh. Trăm năm ơn nhiều ông lúc trấn trị, ơn nhờ thi thư mà đưa ra phép trị nước tốt như vậy, âu cũng là bậc hào kiệt". Hiện nay bức trướng văn này được phục chế và lưu lại tại đền thờ Nguyễn Bá Lân.

Năm 1770, theo Lịch Triều hiến chương loại chí, của Phan Huy Chú "khi triều đình bàn đến công dẹp giặc, công đứng đầu, được thăng lên Thượng thư Bộ Lễ, rồi đổi sang Thượng thư Bộ Hộ, hàm Thiếu bảo, bậc Ngũ lão hầu chúa.

Xét đến công trạng của Cụ Nguyễn Bá Lân Tiên Thánh Vương đã phong cho Cụ là Thành hoàng Ngũ xã (linh thần chi phù), qui định hàng năm tế lễ Cụ vào ngày 27 tháng Giêng và 3 năm tổ chức một lần đại lễ.

Để tưởng nhớ đến những bậc tiền nhân có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước, ngày 23 tháng 12 năm 1995, Viện Sử học Việt Nam và Uỷ ban nhân dân huyện Ba Vì đã tổ chức Hội thảo khoa học “Danh nhân Nguyễn Bá Lân”. Tham dự hội thảo đã có các nhà sử học ở Viện sử học Việt Nam; Viện nghiên cứu Hán- Nôm; Viện Văn hoá dân gian. Hội thảo đã đánh giá và khẳng định một cách công bằng, khoa học về Nguyễn Bá Lân. Với gần 20 bài tham luận, hội thảo đã tập trung trình bày những nét cơ bản về quê hương của Nguyễn Bá Lân, về gia phả, tộc phả của dòng họ Nguyễn Bá và những di tích, di vật còn lưu giữ được có liên quan đến Nguyễn Bá Lân. Đặc biệt, nhiều bài tham luận đã tập trung về con người và sự nghiệp của Nguyễn Bá Lân, vào thời đại mà ông đã sống thể hiện trên một số mặt chính trị, xã hội, văn hoá, trong đó đã nêu bật được nhân cách cao thượng của ông và những giá trị thơ văn của ông còn lưu giữ được.

Ngày 25 tháng 02 năm 2000, tại Trung tâm hoạt động văn hoá khoa học Văn Miếu- Quốc Tử Giám Hà Nội: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Hà Tây; Uỷ ban nhân dân huyện Ba Vì; Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam; Trung tâm Văn Miếu- Quốc Tử Giám Hà Nội đã đứng ra tổ chức Lễ kỉ niệm 300 năm ngày sinh của danh nhân nguyễn Bá Lân (1700- 2000). Đây là sự quan tâm của hậu thế đối với các danh nhân có công trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Ngày 18 tháng 02 năm 2004, Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) đã có Quyết định số 04/2004 xếp hạng Bằng di tích quốc gia: “Mộ và đền thờ Nguyễn Bá Lân” ở thôn Cổ Đô, xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. (http://caobangpro.com/)

4.38. Đền thờ Nguyễn Hữu Dật ở Thạch Xá, Quảng Bình

 Nguyễn Hữu Dật (chữ Hán: 阮有鎰, 16031681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ hầu. Sau khi mất, ông được nhân dân ở Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá.

Nguyễn Hữu Dật sinh năm Quý Mùi (1603) là con của Nguyễn Triều Văn, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Triều Văn cùng một ông tổ (năm đời) với Nguyễn Hoàng, theo chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa được phong làm Tham Tướng Chưởng Cơ. Từ nhỏ Nguyễn Hữu Dật là một con người thông minh và có tài văn học, năm 16 tuổi (1619) ông được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên bổ làm Văn chức, sau đó ông làm tham mưu cho cha mình tham dự các trận đánh lớn quân Trịnh ở phía Bắc lập được nhiều công lớn, được thăng chức Đốc Chiến, Chưởng dinh Tiết Chế tước Chiêu Võ Hầu (năm 1655).

Trong đời các chúa Sãi, Chúa Thượng, Chúa Hiền, cùng với Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Tiến, ông là một trong ba nhân vật trụ cột, đã có nhiều đóng góp đáng kể cho công cuộc mở nước, xây dựng bờ cõi, chống lại với các thế lực quân Trịnh ở Đàng Ngoài. Vào các năm 1648, 1660, ông cùng Nguyễn Hữu Tiến đem quân vượt sông Gianh chiếm đất Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hóa, xây dựng hệ thống phòng thủ ở lũy Nhật Lệ, Trường Sa, Đồng Hới (Quảng Bình). Từ năm 1663 cho đến khi qua đời, Nguyễn Hữu Dật được phong làm Chưởng Dinh Tiết Chế Đạo Lưu Đồn, Trấn thủ dinh Bố Chính.

Tháng 3 năm Tân Dậu (1681) Nguyễn Hữu Dật qua đời tại Quảng Bình, thọ 78 tuổi, được chúa Nguyễn Phúc Tần truy tặng: Tán Trị Tĩnh Y Vệ Tả Quân Đô Đốc Phủ Chưởng Phủ Sự Chiêu Quận Công. Sử nhà Nguyễn khen ngợi: “Nguyễn Hữu Dật là người sáng suốt, có tài thao lược, đầu tư cách văn chức được dùng làm giám chiến, danh vọng vốn đã rõ ràng, đến khi làm tướng thì nhiều lần dựng bày mưu lớn, đương thời lấy ỷ làm trọng, từng ví mình với Khổng Minh, Bá Ôn”. Sau khi ông mất dân Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ông ở Thạch Xá. Năm Gia Long thứ 5 (1807) được Tòng tự ở Thái Miếu, năm Minh Mạng thứ 12 (1832) được phong Tĩnh Quốc Công. Hai con trai của ông là Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Cảnh cũng có những đóng góp đáng kể cho các chúa Nguyễn, đặc biệt Nguyễn Hữu Cảnh được phong tước Lễ Thành Hầu, chức Chưởng binh, người có công rất lớn trong công tác bình định, khai hoang lập ấp ở miền Nam.

Miếu thờ Nguyễn Hữu Dật tại Xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

 

Theo các nguồn tư liệu lịch sử cho biết: Năm 1635 chúa Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, ngôi vị được truyền lại cho chúa Nguyễn Phúc Lan. Qua gần 10 năm phát triển, lực lượng đã lớn mạnh gấp nhiều lần so với trước kia. Các tổ chức chính trị, hành chính, quân sự, kinh tế được tăng cường đầy đủ nhiều hơn. Đến lúc này, Phước Yên trở thành “đất đai chật hẹp”, không đủ chỗ cho các cơ quan, dinh trại tọa lạc nữa, chúa Nguyễn Phúc Lan quyết định và đến tháng Chạp năm Ất Hợi (1636) thì dời vào phủ Kim Long, “là nơi núi sông đẹp tốt".

Từ đó phủ Phước Yên tồn tại với nhiệm vụ của một hành cung như các dinh khác, thỉnh thoảng các chúa ghé nghỉ ngơi mỗi khi đi kinh lý vùng phía Bắc...tháng 4 năm Giáp Thân (1644), chúa Nguyễn Phúc Lan sai “dựng miếu Hi Tông (thờ chúa Nguyễn Phúc Nguyên) ở dinh cũ Phước Yên” và cho người phụ trách coi giữ miếu thờ này, đó là Huân liệt công thần cai đội Duyệt Đức Hầu Hoàng Văn Duyệt.

Khoảng năm 1681, khi Nguyễn Hữu Dật qua đời, chúa Nguyễn Phúc Nguyên được đưa về thờ ở phủ Kim Long, thì nơi này sử dụng để thờ Nguyễn Hữu Dật - người có công lao giúp các chúa Nguyễn giữ yên bờ cõi ở phía Bắc, ổn định tình hình chính trị và phát triển ở vùng đất mới. Đồng thời bằng cách đó chúa Nguyễn Phúc Lan muốn để cho hậu thế biết được nơi đây là “đất thiêng” đã một thời là thủ phủ Đàng Trong. Nhân dân Phước Yên thờ tự, chăm sóc cho đến ngày nay.

Trải qua thời gian, chiến tranh và sự tàn phá của khí hậu miền Trung, Miếu đã bị tàn phá và xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2000, nhân dân địa phương đã đóng góp kinh phí để trùng tu và sửa chữa lại ngôi miếu. Trong lần xây dựng này, ngôi miếu được mở rộng thêm phần Tiền Đường ra phía trước, còn phần Nội Điện vẫn được giữ nguyên trên nền móng của ngôi miếu.

Miếu thờ Nguyễn Hữu Dật nằm ở vị trí trung tâm khu vực Phủ Phước Yên, mặt quay về hướng Tây Nam, cách sông Bồ (Bến Ngự Hà) khoảng 160m, miếu ẩn dưới tán cây cổ thụ, tọa lạc trên thửa đất có ký hiệu T , xung quanh là ruộng lúa, hoa màu của dân làng Phước Yên, gồm: Bình phong; Sân và Miếu thờ (Tiền đường và hậu điện).

Trong đó: Bình phong cao 1,4m, dài 2,5m, được xây đặc theo kiểu cuốn thư, phía trước đắp chữ Thọ, bằng chất liệu xi măng bột màu, phía sau đặt một đỉnh ximăng để thắp nhang và đốt vàng mã trong những lần lễ, kỵ. Giữa bình phong và miếu là khoảng sân hẹp được đúc bằng xi măng, có chiều dài 6m, chiều rộng 6m (diện tích 36m2). So với các công trình kiến trúc dân gian thờ tự ở Thừa Thiên Huế, thì miếu thờ Nguyễn Hữu Dật có quy mô không lớn và cách thờ tự cũng đơn giản, phía trước là phần Tiền Đường nhỏ, hình chữ nhật, diện tích 11,25m2 (4,5m x2,5m), để trống, phần mái đổ bê tông cốt thép, hai đầu hồi được gắn hình tượng “Long hồi” ở giữa là “Mặt nguyệt”. Tất cả được ghép bằng chất liệu sành sứ, màu sắc hài hòa đã làm cho phần mái nổi hẳn lên. Đây là kiểu kiến trúc theo đề tài “Lưỡng long chầu nguyệt” ở các công trình kiến trúc dân gian xứ Huế mà chúng ta thường gặp. Phần dưới của nhà tiền đường được thiết kế đơn giản, ở giữa là hai cột trụ đặt trên hai chân đá tảng hình quả bí tròn bằng bê tông, hai bên là bức tường vách, nối liền với mái và hậu điện, phía trước tường vách là hai câu đối chữ Hán viết bằng màu, nội dung ca ngợi cảnh sông núi hữu tình, ơn đức của các chúa Nguyễn cũng như niềm vui thái bình của vùng đất Phước Yên. (http://dulich.thuathienhue.gov.vn/)

Miếu thờ Nguyễn Hữu Dật - di tích quí hiếm về thời kỳ các chúa Nguyễn trên đất Thừa Thiên Huế

Những công lao đóng góp của Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật gắn liền với quá trình phát triển lớn mạnh, mở mang bờ cõi, xây dựng và củng cố lực lượng của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đặt cơ sở cho bước đầu xây dựng và phát triển của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế sau này. Vậy nên, việc tồn tại miếu thờ Nguyễn Hữu Dật không những thể hiện tình cảm, quí trọng của nhân dân địa phương đối với người có nhiều đóng góp to lớn đối với vùng đất trù phú này, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam mà đó còn là sự đánh dấu vai trò quan trọng trong việc phát triển thế và lực của các chúa Nguyễn.

Việc nghiên cứu xây dựng hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích miếu thờ Nguyễn Hữu Dật là một việc làm có ý nghĩa, giá trị nhân văn to lớn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân trong vùng, đồng thời phục vụ tốt công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ, nghiên cứu học tập của các đối tượng. Là cơ sở pháp lý để bảo tồn, gìn giữ và phát huy một cách tốt nhất, đầy đủ nhất những di tích quí hiếm về thời kỳ các chúa Nguyễn trên đất Thừa Thiên Huế.

Cùng với hệ thống các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Quảng Điền như Thành Hóa Châu, Khu di tích lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, phá Tam Giang, Phủ Bác Vọng... Miếu thờ Nguyễn Hữu Dật là một địa điểm tham quan du lịch hấp dẫn.( http://baodientu.chinhphu.vn/)

Ngày 17 tháng 3 năm 2011, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 606/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh đối với Miếu thờ Nguyễn Hữu Dật tại Xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang có đền thờ ông gọi là Dinh ông Chưởng và cù lao ông Chưởng (http://www.lichsuvietnam.vn/)

4.39. Thái miếu, miếu thờ Nguyễn Hoàng và lăng Trường Cơ

4.39.1. Dấu tích miếu thờ Nguyễn Hoàng ở Gio Linh, Quảng Trị

Nguyễn Hoàng (chữ Hán: 阮潢; 1525 – 1613) là con trai thứ hai của An Thành Hầu Nguyễn Kim, ông sinh ra ở Thanh Hóa. Theo Phả hệ họ Nguyễn ở Gia Miêu, ông là hậu duệ của Nguyễn Bặc

Dưới triều nhà Lê trung hưng, ông là một tướng tài lập nhiều công lớn, được vua Lê phong tước Thái úy Đoan Quốc Công. Năm 1545, cha ông là Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất đầu độc, quyền lực trong triều rơi vào tay anh rể ông là Trịnh Kiểm, anh cả là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, do lo sợ bị anh rể lúc đó đang kiểm soát binh quyền của nhà Hậu Lê sát hại và nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông xin vào trấn thủ ở Thuận Hoá (là khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay).

Nghĩ đến dấu tích và hành trạng dựng nghiệp của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trên đất Quảng Trị, người ta thường nhắc đến các địa danh mà Chúa đã lập dinh là Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát ở huyện Triệu Phong,. Hành trạng dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng ở Quảng Trị cũng như ở Đàng Trong rất phong phú, sống động. Nhắc đến tiếng tăm, công trạng của Nguyễn Hoàng lưu dấu trên đất Quảng Trị, không thể không nhắc đến ngôi miếu thờ Nguyễn Hoàng (còn được gọi là chùa Long Phúc) do nhân dân ngưỡng mộ và ghi ơn lập nên ở thôn An Nha, xã Gio An, huyện Gio Linh, sau khi Nguyễn Hoàng qua đời.

Nhớ ơn Nguyễn Hoàng, thế hệ con cháu dân các phường ở đây đã dựng nên miếu thờ Nguyễn Hoàng. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã khen ngợi việc dân lập miếu. Năm 1695, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đặt chức từ thừa, cấp bằng son và cho bày mũ, áo bào thần ngự ở miếu, như “Đại Nam thực lục” đã cho biết: “Đặt chức từ thừa ở miếu phường An Định Nha (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị). Buổi quốc sơ, các phủ đều dựng miếu để thờ các vị thánh vương trước. Dân ba phường An Định Nha, An Hướng và Phương Xuân thuộc tổng Bái Ân cảm nhớ công ơn Thái Tổ, dựng miếu thờ ở An Định Nha. Năm 1823, vua Minh Mạng được bề tôi tâu lên việc dân dựng miếu thờ Nguyễn Hoàng, “vua giao xuống bầy tôi bàn, đều cho là nhân dân thờ cúng không được, xin đình chỉ. Vua bèn sai đổi dựng làm chùa, cấp trước cho 100 lạng bạc, khi làm xong cho 300 quan tiền, trừ tô thuế hơn 70 mẫu ruộng đất công để dùng vào việc thờ cúng, đặt 3 người tự phu”. Như vậy, do vua Minh Mạng không cho dân thờ Chúa Tiên, vì việc thờ này phải do triều đình đảm trách, nên miếu thờ Nguyễn Hoàng đã đổi thành chùa Long Phúc (cũng còn gọi là chùa Long Phước).

Thuở trước, khách đi từ xa đã nhìn thấy được hình dáng ngôi miếu thờ Nguyễn Hoàng - chùa Long Phúc như L.Cadière đã mô tả trong “Bulletin des amis du Vieux Hué” (Những người bạn cố đô Huế): “Khách du lịch đi trên con đường địa phương vừa mới mở bao quanh Cồn Tiên có thể trông thấy được ngôi đền này trên địa phận làng An Định nhưng cách chợ Yên Gia rộng lớn khoảng một vài cây số”. Giờ đây, qua dâu bể thời gian, ngôi miếu đã không còn. Nhìn từ xa, chỉ thấy những lùm cây mọc lên um tùm trong hoang tịch. Lạ lùng là giữa những lùm cây này vút lên một cây bàng với thế dáng sừng sững, giang rộng “cánh tay” sang hai bên vừa để ôm đất thờ Chúa Tiên vào lòng, vừa như một chỉ dấu thề nguyền tưởng vọng Chúa Tiên.

Dấu tích còn lại là 4 hàng trụ đá nằm song song với nhau trên nền ngôi miếu xưa, nằm về hai phía, mỗi phía hai hàng gần nhau, mỗi hàng có 5 trụ đá, như vậy hiện còn tất cả là 20 trụ đá. Xung quanh nền đất dựng ngôi miếu xưa là những bờ thành bao bọc được xếp bằng đá. “Ai hay đá hát lời nguyền, Dẫu tan nát cả, còn nguyên lũy thành .

Ông Nguyễn Đăng Giả, 82 tuổi, ở thôn An Nha, Gio An, người mà thuở trai trẻ từng đánh trống tiểu cổ ở chùa Long Phúc, nhớ lại: “Chùa có hình bánh ít, có cột to, trở hướng ra phía Bắc. Chùa này linh lắm đó. Làng trích ra 5 sào ruộng để làm ruộng hương hỏa cúng chùa. Ruộng được chọn là ruộng nằm ở đầu nguồn của giếng Búng. Nước giếng Búng trước hết tưới cho ruộng hương hỏa đã, sau đó mới tưới đến ruộng dân”. Theo ông Giả cho biết, số ruộng hương hỏa làng An Nha trích ra là 5 sào, còn theo “Đại Nam thực lục”, số ruộng hương hỏa lên đến 70 mẫu, như vậy là còn có nhiều làng khác cùng trích ruộng ra để làm ruộng hương hỏa.Ngôi miếu được dựng hướng về phương Bắc, hẳn là khi chọn hướng miếu, những người dựng miếu đã hiểu được nỗi lòng đau đáu hướng về Đông Đô Thăng Long, hướng về quê cha đất tổ Tây Đô Thanh Hóa của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Và người xưa khi chọn đất dựng miếu, chắc chắn phải chọn nơi có thế đất tốt, theo quan niệm phong thủy. Nhắc đến chuyện này, ông Nguyễn Văn Phúng, 62 tuổi, ở thôn An Hướng, Gio An kể: “Năm 1993, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng cùng một cô sinh viên người Nhật Bản đã đến xem thực địa khu đất dựng miếu thờ Nguyễn Hoàng. Giáo sư nói khu đất này tốt, thế đất ở đây là thế “hoàng xà thính cáp” (rắn vàng rình con cóc). Xung quanh khu đất dựng miếu, có mấy chỗ đất nhô lên hình con cóc, nay đã bị san phẳng”.

Khu vực người xưa dựng miếu (về sau gọi là chùa) này đã được công nhận là di tích cấp tỉnh: ngày 20/8/2004, UBND tỉnh Quảng Trị đã cấp Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh cho chùa Long Phước (“Đại Nam thực lục” gọi là chùa Long Phúc).( http://vanhoanghean.com.vn/)

 4.39.2. Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu ở Huế) là miếu thờ các vị chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần. Miếu được xây dựng từ năm Gia Long thứ 3 (1804) ở góc đông nam trong Hoàng thành, đối xứng với Thế Tổ Miếu ở phía tây nam.  .

Qui mô và bố trí kiến trúc của Thái Miếu gần tương tự như Thế Miếu. Tòa điện chính kiến trúc theo lối nhà kép trùng thiềm điệp ốc, chính đường 13 gian 2 chái kép, tiền đường 15 gian 2 chái đơn. Phía đông điện chính là điện Long Đức, phía nam có điện Chiêu Kính. Đối diện với điện Chiêu Kính ở phía tây là điện Mục Tư, phía bắc điện này có tòa nhà vuông. Trước sân Thái Miếu có gác Tuy Thành (tên cũ là gác Mục Thanh), 3 tầng, hình thức tương tự như gác Hiển Lâm ở Thế Miếu. Hai bên gác Tuy Thành có tường ngắn, trên có lầu chuông, lầu trống, dưới trổ cửa vòm. Phía nam của gác Tuy Thành, 2 bên có nhà Tả Vu, Hữu Vu. Toàn bộ khu vực Thái Miếu có tường gạch bao bọc, trổ 5 cửa ra các phía. Các án thờ của chúa Nguyễn đều đặt trong tòa điện chính, bài vị phối thờ các công thần đặt ở Tả Vu và Hữu Vu. Lễ tế tổ chức 1 năm 5 lần vào các tháng manh xuân, manh hạ, mạnh thu, mạnh đông và quý đông. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầu năm 1947, khu vực Thái Miếu gần như bị thiêu hủy hoàn toàn. Năm 1971-1972, hội đồng trị sự Nguyễn Phước Tộc đã quyên góp và dựng lại 1 tòa nhà 5 gian trên nền cũ ngôi điện chính để làm nơi thờ tự các chúa Nguyễn. (http://dulichhue.com.vn/)

4.39.3. Lăng Trường Cơ của chúa Nguyễn Hoàng

nằm ở địa phận xã Hương Thọ , huyện Hương Trà , Thừa Thiên Huế, tập trung ở các làng La Khê Trẹm, Hải Cát, Kim Ngọc và Định Môn. Qua thời gian, một số lăng đang xuống cấp và bị người dân xâm hại nghiêm trọng. Điều này khiến cho chúng ta không khỏi buồn khi nghĩ về tiền nhân với công lao mở mang bờ cõi, định hình nước non

4.39.4. Chùa Hoằng Ân ở phố Xóm Chùa, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội nơi thờ Triệu tổ tĩnh Hoàng đế (Nguyễn Kim) và Thái tổ dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng) 

Hoằng Ân là một trong số rất ít những ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội, có từ thời Lý. Theo sách Tây Hồ chí, chùa ban đầu chỉ là một am nhỏ thờ Phật do thiền sư Ngô Ân (1019-1088) lập ra, sau dựng thành Báo Ân tự. Niên hiệu Thông Thuỵ (1034-1039) đời vua Lý Thái Tông, đạo sĩ Trần Tuệ Long đắc đạo, môn đồ thu xá lợi tại đây. Từ đó Báo Ân tự được nhiều vị cao tăng đến tu tập, tham thiền và dần dần trở thành một danh lam của Kinh thành Thăng Long.

Theo văn bia ghi lại, vào năm Vĩnh Tộ thứ 10 đời Lê Thần Tông (1628) chùa được trùng tu lớn và mở rộng bởi vợ chúa Trịnh Tráng (1623 - 1657) là Nguyễn Thị Ngọc Tú, sau đó chùa đổi tên thành Long Ân tự. Thời Nguyễn, nhân chuyến tuần du ra Bắc năm 1821 vua Minh Mệnh đã đến thăm chùa, lúc này đã được đổi tên thành Sùng Ân tự. Năm Tân Sửu (1841) vua Thiệu Trị cũng đến thăm chùa và cho tu sửa lại, rồi vì kỵ huý mà đổi tên thành Hoằng Ân tự. Chùa Hoằng Ân lưu giữ được 30 pho tượng có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Có những pho có giá trị nghệ thuật cao như tượng Quán Thế Âm Nam Hải, Tam Thế, A Di Đà. Tượng Di Lặc ngồi tự nhiên, nét mặt lạc quan vui vẻ... Gương mặt tượng Quán Thế Âm giống một bà mẹ hiền hậu với phong cách Việt Nam. Mỗi pho tượng Phật giáo có một dáng thiền khác nhau. Đặc biệt 3 pho tượng Át Nam Tôn Giả, Hộ Pháp Tam Châu, Giám Trai Sứ Giả ở các chùa khác đều tạc ngồi, nhưng ở chùa Hoằng Ân thì lại tạc ở tư thế đứng.( http://vanhien.vn/)

Điều đặc biệt tại đây có thờ hai bức tượng là Triệu tổ tĩnh Hoàng đế (Nguyễn Kim) và Thái tổ dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng) được đặt trang trọng ở ban thờ Mẫu.

Về hai pho tượng này vì sao lại có ở đây và có từ bao giờ? vẫn là một câu hỏi? bản thân thượng tọa Minh - người chủ trì tại đây đã lâu nhưng ông cũng cho biết là ông không biết. Theo tác giả cũng có thể nhớ công lao của bà Nguyễn Thị Ngọc Tú người đã có công trùng tu lớn và mở rộng chùa nên đã đưa những pho tượng này vào chùa theo tâm nguyện của bà vì ở đây có cả tượng của bà. Còn việc phong Triệu tổ tĩnh Hoàng đế và Thái tổ dụ Hoàng đế theo chúng tôi có thể là lúc vua Minh Mạng đến thăm chùa

4.40. Thái Miếu Nguyễn Phúc Nguyên và Lăng Trường Diễn

Nguyễn Phúc Nguyên (chữ Hán: 阮福源; 1563 – 1635) tức Chúa Sãi hay Chúa Bụt là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi từ1614 đến 1635) sau chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Trong thời gian ở ngôi chúa, ông đã xây dựng một vương triều độc lập ở Đàng Trong, từng bước ly khai khỏi chính quyền vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.

Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa của những kỳ công mở cõi

Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên qua đời năm 1635, hưởng thọ 73 tuổi. Con trai ông là Nguyễn Phúc Lan lên kế nghiệp, tức Thượng vương.

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng.

 Lăng Trường Diễn: tức lăng của Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Nguyên ở địa phận “núi xã Hải Cát, huyện Hương Trà”, nay là thôn Hải Cát, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà. Trước kia lăng ở Sơn Phận, huyện Quảng Điền, sau mới dời về đây. Lăng nằm ở phía tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 350m, cách trung tâm thành phố Huế 6km đường chim bay về phía tây nam. Lăng xoay về phía nam. Lăng cũng gồm hai vòng tường thành, mô thức và vật liệu xây dựng tương tự như lăng Trường Cơ, nhưng vòng thành trong cũng xây bằng đá bazan, phần mũ xây gạch vồ. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 4 thước 2 tấc” (120,5m), “cao 6 thước 3 tấc”(250cm). Vòng trong “chu vi 15 trượng 7 thước 6 tấc”(66,9m), thành “cao 5 thước”(202cm). Mộ cũng được xây 2 bậc, kiểu thức tựa như mộ lăng Trường Cơ. Tầng 1: rộng 210cm, dài 322cm, cao 17cm. Tầng 2: rộng 259cm, dài 372cm, cao 23cm. Hương án trước mộ xây thấp. Bình phong hiện không còn thấy dấu vết của trang trí. Mộ thấp, phẳng, gồm 2 tầng, hình khối chữ nhật. Tầng trên rộng 210 cm, dài 322 cm, cao 17 cm. Tầng dưới rộng 259 cm, dài 372 cm, cao 23 cm. Hương án trước mộ xây thấp, có hình khối đơn giản.

Lăng Trường Diễn nằm ở một vị trí rất hẻo lánh, cách xa đường giao thông và bị bao quanh bởi những bụi cây um tùm, việc tìm ra lăng là điều khá khó khăn. Vì vậy mà có rất ít dấu vết hiện diện của con người ở khu lăng mộ này. Không được chăm nom thường xuyên, cây dại đã bao trùm lên khuôn viên lăng, nhiều chỗ mọc quá đầu người. Nhiều đoạn tường thành của lăng đã xuống cấp và sụp đổ.( vi.wikipedia.org)

 4.41. Thái Miếu Thượng vương Nguyễn Phúc Lan Lăng Trường Diên

Thượng vương Nguyễn Phúc Lan (chữ Hán: 阮福瀾,1600 - 1648, ở ngôi 1635 - 1648) là chúa Nguyễn thứ 3 trong lịch sử Việt Nam, người gốc Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hoá, Việt Nam

Làm chúa được 9 năm lập được chiến công vang dội. Lần đầu tiên trong lịch sử thủy chiến, thủy quân Việt Nam đã đánh thắng thủy quân Âu Châu

Ông được nhà Nguyễn truy tôn miếu hiệu là Thần Tông, thụy là Thừa Cơ Toàn Thống Quân Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Vũ Hiếu Chiêu hoàng đế(vi.wikipedia.org/wiki)

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng.

Lăng Trường Diên: tức lăng của Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàn Đế Nguyễn Phúc Lan. Ở địa phận “núi An Bằng, phủ Thừa Thiên”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà. Lăng nằm bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông gần 2km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11km đường chim bay về phía tây nam. Lăng xoay mặt về hướng bắc. Kiểu thức xây dựng lăng mộ tương tự như hai lăng trên. Vòng ngoài “chu vi 29 trượng 3 thước 4 tấc”(124,5m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (251cm). Vòng trong “chu vi 16 trượng 1thước”(68,3m). Thành “cao 5 thước” (198cm). Mộ 2 tầng: Tầng 1 rộng 170cm, dài 214cm, cao 27cm. Tầng 2: rộng 187cm, dài 310cm, cao 23cm.

4.42. Thái Miếu Hiền vương Nguyễn Phúc Tần và Lăng Trường Hưng

  Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (chữ Hán: 賢王 阮福瀕, 1620 - 1687) là vị chúa Nguyễn thứ 4 trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1648 đến 1687. Lúc đầu, Nguyễn Phúc Tần được phong làm Thái phó Dũng Lễ Hầu. Ông là một võ tướng có tài. Năm Quý Mùi (1643) ông đốc suất các chiến thuyền vây đánh 3 chiếc tàu của quân Hà Lan tại cảng Eo làm 1 tàu chìm, hai chiếc kia bỏ chạy và một chiếc bị va vào đá ngầm chìm. Chúa Nguyễn Phúc Lan rất vui mừng và khen: “Trước kia tiên quân ta từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa.”

Nguyễn Phúc Tần lên ngôi ở tuổi 29, thường được gọi là Hiền vương. Quần thần tôn ông làm “Tiết chế Thuỷ bộ Chư dinh kiêm Tổng Nội ngoại Bình chương Quân quốc Trọng sự Thái bảo Dũng Quận công”. Hiền vương là người chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc, biết trọng nhân tài.

Ông qua đời, thọ 68 tuổi. Nhà Nguyễn sau truy tôn ông là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế.

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng

 Lăng Trường Hưng: tức lăng của Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế Nguyễn Phúc Tần, dân gian quen gọi là lăng Chín Chậu. Lăng thuộc địa phận “núi xã Hải Cát, phủ Thừa Thiên”, nay là thôn Hải Cát, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, nằm ở tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7km về phía tây nam. Lăng xoay mặt về hướng đông bắc. Lăng Trường Hưng mới được Nguyễn Phúc Tộc trùng tu năm 1996. Trong đợt trùng tu này có dựng thêm bia mộ bằng đá. Mặt trước bia đề dòng chữ Hán: “Thái Tông Hiếu Triết Trường Hưng Lăng”. Mặt sau có khắc tiểu sử và công trạng của chúa Nguyễn Phúc Tần bằng tiếng Việt. Mộ gồm 2 tầng, kiểu thức tương tự các lăng trên, nhưng trong đợt trùng tu vừa qua có làm 1 tầng dưới khá rộng. Tầng 1: rộng 193cm, dài 271cm, cao 22cm. Tầng 2: rộng 241cm, dài 326cm, cao 18cm. Tầng 3: rộng 345cm, dài 433cm, cao 7cm. Hai vòng thành bao quanh mộ có kiểu thức xây dựng tương tự các lăng vừa mô tả. Vòng ngoài “chu vi 25 trượng 9 thước 6 tấc” (210m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (257cm). Vòng trong “chu vi 12 trượng 4 thước 3 tấc” (52,8m), thành “cao 5 thước” (197cm). Phía trước lăng, bên ngoài hai vòng thành có một khoảng sân nhỏ. Trên sân có xây 10 chiếc chậu để trồng hoa và cây cảnh (vốn xưa chỉ có 9 chiếc nên dân gian mới gọi là lăng Chín Chậu). Phía trước còn có hệ thống bậc cấp đi lên sân gồm 7 bậc. Bậc cấp này mới được tu sửa lại.

4.43. Thái Miếu thờ Nguyễn Phúc Trăn (Nguyễn Phúc Thái) và Lăng Trường Mậu

Nguyễn Phúc Trăn còn gọi là Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái (阮福溱) là chúa thứ năm thời Nguyễn sáng nghiệp. Ông sinh năm Mậu Tý (1648). Năm Đinh Mão (1687), Nguyễn Phúc Tần mất, ông kế vị, khi ấy ông đã 39 tuổi nên mọi việc triều chính đều do ông trông coi cả. Sử chép ông nổi tiếng là người rộng rãi, giảm nhẹ hình phạt, thuế khoá, trọng dụng quan lại cũ, trăm họ đều vui mừng, nên nhân dân đương thời gọi là Nghĩa vương hay chúa Ngãi.

Tháng 7 năm Đinh Mão (1687), sau khi kế vị, ông cho dời phủ chúa sang làng Phú Xuân (Huế) lấy hòn núi Ngự Bình phía trước làm án đắp trường thành, xây cung điện thành một nơi danh thắng, còn phủ cũ ở Kim Long thì dùng làm miếu thờ Thái tông và các tiên chúa.

Năm Tân Mùi (1691), ông bệnh nặng qua đời, làm chúa được 4 năm, hưởng dương 43 tuổi.

Sau khi mất được triều đình dâng thụy hiệu là Đại Nguyên suý tổng quốc chính Hoằng Nghĩa vương. Sau này, nhà Nguyễn truy tôn ông miếu hiệu là Anh tông, thuỵ hiệu là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu nghĩa hoàng đế, an táng ở núi Kim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế, truy tôn vợ là Từ Tiết tĩnh mục Hiến phi. (http://vi.wikipedia.org/wiki/)

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng

 Lăng Trường Mậu: tức lăng của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế Nguyễn Phúc Trăn (Nguyễn Phúc Thái). Lăng thuộc địa phận “núi Kim Ngọc, huyện Hương Trà”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, nằm ở phía tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 1,5km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11km đường chim bay về phía tây nam. Lăng nằm trên một quả đồi cao, xoay mặt về hướng bắc, trước mặt lăng có hồ rộng. Cả lăng và mộ đều có kiểu thức xây dựng tương tự các lăng mộ trên. Nghĩa lăng có 2 vòng thành bao bọc, mộ phẳng, thấp, chia làm 2 tầng. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 7 thước 2 tấc”(121,7m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (250cm). Vòng trong “chu vi 15 trượng 8 thước 6 tấc” (67m), thành “cao 5 thước” (198cm). Mộ 2 tầng chữ nhật: Tầng 1: rộng 275cm, dài 350cm, cao 23cm. Tầng 2: rộng 534cm, dài 650cm, cao 18cm. Phía trước mộ có xây hương án, sau cổng có bình phong long mã tương tự các lăng trên.( http://www.hue.vnn.vn/).

4.44. Thái Miếu thờ Minh vương Nguyễn Phúc Chu và Lăng Trường Thanh

Minh vương Nguyễn Phúc Chu (chữ Hán: 阮福淍, 16751725) là vị chúa Nguyễn thứ sáu của chính quyền Đàng Trong (ở ngôi từ 1691 đến 1725). Minh vương là một vị chúa hiền và có tài. Khi mới lên ngôi, ông quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má lao dịch, bớt hình ngục. Ông còn cho xây dựng một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa Mỹ Am. Bản thân chúa cũng ăn chay ở vường Côn Gia một tháng trời, phát tiền gạo cho người nghèo. Bờ cõi yên ổn do chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm ngừng 30 năm.

Ông là người tiếp tục mở mang bờ cõi. Tháng 8 năm Nhâm thân (1692) vua Chiêm Thành là Bà Tranh, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Ông sai Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh, bắt được Bà Tranh và bề tôi là Kế Bà Tử cùng thân thuộc là Nàng Mi Bà Ân đem về Phú Xuân. Đổi đất Chiêm Thành thành trấn Thuận Thành.

Ông còn mở rộng bờ cõi đất đai xuống phía Nam, đạt được nhiều thành tựu như.

Lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương

Nhà Nguyễn truy tôn ông là Hiển Tông, thụy là Anh Mô Hùng Lược Thánh Minh Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh hoàng đế. (http://vi.wikipedia.org/wiki/)

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng

Lăng Trường Thanh: tức lăng của Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu. Lăng thuộc địa phận “núi Kim Ngọc, huyện Hương Trà”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng nằm trên đồi cao, xoay mặt về hướng đông nam, trước mặt là đồng ruộng. Kiểu thức lăng mộ tương tự các lăng mộ trên. Vòng thành ngoài của lăng “chu vi 28 trượng 4 thước 2 tấc”(120,5m), thành “cao 5 thước”(196cm). Vòng thành trong “chu vi 16 trượng 6 tấc”(70,3m), thành “cao 5 thước” (205cm). Mộ: Tầng 1: rộng 136cm, dài 212cm, cao 22cm. Tầng 2: rộng 193cm, dài 258cm, cao 27cm. Bình phong và hương án của lăng vẫn còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.

4.45. Thái Miếu thờ Nguyễn Phúc Chú (Thụ) và  Lăng Trường Phong

Nguyễn Phúc Chú còn có tên là Trú hay Thụ (1697-1738, ở ngôi chúa:1725-1738), là chúa Nguyễn thứ 7 trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chu và bà Từ Huệ phu nhân Tống Thị Được.

Năm 1725, ông nối ngôi lúc 29 tuổi, được tôn là Thái phó tước Đỉnh Quốc công, hiệu là Văn Truyền đạo nhân (vì mộ đạo Phật), đương thời gọi là Ninh vương (tục gọi là chúa Ninh).

Ở ngôi chúa 13 năm, chúa Nguyễn Phúc Chú qua đời vào ngày 20 tháng 4 năm Mậu Ngọ (7 tháng 6 năm 1738) lúc 42 tuổi.

Chúa Ninh được an táng tại lăng Trường Phong nằm trong khu Thiên Thọ Lăng (Lăng Gia Long) ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Triều thần dâng thụy hiệu cho chúa là Đại đô thống Tổng quốc chính Vũ Hiếu Ninh vương. Năm Bính Dần (1806), vua Gia Long lại truy tôn là Hiếu Ninh hoàng đế, miếu hiệu là Túc Tông, đưa long vị vào thờ tại Thái Miếu, án thứ ba bên phải.

Chúa Nguyễn Phúc Chú được đánh giá là người đã có công trong việc thiết lập đơn vị hành chính mới, giữ gìn và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng

 Lăng Trường Phong: tức lăng của Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chú (Thụ). Lăng ở “núi Định Môn, huyện Hương Trà”, nay thuộc làng Định Môn, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, ở tả ngạn dòng Tả Trạch, bên cạnh khe Trường Phong, cách bờ sông gần 2km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 12km về phía nam. Lăng xoay mặt về hướng chính bắc. Mô thức xây dựng lăng tương tự các lăng chúa khác. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 2 thước”(121m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (253cm). Vòng thành trong “chu vi 15 trượng 3 thước 2 tấc” (66,5m), thành “cao 5 tấc” (202cm). Mộ: Tầng 1: rộng 145cm, dài 251cm, cao 20cm. Tầng 2: rộng 210cm, dài 271cm, cao 22cm. Trước mặt lăng có một chiếc sân hình chữ nhật (7,5mx28m) và có hệ thống 18 bậc cấp để lên sân. Bình phong sau cổng vào lăng không còn giữ được các hình khắc nguyên bản.

4.46. Thái Miếu thờ Nguyễn Phúc Khoát và Lăng Trường Thái

Nguyễn Phúc Khoát (chữ Hán: 阮福闊), húy là Hiếu, còn gọi là Chúa Vũ (hay Võ Vương) (17141765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 (ở ngôi chúa: 1738-1765) trong lịch sử Việt Nam

Nguyễn Phúc Khoát sinh năm Giáp Ngọ (1714) đời vua Lê Dụ Tông. Ông là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chú và mẹ là Thục phi Trương Thị Thư

Năm Mậu Ngọ (1738), Nguyễn Phúc Khoát nối ngôi khi 24 tuổi, được quan triều tôn là Thái bảo Hiểu Quận công, lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân (vì ông chuộng đạo Phật).

Ông là vị Chúa hoàn thành công cuộc Nam tiến năm Đinh Sửu (1757). Chúa Vũ qua đời ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu (7 tháng 7 năm 1765), ở ngôi 27 năm, thọ 51 tuổi.

Chúa Vũ được táng tại lăng Trường Thái ở làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Đến đời vua Gia Long, Chúa Vũ được thờ tại Thái Tổ Miếu cùng với Nguyễn Hoàng (tức Thái Miếu trong Hoàng thành Huế), án thứ tư bên tả.

Lăng Trường Thái: tức lăng của Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát. Lăng ở “núi La Khê, huyện Hương Trà”, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông khoảng 500m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng cũng nằm trên một quả đồi cao, xoay về hướng chính bắc, trước mặt là đồng ruộng. Mô thức xây dựng lăng không khác gì các lăng trên. Vòng thành bao bọc bên ngoài “chu vi 29 trượng 9 thước 2 tấc” (126,8m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (253cm). Vòng trong “chu vi 14 trượng 4 thước 2 tấc” (61,2m), thành “cao 5 thước” (145cm). Hai tầng mộ: Tầng 1 rộng 250cm, dài 325cm, cao 28cm. Tầng 2 rộng 510cm, dài 610cm, cao 20cm. Bình phong trước mộ trang trí hai mặt, phía trước là con long mã, phía sau trang trí rồng, hiện còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.

4.47. Thái Miếu thờ Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và Lăng Trường Thiệu

Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (chữ Hán: 定王 阮福淳; 1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777) là Chúa Nguyễn thứ 9 trong lịch sử Việt Nam. Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi khi mới 12 tuổi.

Định Vương bị bắt trong trận đánh tháng 9 năm Đinh Dậu (1777) với quân Tây Sơn tại Long Xuyên (nay là Cà Mau) và bị Tây Sơn giết chết. Định Vương chết khi mới 26 tuổi, chưa có con trai nối dõi, mà chỉ có một Hoàng nữ là Nguyễn Phúc Ngọc Thục.

Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Duệ Tông, thụy là Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định hoàng đế. (vi.wikipedia.org/wiki/)

Ông được thờ ở Thái Miếu (tức Thái Tổ Miếu) cùng với Nguyễn Hoàng.

Lăng Trường Thiệu: tức lăng của Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thuần. Lăng thuộc địa phận “núi La Khê, huyện Hương Trà”, nay thuộc làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà. Trước kia lăng ở “địa phận huyện Bình Dương đất Gia Định, năm Gia Long thứ 8, rước về để ở đấy”. Lăng nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 400m, rất gần lăng Trường Cơ. Lăng xoay về hướng tây bắc. Kiểu thức xây dựng lăng mộ cũng tương tự như các lăng chúa khác. Vòng thành bao bọc bên ngoài lăng “chu vi 29 trượng 6 thước 6 tấc”(117,2m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (251cm). Vòng thành trong “chu vi 15 trượng 2 tấc” (64,4m), thành “cao 5 thước” (chỗ cao nhất chỉ là 190cm). Mộ lăng Trường Thiệu cũng gồm 2 tầng. Tầng 1 rộng 190cm, dài 233cm, cao 28cm. Tầng 2 rộng 250cm, dài 305cm, cao 35cm.ồ sộ đượcha đẻ của Gia Long, vị hoàng đế đầu tiên của nhà

4.48. Hưng Miếu hay Hưng Tổ Miếu thờ Thế tử Nguyễn Phúc Luân và lăng Cơ Thánh

Hưng Miếu hay Hưng Tổ Miếu (Hưng nghĩa là khởi nghiệp, nghĩa khác là thịnh vượng) là ngôi miếu thờ Thế tử Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị Hoàn - song thân của vua Gia Long. Vị trí ở tây nam Hoàng thành (cách Thế Miếu chừng 50 mét về phía Bắc), thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - HuếViệt Nam.

Năm 1765, Vũ Vương băng hà, để lại di chiếu truyền ngôi cho Nguyễn Phúc Luân. Nhưng quyền thần Trương Phúc Loan (lúc này đang là tể tướng Đàng Trong) cùng một số gian thần khác thay đổi di chiếu, lập em là Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ tuổi lên ngôi chúa để dễ bề giám sát, khống chế. Còn Nguyễn Phúc Luân thì bị tống giam vào ngục. Sau vì lo buồn, bị bệnh nên ông qua đời ở phủ đệ ngày 10 tháng 9 năm Ất Dậu (24-10-1765), hưởng dương 33 tuổi.

Tuy mất sớm (32 tuổi): nhưng ông đã để lại đến 6 người con trai và 4 người con gái, trong đó có Nguyễn Phúc Ánh, tức Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của Triều Nguyễn sau này.

Năm 1780Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Nhiếp Chính Vương, truy tôn cha mình tước Từ Tường Đạm Bạc Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang Vương.

Năm 1806,vua Gia Long truy tôn là Hưng Tổ Nhân Minh Cẩn Hậu Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang Hoàng Đế

Sau khi lên ngôi Hoàng đế năm 1802, vua Gia Long tìm lại mộ phần của phụ thân và xây dựng một ngôi miếu để thờ phụng. Theo sách sử triều Nguyễn, việc xây dựng được hoàn tất chỉ trong 4 tháng (tháng 4 năm 1804 đến tháng tháng 8 năm 1804) trên địa điểm của Thế Miếu ngày nay, chính thức sử dụng từ tháng 3 năm 1805, ngôi miếu khi ấy có tên là Hoàng Khảo Miếu (ngôi miếu dùng để thờ phụng vua cha).

Đến năm 1821, vua Minh Mạng cho dời Hoàng Khảo Miếu lùi về phía sau địa điểm cũ 50m để sử dụng khu đất của Hoàng Khảo Miếu xây Thế Miếu. Công việc di dời diễn ra từ 23-3 đến 16-4, sau khi hoàn tất ông cho đổi tên khu miếu thành Hưng Tổ Miếu.

Tháng 2 năm 1947, khu miếu bị đốt cháy cùng với Tử Cấm Thành và nhiều cung điện khác.

Năm 1950, Bảo Đại về Huế mua lại An Khánh Vương từ, vốn là nơi thờ một người dòng dõi hoàng tộc là An Khánh Vương Nguyễn Phúc Quang (con vua Gia Long) với giá 300.000 đồng (tiền lúc ấy) để xây dựng lại thành Hưng Miếu mới. Năm 1951, một nhà thầu lúc bấy giờ có tên là Nguyễn Ngọc Bang được giao việc dời An Khánh Vương từ về tái lập thành Hưng Miếu mới.

Năm 1995, Hưng miếu được trùng tu lại một lần nữa. Trong lần này miếu được sơn son thiếp vàng.

Kiến trúc của Hưng Miếu hiện tại có nền tảng từ An Khánh Vương từ. Nhưng vì mặt bằng của Hưng Miếu cũ nhỏ hơn An Khánh Vương từ nên khi xây dựng người ta buộc phải dời hai hàng cột mỗi bên và cắt bớt một số mái ở cả hai bên.

Trên một mặt bằng gần như vuông: 19m x 19,20m người ta cấu trúc tòa nhà theo thức trùng diêm và trùng lương của các cung điện khác ở Huế. Miếu là một ngôi nhà kép chừng 400m2 mái được lợp bằng ngói âm dương men vàng, nền cao 0,68 m bó bằng đá Thanh. Toàn bộ dàn trò (9 hàng cột tình từ trước đến dau và 8 hàng cột tính từ trái sang phải, kê chân trên đá tảng) cùng với các mảng trang trí đều được làm bằng gỗ quý: limsaokền kền,huê mộc. Tất cả các kèo điều được trang rất tinh xảo, mặt dưới và mặt trên đều được trạm trổ hoa lá và hình ảnh có tác dụng làm các bộ phận gỗ trở nên nhẹ nhàng. Các cột trốn tuy nhỏ, nhưng hai đầu được đẽo vuốt vào rồi nở ra hình hoa sen, rất ăn khớp với nhau. Giữa 2 cột trốn của mồi vì kéo còn dựng thêm các khung gỗ được chạm lộng hình kỷ hà với kích cỡ khác nhau thay đổi theo từng tầng.

Hệ thống liên ba chia làm 4 tầng mỗi tầng phân khoảng thành các ô hộc được trang trí theo lối Nhất thi Nhất họa khắc nổi nhiều chủ đề: đôi sáo, đàn tỳ, pho sách.. đôi chỗ còn có cả cây kiếm và cây như ý.

Mặt dưới mặt tiền hạ doanh được trang trí một dải bản gỗ hình chữ U chai ra làm ô hộc với lối trang trí giống hệ thống nhất liên hạ.

Hai giang áp chót đối xứng nhau dưới trần thừa lưu, có hai bức đố bằng gỗ được chạm nổi, chạm lộng, chạm kênh bông ở cả hai mặt trong và ngoài, ở chính giữa mỗi mặt là hình ảnh nổi của một trong 8 bát bửu.

Đằng trước miếu có một hàng cột gồm sáu cái đứng trên mặt sân được xây bằng xi măng giả đá. Ở đầu cột chắp hình hoa sen đỡ lấy con-xơn (console).

Phần chính doanh gồm có 3 gian và 2 kép, tiền doanh có 5 gian và 2 chái đơn. Mặt trước của mỗi chái đơn mà mộ mảng tường xây được trang trí chữ "thọ" cách điệu, có tác dụng tăng tính chụi lực.

Sân trước Hưng Miếu có hình chữ nhật (20m x 18,45m) được lát gạch bát tràng. Giữa sân là đường thần đạo lát bằng đá thanh, chạy từ bậc thềm ra đến Miếu môn phía trước rộng 2,15m. Song song với hàng cột hiên là dãy các chậu sứ trồng cây cảnh mỗi chậu đặt trên đôn bằng đá gồm 6 cái. Bên phải sân có một cái lư dùng để đốt tờ sớ.

Bên phải trái trong khuôn viên Hưng Miếu còn có hai ngồi nhà Thần Khố (nhà kho của Thần) và Thần Trù (nhà bếp của Thần). Các khuôn viên được bao bọc bằng một bức tường cao xây bằng gạch với 4 cửa đối xứng từng cặp: Chương Khánh, Dục Khánh, Trí Tướng và Ứng Tường. Bên trái khuôn viên hiện vẫn còn 2 bia đá: bia đá dựng năm 1804 khắc bài văn Ngự chế của Gia Long và bia đá dựng năm 1821 khắc bài văn Ngự chế của Minh Mạng nói lại lịch sử xây dựng Hưng Miếu và Thế Miếu. (http://vi.wikipedia.org/)

Lăng mộ Nguyễn Phúc Luân tại làng Cơ Chánh, xã Thuỵ Bằng, thành phố Huế xã Cư Chánh (Hương ThủyThừa Thiên). Năm 1790quân Tây Sơn quật hài cốt đổ xuống sông. Một ngư dân tên Nguyễn Ngọc Huyên và con lặn tìm được hài cốt đem lên chôn chỗ khác. Đến đời vua Gia Long, do Nguyễn Ngọc Huyên chỉ chỗ, hài cốt được đưa về táng chỗ cũ. Cải táng tại lăng Cơ Thánh, làng Cư Chánh, huyện Hưng Thuỷtỉnh Thừa Thiên. Lăng được xây lớn hơn trước.

Lăng Cơ Thánh là lăng của Nguyễn Phúc Luân nằm trên địa bàn làng Cơ Chánh, xã Thuỵ Bằng, thành phố Huế. Đây là khu lăng mộ đồ sộ được vua Gia Long xây dựng. Lăng Cơ Thánh còn được gọi là Lăng Sọ.

Ai ở xứ Huế quan tâm đến chuyện hưng vong của triều Nguyễn đều biết di tích lịch sử Lăng Sọ gắn liền với nhiều chuyện ly kỳ nhuốm “mùi” binh đao khốc liệt và đậm chất huyền linh. Lý lịch của Lăng Sọ đậm nét của đạo hiếu nghĩa của tình phụ tử và tính khảng khái của bậc quân vương “ơn đền - tội phạt”. Lăng Sọ - đúng như tên gọi nghĩa đen của nó, là nơi an táng sọ người. Dân gian đồn rằng chủ nhân của chiếc đầu lâu được an táng ở cổ mộ từng bị nhà Tây Sơn quật mồ là con của một vị chúa và là thân phụ của một vị vua. Một người quyền cao chức trọng như thế cớ sao chỉ được chôn cất phần đầu, còn phần thi thể thì nơi đâu, vì sao lại có sự lạ như vậy?!

Từ nội thành Huế, đi lên hữu ngạn sông Hương khoảng 8km người ta sẽ gặp khu lăng mộ bề thế nằm ven đường, ẩn dưới rừng thông đại thụ với bảng chú giải "Lăng Cơ Thánh". Quốc sử triều Nguyễn giải thích rằng "Cơ" có nghĩa nền tảng và "Thánh" là đạo đức thánh thiện. Khi được ghép với nhau, cụm từ Cơ Thánh hàm ý khó lòng lay chuyển đạo đức thánh thiện của các vị hoàng đế triều Nguyễn.

Lăng Cơ Thánh được dân gian quen gọi là Lăng Sọ. Một vài chú dẫn của các bậc cao niên và cả trong chính sử triều Nguyễn cho chúng ta biết rằng chủ nhân của Lăng Sọ chính là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế, con trai thứ 2 của Chúa Võ Vương, thân phụ của Vua Gia Long, người sáng lập vương triều Nguyễn với 13 đời vua trị vì trong 143 năm, mà vị vua cuối cùng là Hoàng đế Bảo Đại.

Lăng Sọ như những lăng vua chúa ngày trước tọa lạc trên đồi cao, lưng tựa núi, trước mặt có sông Hương làm "tự thuỷ", hai bên có núi chầu làm thế "tay ngai" (tả long hữu hổ). Khu vực tẩm (nơi chôn chiếc sọ Nguyễn Phúc Luân) được bao bọc bởi tường thành khổng lồ, quy mô hoành tráng với nhiều công trình nhưng phần lớn đã bị chiến tranh hủy hoại, chỉ còn lại khu vực chính, nơi có mộ hình vuông, 3 tầng chôn sọ Nguyễn Phúc Luân vẫn nguyên vẹn. Trước và sau mộ đều có bia đình đắp nổi hình rồng 5 móng, biểu hiện của bậc quân vương. Sự tài hoa của người thợ ngày trước giúp người ghé thăm nhận thấy con mãnh long này rất đặc biệt, nó có vẻ già nua, u uất nhưng lại toát quyền uy hơn những mãnh long tại các lăng vua Khải Định, Tự Đức, Thiệu Trị…

Sử nhà Nguyễn ghi Lăng Thoại Thánh được xây từ năm 1765, 25 năm sau lăng bị quân Tây Sơn quật, đến năm 1808 được Vua Gia Long cho xây lại ngay vị trí cũ. "Lăng Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế gọi là Lăng Cơ Thánh, ở núi Hưng Nghiệp, phủ Thừa Thiên. Bảo thành cao 6 thước 3 tấc, chu vi 28 trượng, xây gạch, trước mở một cửa, còn đằng trước làm bái đình hai cấp, tả hữu có lan can, phía đông làm điện Canh Y, phía tây làm Thần Khố, đều ba gian" - trích sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do nội các triều Nguyễn biên soạn.

 Trong gió lộng chiều tà, thả mình dưới gốc thông đại thụ hơn 200 năm tuổi với thân rễ u nần và thắp nén hương cho ngôi cổ mộ khổng lồ vốn dĩ chỉ có chiếc sọ của thân phụ Vua Gia Long, không khí liêu trai, có phần buồn thảm. Tiếng thông reo lao xao trong gió chiều như muốn kể lại câu chuyện buồn của vị "con chúa cha vua" lúc sống gặp tai ương, về trời lâm khổ nạn để rồi mộ phần bị bới quật, xương cốt bị ném xuống sông, nỗi buồn đau đến khôn tả!

Chính sử kể rằng: năm 1790, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Ngu đã cho quân quật mồ, bới mộ và bốc xương cốt của vị con chúa đã mất ném xuống khúc sông Hương đối diện lăng. Đang lúc đó thì tướng Ngu hay tin tư dinh của mình bị bốc cháy nên bỏ dở việc kéo quân về dập lửa. Nhân cơ hội ấy, một ngư dân làng Cư Chánh vốn có tình cảm với vị chúa bạc phận đã cùng các con nhảy xuống mò mẫm dưới sông sâu và vớt được hài cốt của vị chúa, chôn cất cẩn trọng. Năm 1801, tiến công vào Huế, nhận được tin ấy, Vua Gia Long đã chọn ngày lành tháng tốt an táng xương cốt thân phụ vào chỗ cũ và đến năm 1808 (có tư liệu ghi năm 1806) thì tiến hành xây dựng lăng mộ, đặt tên là Thoại Thánh, tức Lăng Sọ ở khu vực hiện tại.

Hành trình nhận cốt nhục của vua Gia Long

Quanh chuyện Nguyễn Phúc Luân bị quật mồ, dân gian lưu truyền truyền thuyết khác. Điều này được ông L.Cadière (Hội truyền giáo hải ngoại Paris) ghi chép vào năm 1923: "Xương cốt của chúa đã bị nhà Tây Sơn ném xuống sông, ngay trước mặt lăng hiện nay. Vào một đêm nọ, một ngư dân tên Nguyễn Ngọc Huyên khi kéo chiếc vó của mình lên thì thấy trong vó có một sọ người. Người ngư dân ném cái xương sọ đi xa, lần thứ 2 xương sọ lại xuất hiện trong chiếc vó của mình. Người ngư dân run sợ ném chiếc sọ đi và khấn thầm "nếu đây là chiếc sọ của ngài nào có quyền lực linh thiêng thì xin trở lại trong vó của tôi".

Và lần thứ 3, chiếc xương sọ lại xuất hiện. Thế rồi người ta cho rằng đó chính là xương sọ của hoàng đế và để nhận ra điều này, Vua Gia Long đã rạch cánh tay cho một giọt máu nhỏ lên xương sọ, ngay tức khắc giọt máu được chiếc xương khô hút lấy một cách khao khát, điều này đã minh thị tình máu mủ của cha con không thể nghi ngờ gì nữa".

Khi thấy chiếc sọ hút máu một cách khát khao, vị quân vương bật khóc trong sự vỡ òa của triều thần. Câu chuyện đậm chất liêu trai, huyền bí được ghi chép trong sử sách triều Nguyễn, được lưu truyền trong nhân gian như muốn truyền gửi thông điệp về tình phụ tử, về đạo làm con, bất kể người đó là vị vua đứng đầu thiên hạ nhưng luôn bỏng cháy nỗi hoài nhớ bóng hình người cha đã khuất đến lúc chết vẫn còn gặp sóng gió, tai ương!

Chuyện kể rằng sau khi làm lễ an táng long trọng chiếc sọ của thân phụ, Gia Long với niềm tin dưới đáy sông trước Lăng Sọ còn xương cốt của đấng sinh thành đã ban lệnh lấp toàn bộ hữu ngạn trước mặt lăng, xem đó là nấm mồ và bày biện hương án cúng tế linh đình, trang trọng. Khi mọi việc hoàn tất, Vua Gia Long đã cho đại thần mời gặp ông Nguyễn Ngọc Huyên, người tìm ra chiếc sọ của thân phụ rồi ban thưởng trọng hậu, phong tước cho ông này cùng các con cháu. Khi ông Huyên qua đời, triều đình đã ban đặc ân, cho lập miếu thờ nằm bên hông Lăng Sọ. 

Tính từ thời điểm mộ Chúa Nguyễn Phúc Luân bị tướng Tây Sơn quật mồ đến nay đã 222 năm, ngần ấy thời gian với quá nhiều biến chuyển của thời cuộc làm thay đổi vận mệnh của đất nước đủ để khép lại nhiều câu chuyện của một thời quá vãng. Nhưng với Lăng Sọ, những hiện thực lịch sử khốc liệt, ly kỳ, huyền bí ngày nào vẫn được người dân xứ Huế nằm lòng, lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Các bậc cao niên cũng kể rằng thời cha ông mình có truyền lại để canh giữ lăng, triều đình lập nên đội quân hộ lăng, biên chế quan đại thần nhị phẩm cả văn lẫn võ ngày đêm túc trực không cho bất kỳ ai đến gần. Và để cho nơi an nghỉ ngàn đời của vua cha thêm phần bình yên, tươi lạc, đích thân Vua Gia Long và sau đó là Vua Minh Mạng đã ban chiếu chỉ, đôn đốc việc trồng thông khắp khu vực này cũng như cúng nhiều vật quý như đồ tự khí bằng vàng, bạc, đồng, trang trí cành vàng lá ngọc quanh khu tẩm (mộ).  

Tồn tại đến nay đã hơn 200 năm, qua bao biến chuyển của thời cuộc, những đồ thờ tự quý giá ở Lăng Sọ không còn nữa nhưng dù sao, sự tồn tại của ngôi lăng, nơi yên nghỉ của vị "con chúa cha vua" với tường thành vững chãi qua trăm năm vẫn bao bọc khu tẩm có hình dáng lạ kỳ, và đặc biệt là những gốc thông đại thụ vững chãi, xanh mướt cũng đủ để an ủi thế nhân lắm rồi. Nhất là với những ai quan tâm đến triều Nguyễn xưa trong giai đoạn đất nước lâm vào cảnh nội chiến khốc liệt, mà cuộc chiến giữa Vua Gia Long và Vua Quang Trung là minh thị đậm nét nhất! (nguồn: http://antg.cand.com.vn/)

4.49. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh 

Nguyễn Hữu Cảnh (chữ Hán: 阮有鏡, 1650-1700), tên thật là Nguyễn Hữu Thành, húy Kính, tộc danh là Lễ , là một danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông được xem là người xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Sài Gòn-Gia Định vào năm 1698. Kể từ thời điểm đó, miền đất này chính thức trở thành một đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ Đại Việt, tức Việt Nam ngày nay. Ông sinh năm 1650 tại vùng đất nay là thôn Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Thiện. Ông mất ngày 16tháng 4 năm 1700.

Nguyễn Hữu Cảnh là người có công đầu trong việc hoạch định cương giới xóm làng, thiết lập hệ thống chính quyền..., ở vùng đất Nam bộ.

Với những công đức kỳ vĩ đó, để tưởng nhớ Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nhân dân lập nhiều đền thờ ông. Tại huyện Chợ Mới có ít nhất ba đền thờ tọa lạc tại các xã dọc theo con sông mang tên (chức) ông. Đó là các đền thờ tại xã Kiến An, tại thị trấn Chợ Mới (gần “Vàm Trước”), và tại đình Long Kiến (Dinh thờ và đình cũ lúc trước đều dựng ở hai bên đầu “Vàm Dưới” sông ông Chưởng, do bị đất lở sụp nhân dân dời đình và dinh vào trong và nhập lại làm một) - đây là di tích do nhân dân dựng lên thờ ông sớm nhất ở An Giang. Tại thị xã Châu Đốc cũng có “Đền Lễ công”. Về hai nơi thờ này (ở Long Kiến và ở thị xã Châu Đốc), “Đại Nam nhất thống chí” có ghi rõ: “Đền Lễ công: ở thôn Chu Phú, huyện Tây Xuyên, thờ Nguyễn Hữu Kỉnh. Đền do Nguyễn Văn Thụy (tức Thoại Ngọc Hầu) dựng khi làm Trấn thủ, nay hương lửa vẫn như cũ, thường tỏ anh linh. Lại ở bãi Cây Sao giữa sông Hậu Giang, là chỗ trước kia Lễ Thành Hầu thắng trận, trở về đóng ở đây. Sau khi chết, dân bãi lập đền thờ”. Và, để tưởng nhớ ông - người có đại công mở cõi về phương Nam mở đầu kỷ nguyên khai phá và phát triển vùng đất Nam bộ, năm 1998 TP Hồ Chí Minh đã tưng bừng tổ chức lễ hội “Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn – TP/HCM”. Dịp này ngành Bưu điện Việt Nam cũng đã cho phát hành con tem Bưu chính in ảnh tượng ông Nguyễn Hữu Cảnh thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, tôn kính và trân trọng đối với công lao trời biển của người mở cõi, giữ đất.

Quyển Sử Cao Miên của Lê Hương (Khai Trí xuất bản, 1970) có lời chua dưới một bức ảnh: Đền thờ ông Nguyễn Văn Thụy (Thoại) vị đại thần Việt Nam bên cạnh vua Cao Miên trong thời kỳ Việt Nam bảo hộ nước này. Đền thờ cất gần Chợ Mới (Phnom Penh) bị bắt buộc phải triệt hạ vào năm 1956.

Tuy nhiên, đây thực sự là đền thờ của Nguyễn Hữu Cảnh, vì bức ảnh cho thấy rõ tấm biển ở cổng ghi là Thượng đẳng thần. Điều này phù hợp với nhiều tài liệu lịch sử khác".

Nguyễn Hữu Cảnh mất được truy tặng Đặc Tấn Chưởng Dinh Tráng Hoàn hầu, thụy là Trung Cần (gia phả ghi tước và thụy được truy tặng lần sau cùng là Vĩnh An hầu, thụy Cương Trực).

Để tưởng nhớ công đức của Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nơi quê hương cũng như nơi ông đến an dân, nhân dân đều lập đền thờ hoặc lập bài vị ông, như ở Nam Vang (Campuchia), Quảng BìnhQuảng Nam, Cù lao Phố (Biên Hòa), Đình Minh Hương Gia Thạnhquận 5, TP. Hồ Chí MinhÔ Môn (Cần Thơ) và nhiều nơi trong tỉnh An Giang... Trong số này, có Lễ Công Từ Đường ở phường Châu Phú A (Châu Đốc, An Giang), do Thoại Ngọc Hầu đứng ra xây dựng. Theo Đại Nam nhất thống chí thì "Đền Lễ công: ở thôn Châu Phú, huyện Tây Xuyên, thờ Nguyễn Hữu Kỉnh. Đền do Nguyễn Văn Thụy (tức Thoại Ngọc Hầu) dựng khi làm Trấn thủ, nay hương lửa vẫn như cũ, thường tỏ anh linh.".

Ngoài ra, họ tên và chức tước của ông còn được dùng để đặt tên cho trường học, đường phố tại nhiều địa phương...Vừa qua, nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tôn tạo khu lăng mộ của ông tại Thác Ro thuộc huyện Lệ Thủy. Năm 2009, sách Kỷ lục An Giang 2009, cũng đã công nhận ông là "người đầu tiên có công khai mở vùng đất An Giang" .

Văn thơ ca ngợi, truyền tụng công đức Nguyễn Hữu Cảnh còn lưu giữ khá nhiều, trích một đoạn:

Từ ngày vâng lịnh Trấn Bình Khương,

Bờ cõi mở thêm mấy dặm trường,

Vun bón cột nền nơi tổ phụ

Dãi dầu tên đạn giúp quân vương

Giặc ngoài vừa nép bên màn hổ

Sao tướng liền sa giữa giọt tương!

(Bài thơ đặt nơi sắc phong tại đền Lễ Công ở Châu Phú)

4.50. Lăng Thoại Ngọc Hầu nơi thờ Nguyễn Văn Thoại

Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) tên thật là Nguyễn Văn Thoại. Do có công lớn nên được chúa Nguyễn phong tước hầu. Ngoài ra cũng vì có công “bảo hộ” Cao Miên nên còn được gọi là Bảo hộ Thoại.(Thoại là tên của ông, Ngọc chỉ là mỹ tự dùng làm tên đệm, Hầu là tước phong).

 Ông mất ngày 6-6 năm Kỉ Sửu (1829) tại nhiệm sở Châu Đốc lúc đang tại chức, thọ 68 tuổi, an táng tại triền chân núi Sam. Sau khi ông mất ông được vua Minh Mạng truy phong Tráng võ tướng quân trị quốc đô thống. (http://www.lichsuvietnam.vn/)

Lăng Thoại Ngọc Hầu còn gọi là Sơn Lăng, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Samthành Phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là một danh thắng, một công trình kiến trúc cổ tiêu biểu dưới thời phong kiến, và là một di tích lịch sử cấp quốc gia Việt Nam (xếp hạng năm 1997).

Sơn Lăng tọa lạc tại vị trí mà Thoại Ngọc Hầu (tên thật là Nguyễn Văn Thoại) đã chọn để làm nơi yên nghỉ vĩnh viễn cho ông về sau.

Công trình này được khởi dựng vào năm nào chưa rõ, chỉ biết rằng khi người vợ thứ của ông là Trương Thị Miệt mất (tháng 7 năm Tân Tỵ1821), ông đã cho an táng bà tại đây (nằm bên trái ngôi mộ của ông trong tương lai). Đến tháng 10 năm Bính Tuất (1826), bà vợ chính của ông là Châu Thị Tế mất, cũng được ông đem an táng tại đây (nằm bên phải ngôi mộ của ông trong tương lai). Như vậy, có thể nói Sơn Lăng đã được Thoại Ngọc Hầu cho xây đúc (chưa rõ đã cơ bản hoàn thành hay chỉ một phần) trước khi ông qua đời vào tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829

Sơn Lăng nằm nơi chân núi Sam, và kề bên quốc lộ 91 ngày nay. Đây là một khối kiến trúc to lớn nhưng hài hòa. Muốn lên lăng, phải qua chín bậc đá ong  dài trên trăm mét, xây hình thang rồi mới đến sân.

Sân lăng bằng phẳng, rộng thênh thang, có hai tiểu đình do người đời sau xây dựng: một dùng để chứa tấm bia Thoại Sơn (bản sao) bằng đá cẩm thạch trắng; hai dùng để tượng ngựa và người lính hầu...Tiếp đến là vòng thành và hai cổng vào lăng hình bán nguyệt được đúc dày, nên trông lăng thật bề thế, vững vàng.

Hiện vật đáng chú ý nơi tường thành có cổng ra vào, là năm tấm bia đá do người sau qui tập về và gắn chặt vào tường thành. Bia ở chính giữa rất có thể là bia Vĩnh Tế Sơn được dựng lên từ năm 1828, tức bốn năm sau khi đào xong kênh Vĩnh Tế. Bia cao hơn đầu người, bằng loại đá sa thạch, khắc 730 chữ Hán. Do để ngoài trời, không chăm sóc, nên mặt đá đã bị rạn nứt, bị bào mòn nên chữ đã không còn đọc được. Bốn tấm bia còn lại cũng đã bị thời gian làm cho nhẵn nhụi, nên không rõ tung tích...

Qua khỏi cổng là ba phần mộ nằm giữa vuông lăng. Mộ Thoại Ngọc Hầu nằm giữa, hai bên là mộ bà chính thất Châu Thị Tế và mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt (được xây lùi lại một chút để tỏ sự kính nhường). Tất cả đều được xây bằng hồ ô dước vì thời đó chưa có xi-măng. Phía đầu ba ngôi mộ là bình phong có đắp chi chít những chữ Hán. Phía chân các ngôi mộ đều có bi kí.

Theo bậc thang lên cao, ra khỏi vuông lăng là đền thờ ông Thoại. Đền tựa lưng vào núi Sam, và được dựng lên về sau này. Trong đền bày trí đẹp, có tượng bán thân Thoại Ngọc Hầu với đủ đồ lễ bộ, tạo không gian ấm cúng và trang nghiêm...

Nơi nội lăng và hai bên phải trái vuông lăng còn có hai khu đất rộng, cũng có vòng thành ngăn chắn xung quanh dày cả mét. Ở đây có trên 50 ngôi mộ xây bằng hồ ô dước, có mộ xây hình voi phục, có mộ xây hình bầu dài hoặc vuông vắn, v.v...Những ngôi mộ này đều vô danh, đa số là những hài cốt của những người đã bỏ mình trong lúc đào kênh Vĩnh Tế được ông Thoại cho qui tập về. Lăng Thoại Ngọc Hầu thuộc khu danh thắng núi Sam đã được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 1tháng 12 năm 1997.

Trung tuần tháng 9 năm 2010, trong lúc tu bổ lăng Thoại Ngọc Hầu, đơn vị thi công phát hiện một lằn phui sụp xuống và sau đó được cơ quan chức năng xác định đây là dấu vết khu vực chôn đồ tùy táng. Sau đó, vào ngày 19 và 20 tháng 10 cùng năm, ngành chức năng đã cho tiến hành cuộc khai quật khẩn cấp và đã thu được kết quả lớn với việc phát hiện 523 hiện vật cùng hàng trăm vật dụng bằng gỗkim loại,...tại hố chôn thứ nhất (nằm cạnh mộ bà Châu Thị Tế), và tại hố chôn thứ hai (nằm cạnh mộ bà Trương Thị Miệt)...Theo TS. Ngô Quang Láng, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh An Giang, thì "thông qua hiện vật, chúng ta hiểu biết về những vật dụng sinh hoạt trong gia đình một vị quan lại phong kiến Việt Nam ở thế kỷ 19 tại vùng đất phía Nam, mà hầu như chưa nơi nào phát hiện được. Qua đó để thấy được tính chất, đặc điểm của một thời kỳ lịch sử cũng như hình dung được đời sống vật chất, tinh thần trong gia đình quan lại Việt Nam....Nhất là việc phát hiện hiện vật chôn theo mộ bà Châu Thị Tế có 1 đồng tiền từ thời kỳ Nguyễn Nhạc 

4.51. Khu di tích Nguyễn Du ở  Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; Sinh năm Ất Dậu 1765– mất năm Canh Thìn 1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.

Khu di tích cụ Nguyễn Du thuộc làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 50km, cách Tp. Vinh (Nghệ An) khoảng 8km. Đến đây, du khách sẽ có dịp biết thêm về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du; đồng thời cũng là dịp hiểu thêm về dòng họ Nguyễn Tiên Điền.

Khu di tích Nguyễn Du bào gồm một quần thể các di tích của dòng họ trên xã Tiên Điền. Khu di tích này trải dài trên địa bàn toàn xã. Trên 400 năm, họ Nguyễn sống ở Tiên Điền, con cháu đã xây dựng một số đền, chùa, văn bia, cầu cống, đình làng… Đến nay phần lớn đã trở thành phế tích. Năm 1965, kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Bộ Văn hóa Thông tin và tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành quy hoạch và bảo vệ một số di tích còn lại. Thành lập khu lưu niệm Nguyễn Du, phục vụ cho công tác nghiên cứu, tham quan học tập. Các di tích còn lại:

Đàn tế và bia đá

 Nguyễn Quỳnh là ông nội Nguyễn Du. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Năm 1762 sau khi nhận chức Tể tướng được bốn tháng, để tưởng nhớ công ơn cha mẹ. Nguyễn Nghiễm cùng em là Nguyễn Trọng và con cháu lập đàn tế, dựng bia đá tại khu vườn tưởng niệm của dòng họ. Hàng năm đến ngày giỗ, lễ tết, con cháu làm lễ dâng hương tri ân cha mẹ, ông bà, tổ tiên.

Bia dựng vào mùa Thu năm Nhâm Ngọ (1762). Chất liệu bằng gạch đá và đá thanh. Tháng 7 năm 1954, giặc Pháp bỏ bom làm nền bìa sạt lở ¼. Sau đó con cháu tu sửa lại.

Trên bia khắc các dòng chữ Hán như sau:

 Mặt trước: Cảnh Hưng vạn bia (Bia xây dựng triều vua Cảnh Hưng.)

         Phong tặng Lễ Bộ Thượng Thư Thái Bảo Nhuận Quận công Nguyễn tiên sinh

         Phong tặng Nhất phẩm thu nhân gia phong Quận phu nhân Phan Thị.

Nghĩa là:

         Phong tặng ông Nguyễn Quỳnh chức Lễ Bộ Thượng Thư, hàm Thái Bảo, tước Nhuận    Quận công.

         Phong tặng bà Phan Thị đệ nhất phu nhân và được học bổng lộc như Quận công

 Mặt sau: Phía trên : Hồng Nguyên tuấn lưu (Nguồn lớn chảy mạnh)

 Giữa khắc chữ: “Phúc” nghĩa là: Ông bà để lại phúc đức lớn cho con cháu về sau.

Hai bên khắc đôi câu đối:

         Niệm thời truy nhật nguyệt

        Truyền ngư tại giang sơn

Nghĩa là:

                          Tưởng niệm cha mẹ theo năm tháng

                          Còn giang sơn còn truyền tụng

Đàn tế và bia đá là di tích nguyên gốc về hình dáng, chất liệu. Đá làm bia do Nguyễn Nghiễm lấy từ Thanh Hóa về. Nguyễn Khản viết chữ, thợ khắc chữ người Thanh Hóa. Khi lập đàn tế dựng bia Nguyễn Nghiễm cho xây dựng cạnh trồng 3 cây cổ thụ do Nguyễn Quỳnh trồng.

Ông Nguyễn Quỳnh là người giỏi chữ hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi về kinh dịch… Việc thi cử không được hành thông, chỉ chuyên tâm đọc sách, dạy con cái học hành, chỉ mong muốn con mình thành danh, làm vẻ vang cho gia đình và dòng họ. Ông soạn 3 bộ sách bàn về kinh dịch và những việc chiêm nghiệm được trong đời.

Sinh thời ông trông 3 cây cổ thụ, một cây Muỗm  ( Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói (bị bão đổ năm 1976), để sau này mỗi lần 3 người con: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng, khi về thăm cha có chỗ cột ngựa. Tương truyền vì tinh thông lý số, giỏi tính toán chuyện hậu thế, ông biết trong 6 người con trai sẽ có 3 người đậu đạt làm quan nên ông trồng 3 cây này. Những cây này đến nay đã có trên 300 tuổi.

Nhà tư văn

 Theo Nghi Xuân địa chí thì nhà Tư Văn từ đời Long Đức triều Lê (Lê Nhân Tông 1732-1735) về trước gọi là Văn Thánh, hàng huyện thờ Khổng Tử. Lúc này, Văn Thánh thuộc về dòng họ Ngụy ở Xuân Viên, một dòng học phát đạt nhất huyện Nghi Xuân. Đến đời Vĩnh Hữu Lê Y Tông (1735-1740) dòng họ Nguyễn Tiên Điền nổi lên, thì Văn Thánh lại thuộc Quận công Nguyễn Nghiễm cho đưa về dựng tại khu vườn của ông tổ họ Nguyễn. Theo truyền thống tốt đẹp của dòng họ về mặt văn chương, ngôi nhà này là nơi các tao nhân mặc khách bình thơ, bình văn. Những người vào đây đều là “ Phượng trì long bảng” tức từ Tú tài trở lên. Sau khi bình thơ, bình văn xong, các cụ ngồi xuống nhà Hạ Điền uống trà, uống rượu, nghe ngâm thơ Nôm, hát ả Đào (ca trù). Năm Tân Hợi (1771) anh ruột Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh chống lại nhà Tây Sơn. Hiệp Trấn Nghệ An Nguyễn Quang Dụ đem quân giết Nguyễn Quýnh, phong hỏa đốt cháy dinh điền họ Nguyễn và làng Tiên Điền. Nhà Tư Văn bị cháy chỉ còn lại gian miếu thờ Thánh Hiền. Sau ít năm anh Nguyễn Du là Nguyễn Nể bỏ tiền ra cho sửa sang lại. Nhân đó đề ra lệ: Trong huyện hạc con cháu thuộc dòng dõi khoa bảng nộp 3 tiền; những người dân “Bạch Đinh” nhưng có biết chữ nộp 10 tiền. Mỗi năm có hai kỳ lễ tế hàng huyện giao Lý Dịch xã Tiên Điền xôi gà làm cúng tế.

Nhà Tư Văn nơi thờ Khổng Tử cũng là nơi thờ “Đạo học” của huyện Nghi Xuân. Về sau Hội Tư Văn xây thêm điện thờ các vị đậu đạt cao trong huyện.

Đền thờ Nguyễn Nghiễm

Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Khi còn sống ông đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ . Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước để lại phúc ấm cho thế hệ sau) biển này do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối:

                    Lưỡng triều danh Tể Tướng

                    Nhất thế đại nho sư

Nghĩa là:

                     Nhơ sư cả nước vang danh hiệu

                    Tể tưởng hai triều rạng tiếng tăm

Đền kiến trúc theo lỗi chữ nhị (=), lương long tử vi, đây là lối kiến trúc thời hậu Lễ. Năm 1954 bom Pháp đánh trúng nhà thờ, thượng điện bị hỏng hoàn toàn, đồ tế khí mất mát hư hỏng hết. Chỉ còn lại hai tượng quan hầu, hai con voi, hai con ngựa bằng đá thanh ong cho khắc tạc ở Thanh Hóa đưa vào.

Tương truyền đền thờ Nguyễn Nghiễm ngày trước rất thiêng, mọi người đi qua không dám nhìn vào. Trước cổng đền hiện còn 4 chữ Hán: Hạ Mã ( xuống ngựa) và Khuynh Cải ( nghiêng nó).

Đền thờ Nguyễn Trọng

Đền thờ Lam Khê hầu Nguyễn Trọng ở thôn Thuận Mỹ. Hồi còn sống, ông đặt ruộng tế xóm sở tại và xây sẵn đền thờ. Trước đền ông cho dựng tấm bia “Tích thiện gia” (nhà giữ điều thiện) con cháu họ Nguyễn quen gọi là : “Bia gia Huấn”. Bia này do ông viết rồi sai người Tàu khắc chữ vào bia để giáo huấn con cháu. Ngoài bia đá ông còn đem từ Trung Quốc về một đôi nghê, một đôi sư tử, một đôi voi, hai tượng quan hầu tất cả bằng đá. Trong đền treo tấm biển khắc bốn chữ “Hồng sơn linh khí” (khí thiêng núi Hồng), chữ do Cao Đoàn viết. Một tấm biển lớn ghi chép các bài thơ văn đề vịnh của những bậc túc nho danh tiếng.

Đền treo đôi câu đối:

         Nga nga địa vọng sơn chi Bắc

 Diểm điểm thiên tài đẩu dĩ Nam

Dịch nghĩa:

Địa vị nguy nga vùng phía Bắc

        Thiên tài rạng rỡ Đẩu phương Nam

Nhà thờ Nguyễn Du

 Năm 1824, sau khi cải tang hài cốt về táng tại quê nhà, con cháu xây nhà thờ, lập bài vị Nguyễn Du. Nhà thờ gồm 3 gian lợp ngói, hai đầu hồi nhà có hai cột quyết, trên đắp có hai con nghê chầu nhau. Ở trong treo các bức đại từ “ Hồng Sơn thế phổ” Thiên môn tái đăng” và “Tinh sà lưỡng kiếm”. Sau năm 1930 nhà thờ dột nát hư hỏng, con cháu đưa hương án, bài vị về đền thờ Nguyễn Nghiễm. Năm 1940, Hội Khai Trí tiến đức tổ chức quyên góp trong cả nước được 420 đồng tiền Đông Dương. Giúp cho con cháu họ Nguyên xây nhà thờ, dưới sự đôn đốc của cụ Nguyễn Mai, cháu đời thứ 10 của dòng học Nguyễn Tiên Điền.

Nhà được kết cấu theo lối chữ Đinh, giữa có 4 chữ : Địa – linh- nhân – kiệt, và hai câu đối ở cột quyết. Một câu cửa nhà vua, một câu của cụ Nguyễn Mai đề tặng. Câu của vua Minh Mạng có nội dung như sau:

                      Nhất đại tài hoa sứ vi khanh sinh bất thiển

                       Bách niên sự nghiệp tại gia tại quốc tử so vin

Nghĩa là:

 Một đời tài hoa, lúc đi sứ, lúc làm quan sống không hổ thẹn

 Trăm năm sự nghiệp việc nhà, việc nước, chết vẫn còn vinh

Câu của cụ Nguyễn Mai:

                      Lễ nhạc bách niên văn hiến địa

                     Giang sơn tứ vọng thái bình thiên

Nghĩa là:

                      Trời thái bình non sông bốn mặt

                      Đất văn hiến lễ nhạc trăm năm

Bài vị thờ Nguyễn Du được khắc như sau:

                     Quý Mão khoa sinh phụng trực

                      Đại phu chính trị

                      Khanh khâm sai Bắc quốc công sứ

                      Lễ bộ hữu Tham tri hầu tước

                      Thanh Hiên Nguyễn thân sinh thân vị

Nghĩa là:

                    Cụ Nguyễn Du thi đậu Tú tài vào năm Quý Mão (1783)

                    Cụ trở thành người lớn nhân đức của triều đình

                     Làm quan đến chức Khâm Sai tuế công sứ sang Trung Quốc

                     Khi về nước được phong Lê Bộ Hữu Tham Tri hầu tước.

                     Hiệu là Thanh Hiên

Tháng 7 năm 1954 bị bom Pháp đánh trúng Nhà thờ chỉ còn lại một bức tường chơ vơ trên nề cũ và sót lại một ít đồ thợ tự. Sau năm 1954, nhà thờ được xây dựng lại nhưng chỉ còn lại nhà hạ điện. Từ năm 1965 lại nay được tu sửa nhiều , nhưng vẫn giữ nguyên hình dáng và kích thước như cũ.

Mộ Nguyễn Du

Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi vua xuống chiếu cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi Trung Quốc cầu phong, nhưng chưa đi làm thì mất tại Huế ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16 tháng 9 năm 1820, thọ 55 tuổi. Sử nhà Nguyễn chép lại: “Năm ấy có nạn dịch lớn (dịch tả) từ nước ngoài tràn vào Hà Tiên rồi lan ra Bắc Thành làm cho 20 vạn người chết”.

Nguyễn Du mắc bệnh đột ngột, nhưng vẫn bình tĩnh không chịu uống thuốc. Năm trên giường cụ bảo người nhà sờ tay chân, người nhà bảo lạnh cả rồi. Cụ bảo “ được được” và lặng lẽ nhắm mắt rồi tắt thở , không  trối trăng lại bất cứ điều gì, mặc dù bên cạnh có đông con cháu đang làm quan tại Huế.

Ban đầu, mộ được chôn tại cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đám tang cụ lặng lẽ không có nhiều người đi đưa Nhà vua Minh Mạng biết tin ban tên “Thụy” và gửi phẩm vật phúng viếng. Các quan trong triều cũng gửi phẩm vật và câu đối phúng viếng.

Bốn năm sau (1824) hài cốt của cụ được con là Nguyễn Ngũ, cháu Nguyễn Thắng làm quan tại Huế cải táng đưa về quê nhà. Lúc đầu táng tại vườn cũ sinh thời cụ sống ở thôn Thuận Mỹ, xã Tiên Điền. Những năm sau đó con cháu thất sức học ngày một giảm, không bằng ông cha mình trước đây, bèn dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng. Sau đó, một thời gian do yếu tố tâm linh, con cháu lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng.

Ban đầu ngôi mộ đơn sơ, về sau có thêm tấm mộ chí do cụ Đặng Thai Mai làm bằng chữ Hán “Tiên Điền Nguyễn tiên sinh phần mộ”

Năm 1990, Sở Văn hóa Thông tin Nghệ Tĩnh, Ủy ban nhân dân huyện Nghi Xuân, xây lại phần mộ cho cụ. Từ đó, tới nay qua nhiều lần chỉnh sửa mộ cụ ngày một tôn nghiêm hơn.

Trên lối vào ngôi mộ, từ trước tới nay ghi lại nhiều dấu chân của những người yêu mến nhà thơ. Thường ngày đều có những nén hương nghi ngút khó và những bó hoa của du khách khắp mọi miền về phúng viếng.

Trước khi năm xuống cụ vẫn day dứt một điều: Không biết 300 năm nữa sau khi mất có ai hiểu và khóc cho mình không?

                   “Bất tri tam bách dư niên hậu.

                    Thiên hạ thùy nhân khấp Tố như”.

Nhưng không đến 300 năm sau, liền sau khu cụ mất hàng triệu người Việt Nam đã thổn thức vì tác phẩm Truyện Kiều. Năm 1965 Thế giới đã tổ chức kỉ niệm 200 năm năm sinh của Nguyễn Du cùng với 8 nhà văn nổi tiếng của nhân loại và công nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới.( http://nguyendu.vn/nd.)

4.52. Đền thờ Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ

4.52.1. Đền thờ Vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết, phường Trung Đô, Thành phố Vinh

Nguyễn Huệ (chữ Hán: 阮惠; 17531792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế (光中皇帝), vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương (北平王), là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn (ở ngôi từ 1788 tới 1792) sau Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam trong cuộc nội chiến và cả khi chống giặc ngoại xâm. Do có nhiều công lao, Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam

Người dân xứ Nghệ vẫn tự hào vì vùng đất này từng là phên dậu của Tổ quốc, và cũng không phải ngẫu nhiên mà đây là nơi gắn với dấu tích của nhiều vị vua trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc: Vua An Dương Vương trong truyền thuyết rùa vàng còn để lại dấu tích trên núi Mộ Dạ và vùng biển Cửa Hiền; vua Mai Hắc Đế với thành Vạn An và khởi nghĩa Hoan Châu; vua Trùng Quang Đế với cuộc chiến đấu kiên cường và cái chết oanh liệt trên dòng Lam giang và đặc biệt là hoàng đế Quang Trung

Đền thờ vua Quang Trung một trong những địa điểm du lịch Nghệ An.

Câu chuyện về việc Hoàng đế Quang Trung khi đưa quân ra kinh thành Thăng Long đã dừng chân lại xứ Nghệ và chọn vùng đất địa linh này để xây dựng kinh đô mới đã được lịch sử dân tộc ghi chép lại. Tiếc rằng công cuộc này còn dang dở thì Ngài đã qua đời. Tuy nhiên, đất Phượng hoàng Trung đô, núi Đại Huệ, Dũng Quyết - nơi ghi dấu công lao của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ vẫn còn lưu lại dấu tích đến ngày nay.

Với tâm nguyện có một nơi thâm nghiêm để tưởng nhớ đến vị anh hùng của quê hương, đồng thời lưu giữ những dấu vết của lịch sử oanh liệt, ôn lại chiến công của đoàn quân Nguyễn Huệ năm xưa vượt núi băng rừng thần tốc tiến vào Thăng Long, đánh thắng quân Thanh xâm lược, Đảng bộ, nhân dân Nghệ An đã xây dựng đền thờ Ngài trên đỉnh núi Dũng Quyết - nơi xưa hoàng đế Quang Trung đã chọn xây Phượng Hoàng Trung đô.

Đền thờ vua Quang Trung nằm trên đỉnh núi Dũng Quyết, ở độ cao 97m so với mực nước biển. Công trình được khởi công xây dựng từ ngày 15/8/2005, đến ngày 7/5/2008 làm lễ khánh thành và mở hội phục vụ khách tham quan, là công trình kỉ niệm 220 năm Phượng hoàng Trung đô. Nơi đây vừa là một địa điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh vừa là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Từ trên đền, du khách có thể nhìn ngắm dòng sông Lam hiền hòa uốn lượn, ngắm thành phố Vinh mờ ảo trong sương sớm, rực rõ dưới ánh chiều tà. Xa hơn, hướng mắt về phía Nam là 99 đỉnh non Hồng, phía Đông là nơi dòng Lam xanh ngắt hòa mình vào biển cả. Từ khi xây dựng đến nay, đền Quang Trung đã trở thành một điểm du lịch - tâm linh thu hút khá đông du khách gần xa.

Bước chân vào khu vực đền, du khách sẽ bị ấn tượng bởi Nghi môn tứ trụ được thiết kế theo kiến trúc hai tầng tám mái. Tiếp đó là bức bình phong tứ trụ dựng ngay trên trục chính đạo. Qua bình phong tứ trụ là hai nhà bia ngoảnh mặt vào nhau song song với trục chính đạo. Nhà bia phía bên trái khắc bài “Công trạng vua Quang Trung”, nhà bia bên phải khắc bài “Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về Quang Trung”. Nối tiếp là nhà tả vu, hữu vu.

Qua khu vực này là nhà bái đường rộng lớn còn gọi là tiền đường, nơi để sửa soạn lễ, chỉnh trang trước khi hành lễ. Nhà Tiền đường có thể được xem là trung tâm của ngôi đền được thiết kế theo lối kiến thúc dân gian Việt Nam gồm ba gian hai chái, với bốn hàng cột.

Các khu nhà hậu đường, nghi môn đều có kiến trúc hai tầng, tám mái, các đỉnh, góc mái chạm hình rồng phượng uốn cong tạo nên thế uy nghiêm.

Và chính tại nơi cửa đền uy nghiêm này cũng có những điều khiến du khách phải ngạc nhiên. Đền không chỉ mang dáng vẻ uy nghi của nơi thâm cung mà còn mang dáng dấp rất hiện đại với đá lát, cây cảnh. Dọc hai bên lối chính dẫn vào đền là hàng chục chậu bonsai lớn được các cơ quan, công ty, tập đoàn kinh tế cung tiến. Một điều đặc biệt nữa là Quầy hàng tự giác nằm ở bên phải khu đền. Quầy hàng không có người bán, không người trông coi, khách đến mua tự lấy hàng và bỏ tiền vào một hòm gỗ ngay bên cạnh theo giá niêm yết.

Nếu như trước đây, muốn lên chính điện, người dân phải leo bộ lên đỉnh núi thì nay đã có đường nhựa dẫn thẳng lên đỉnh, có bãi đỗ xe phục vụ khách tham quan bằng xe máy cũng như ô tô. Đi theo con đường này lên đền khiến du khách có cảm giác như đang đổ đèo Hải Vân, cũng quanh co đến rợn người và cảnh đẹp mê hồn. Mới chỉ cách đây chưa lâu, vùng núi Quyết còn là đất hẻo lánh vậy mà giờ đây đã hứa hẹn một khu du lịch sầm uất trong tương lai. Sông Lam, núi Quyết và đền Quang Trung sẽ đem lại cho du khách một cảm nhận mới mẻ về vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của vùng quê xứ Nghệ.( http://travel.zizi.vn/)

4.52.2. Bảo tàng Quang Trung, Tây Sơn, Bình Định - tiền thân của nó là đền thờ Tây Sơn

Bảo tàng Quang Trung - tiền thân của nó là đền thờ Tây Sơn hình thành trên chính nền nhà cũ của gia tộc Nguyễn Huệ ở làng Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay thuộc thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định

Ai đến với Phú Phong, nhẹ bước trên cầu Kiên Mỹ bắc qua con sông Kôn nổi tiếng để đến với Bảo tàng Quang Trung, cũng có thể cảm nhận được linh khí núi sông của vùng đất từng sinh ra những anh hùng áo vải Tây Sơn.  Không phải ngẫu nhiên Bảo tàng Quang Trung bắt đầu từ bến Trường Trầu bên dòng sông Kôn và kết thúc ở Điện thờ Tây Sơn tam kiệt. Với 11.057 tư liệu hiện vật gốc và hàng trăm hiện vật phục chế về Nhà Tây Sơn, Bảo tàng Quang Trung được coi đang sở hữu một kho tư liệu, hiện vật giàu có, phong phú nhất về một thời đại lừng lẫy và vị vua kiệt xuất nhất, được yêu mến nhất trong lịch sử dân tộc. Đây là thành quả một quá trình nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ, nhân viên Bảo tàng trong hơn 30 năm qua.

Bảo tàng Quang Trung chính thức thành lập năm 1977, cho đến nay đã 30 tuổi. Tuy vậy, tiền thân của nó, đền thờ Tây Sơn thì đã hơn 200 năm tuổi. Năm 1827, sau 25 năm nhà Tây Sơn sụp đổ và bị trả thù, trên nền nhà, vườn cũ của anh em Nguyễn Huệ, lúc ấy đã thành bãi đất hoang, người dân làng Kiên Mỹ âm thầm xây lên một ngôi đền để thờ ba anh em Tây Sơn mang tên "đền Kiên Mỹ". Từ đó, tại đây hàng năm diễn ra hai dịp lễ vào cuối tháng 11 và mùng 5 tháng Giêng âm lịch. Đó là hai ngày trọng đại nhất của nhà Tây Sơn: ngày Quang Trung đăng quang trên núi Bân và ngày đại thắng Đống Đa, quét sạch 29 vạn quân xâm lược Thanh. Người dân Kiên Mỹ đã phải che mắt nhà Nguyễn khi gọi đây là những ngày "cúng cơm mới". Hai ngày lễ trọng tại đền Kiên Mỹ ấy kéo dài liên tục hơn trăm năm, không chỉ thu hút người Kiên Mỹ, Tây Sơn mà ngày càng có nhiều người thập phương tìm đến. Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện chủ trương "tiêu thổ kháng chiến", ngôi đền ấy đã thành ngọn đuốc và những ngày lễ nhớ Tây Sơn tạm đứt đoạn. Đến những năm 1960, đền thờ Tây Sơn được tạo dựng trên nền đất cũ. Ngay lập tức, đây lại thành một điểm quy tụ bốn phương. Rất tự nhiên, hàng năm, cứ đúng vào ngày 5 tháng Giêng, ngày kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, hàng vạn người lại hành hương về đây, cùng nhân dân Kiên Mỹ, Tây Sơn làm nên một lễ hội lớn tưởng nhớ người anh hùng Nguyễn Huệ, niềm tự hào lớn lao của mỗi con người Việt Nam dù ở bất cứ phương trời nào. Có ai đó đã từng nói, người Pháp hằng hãnh diện về Napoleon Bonaparte, thiên tài quân sự đã chinh phục cả Âu Châu, làm rạng danh nước Pháp. Người Mỹ cũng rất tự hào khi có nhà chính trị thiên tài George Washington, vị tổng thống lỗi lạc đã đưa đất nước Hoa Kỳ đến bến vinh quang. Thì người Việt Nam càng có quyền tự hào về vua Quang Trung, người gồm có cả thiên tài quân sự Napoleon và thiên tài chính trị Washington và đã bách chiến bách thắng trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước vĩ đại của mình.(http://svhttdl.binhdinh.gov.vn/)

4.52.3. Gò Đống Đa nơi gắn liền với một di tích chiến thắng vĩ đại của vua Quang Trung

Gò Đống Đa là một  đất và là một di tích nằm bên đường phố Tây Sơn, phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Tại đây năm 1789quân Tây Sơn đã đại phá và đánh thắng quân nhà Thanh Trung Quốc trong Trận Ngọc Hồi - Đống Đa

Đêm 4 rạng ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) trận đánh của quân Tây Sơn diễn ra với sự tham gia của nhân dân vùng Khương Thượng, do Đô đốc Long (còn có tên là Đặng Tiến Đông) chỉ huy. Trận này diệt tan đồn Khương Thượng của quân nhà Thanh. Tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử ở núi Ốc (Loa Sơn) gần chùa Bộc bây giờ. Trận đánh đã mở đường cho đại quân Tây Sơn từ Ngọc Hồi thừa thắng tiến vào Thăng Long.

Nhà thơ đương thời Ngô Ngọc Du đã làm bài thơ Loa Sơn điếu cổ có câu:

Thánh Nam thập nhị kình nghê quán

Chiến điệu anh hùng đại võ công

Dịch là:

Thánh nam xác giặc mười hai đống

Ngời sáng anh hùng đại võ công.

Tương truyền sau chiến thắng, vua Quang Trung cho thu nhặt xác giặc xếp vào 12 cái hố rộng, lấp đất chôn và đắp cao thành gò gọi là "Kình nghê quán" (gò chôn xác "kình nghê" - 2 loài cá dữ ngoài biển, một cách gọi ám chỉ quân xâm lược Tàu). Theo truyền thuyết, 12 gò này nằm giải rác từ làng Thịnh Quang đến làng Nam Đồng, trên các gò cây cối mọc um tùm nên có tên là Đống Đa. Năm1851, do mở đường mở chợ, đào xẻ nhiều nơi thấy nhiều hài cốt, lại cho thu vào một hố cao lên nối liền với núi Xưa, thành gò thứ 13, tức là gò còn lại hiện nay. Còn 12 gò khác đã bị phạt đi trong thời gian người Pháp mở rộng Hà Nội năm 1890.

Chiến thắng Đống Đa cùng với Chiến thắng Ngọc ồi - Đầm Mực dưới sự chỉ huy của Quang Trung đã phá tan 20 vạn quân Thanh, giải phóng thành Thăng Long

Nhân kỷ niệm 200 năm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa, năm 1989, Công viên Văn hóa Đống Đa được thành lập trên cơ sở khu vực Gò Đống Đa[1]. Đây là công trình kiến trúc mang tính lịch sử văn hóa nhằm ghi nhớ công ơn của người Anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ. Tổng diện tích của công trình 21.745 m2 được chia làm 2 khu vực, gồm khu vực tượng đài, nhà trưng bày và khu vực gò.

Hàng năm cứ vào ngày mồng 5 Tết nhân dân thường tổ chức hội Gò Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây, đặc biệt có tục rước rồng lửa đã thành lễ hội truyền thống của người Hà Nội. Sau đám rước rồng lửa là lễ dâng hương, lễ đọc văn, cuộc tế diễn ra ở đình Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang.

Kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài Quang Trung và công viên văn hóa Đống Đa đã được xây dựng tại khu đất bên cạnh gò lịch sử này, trông ra phố mang tên Đặng Tiến Đông, người chỉ huy trận đánh đồn Khương Thượng và đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.

Có thơ rằng:

Đống Đa xưa bãi chiến trường

Ngổn ngang xác giặc vùi xương thành gò

Mùng 5 tết trận thắng to

Gió reo còn vẳng tiếng hò ba quân

Noi gương chiến đấu anh hùng

Quang Trung sống mãi trong lòng chúng ta

4.52.4. Chùa Bộc Hà Nội nơi thờ Hoàng Đế Quang Trung

Chùa Bộc còn có tên chữ là Sùng Phúc Tự hay Thiên Phúc Tự), tọa lạc tại xã Khương Thượng, nay thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Chùa nằm giữa khu vực diễn ra trận Đống Đa lịch sử năm 1789 (cách gò Đống Đa khoảng 300 mét), cạnh Núi Loa (Loa Sơn) còn gọi là núi Cây Cờ, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Chùa vốn được dựng để thờ Phật, nhưng vì chùa tọa lạc sát một chiến trường giữa quân Tây Sơn và quân Thanh nên chùa còn thờ cả vua Quang Trung và vong linh những người đã chết trận

Trước kia chùa có tên là Sùng Phúc (Sùng Phúc Tự), chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê hoặc trước nữa. Bia cổ nhất của chùa còn ghi niên hiệu Vĩnh Trị nguyên niên, thời Lê Hy Tông (1676). Bản lịch sử của chùa có ghi vào năm 1676, đời vua Lê Hy Tông, vị Tăng lục Trương Trung Bá cùng nhân dân xây dựng lại chùa đã bị chiến tranh tàn phá.

Trong trận Đống Đa, chùa bị thiêu trụi (1789) và ba năm sau, năm 1792, thời Quang Trung, chùa được trùng tu lại trên nền cũ làm nơi quy y cho vong hồn quân Thanh và được đổi tên là chùa Thiên Phúc. Tuy nhiên nhân dân vẫn quen gọi là Chùa Bộc để chỉ xác giặc bị phơi ra khắp nơi. Bộc có nghĩa "phơi bày" nghĩa là ngôi chùa được xây dựng ngay nơi chiến địa mà quân thù chết phơi thây.

Chùa có những liên hệ mật thiết với chiến thắng Kỷ Dậu (1789) của quân Tây Sơn. Ngay phía trước chùa Bộc vẫn còn một cái hồ được gọi là hồ Tắm Tượng, nơi đội hình voi của nghĩa quân Tây Sơn tắm sau khi hạ được đồn Khương Thượng. Ngày nay diện tích hồ bị thu nhỏ lại rất nhiều so với trước.

Sau lưng chùa còn có di tích Loa sơn, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống sau khi thất trận đã thắt cổ tự tử. Trong chùa còn có di tích Thanh miếu tức miếu thờ Sầm Nghi Đống cũng như quân lính xâm lược nhà Thanh đã chết trong chiến trận. Thanh miếu do chính vua Quang Trung ra lệnh cho xây dựng. Dân gian vẫn còn lưu truyền câu:

Đống Đa ghi dấu nơi đây

Bên kia Thanh miếu, bên này Bộc am.

Trong chùa ngoài hai tấm bia làm năm 1676 còn có bia "Chính hòa Bính Dần" (1686), nhưng quan trọng hơn là bia làm năm Nhâm Tí niên hiệu Quang Trung.

Năm 1959, phát hiện tấm bia đề niên hiệu Quang Trung tứ niên (1792) và một quả chuông đồng đề niên hiệu Cảnh Thịnh (thời Nguyễn Quang Toản) cũng như một số hiện vật xung quanh gò Đống Đa như lò đúc tiền, hoành phi, câu đối có liên quan đến triều đại Tây Sơn.

Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia từ năm 1962 (cùng đợt với đền Ngọc Sơn

Tượng Vua Quang Trung

Sau khi vua Gia Long triều Nguyễn lên ngôi (1802), mọi việc thờ cúng liên quan đến triều Tây Sơn đều bị nghiêm cấm. Tuy nhiên tại Chùa Bộc đã bí mật thờ tượng Quang Trung dưới hình thức Đức ông.

Tượng Đức Ông ngồi trên cao, ở dưới, hai bên có hai pho tượng khác. Cả ba pho tượng cho ta thấy như thể quân vương đang bàn chuyện đại sự với hai vị cận thần. Tư thế của tượng Đức Ông cũng khác thường. Ngài ngồi trên bệ sơn son, một chân ở trong hài, còn một chân để bên ngoài một cách tự nhiên, rất sống động. Ngài mặc áo hoàng bào, thêu rồng ẩn trong mây, lưng thắt đai nạm ngọc, đầu đội mũ xung thiên, có hai dải kim tuyến thả xuống trông rất oai nghiêm. Tất cả trang phục đó là của vị đế vương. Ngay sau lưng pho tượng, phía bên trên đỉnh đầu, có một chữ tâm (心) bằng Hán tự rất lớn. Bên trên, trước ngai thờ có một tấm hoành phi ghi bốn chữ: "Uy phong lẫm liệt".

Đặc biệt hơn hết là đôi câu đối treo hai bên ngai thờ Đức Chúa Ông như sau:

" 洞裡無塵大地山河留棟宇

 光中化佛小天世界轉風雲"

(Động lý vô trần đại địa sơn hà lưu đống vũ.

Quang trung hoá Phật tiểu thiên thế giới chuyển phong vân.)

(Trong động sạch bụi dơ, non sông rộng lớn lưu truyền lương đống

Giữa ánh sáng thành Phật, tiểu thiên thế giới chuyển động gió mây).

Câu đó nếu được đọc đầy đủ phải là: "Quang trung hoá Phật vô số ức", có nghĩa: Trong ánh sáng (quang trung) có vô số hoá Phật. Nhưng vế thứ hai của câu đối này có thể hiểu theo nghĩa khác: "Vua Quang Trung hoá thành Phật...". Nghĩa thứ hai này hoàn toàn không có gì trở ngại đối với câu văn chữ Hán.

Đầu năm 1962, cán bộ Vụ Bảo tồn Bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa và Sở Văn hóa Hà Nội đã đến chùa Bộc tiến hành điều tra tại chỗ, xác định giá trị khu chùa Bộc. Ngày 22-4-1962, ông Trần Huy Bá kiểm tra pho tượng thì phát hiện phía sau bệ gỗ pho tượng đặt áp sát vào tường có dòng chữ ghi: "Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng" (Năm Bính Ngọ tạc tượng vua Quang Trung). Đối chiếu với lạc khoản ở đôi câu đối trên, xác định được đó là năm Bính Ngọ 1846.

Trên báo Nhân Dân số ra ngày 6-5-1962, ông Trần Huy Liệu có đăng bài "Tượng lạ chùa Bộc hay lòng dân yêu quý anh hùng".

Trên tờ báo Cứu Quốc số 3577, ra ngày 20/2/1972, tác giả Đạm Duy viết "Chính ông Nguyễn Kiên, một võ tướng cai quản đội tượng binh Tây Sơn, sau trở thành nhà sư, tu ở chùa Bộc đã cho tạc tượng vua Quang Trung. Ông Nguyễn Kiên đã từng kết bạn thân với nhà thơ, nhà lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân Cao Bá Quát. Câu đối ca ngợi vua Quang Trung dẫn ở trên tương truyền là của nhà thơ họ Cao".

4.53. Đền thờ Nguyễn Thiếp xã Kim Lộc (Can Lộc), Hà Tĩnh

Nguyễn Thiếp (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804), là nhà giáo và là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) gọi ông là La Sơn phu tử, là La Sơn tiên sinh.

Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân (Huế), vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc, đếnNghệ An nghỉ binh, nhà vua lại triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi kế sách đánh đuổi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Thiếp nói:"Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Lời tâu này rất hợp ý vua.

Sau đại thắng vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung về đến Nghệ An lại mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự.

Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước. Vì cảm thái độ chân tình ấy, nên lần này ông đã nhận lời (trước đó ông đã từ chối 3 lần). Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là "Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước); hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên".

Ngày 6 tháng 2 năm 1804 (Quý Hợi), danh sĩ Nguyễn Thiếp không bệnh mà mất, thọ 81 tuổi, và được an táng tại nơi ông ở ẩn

Cảm kích trước tài năng, đức độ của Nguyễn Thiếp, khi ông mất nhân dân đã lập đền thờ ông ở xã Kim Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh). Hằng năm người dân địa phương và vùng lân cận đều về đây để dâng nén hương tưởng nhớ tới danh sĩ. Năm 1994, đền thờ vinh dự được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia.

Ngôi đền trú ngụ trên một khuôn viên nhỏ hẹp với cỏ cây mọc rậm rạp xung quanh. Cả thượng điện, trung điện, hạ điện đều được xây dựng giản đơn.

Đền thờ Nguyễn Thiếp được xây bằng gạch, lợp ngói mũi, gồm hai vì cột, kèo kẻ và hệ thống xà dọc gác vào hai tường đốc tạo thành một nhà có 3 gian khiêm tốn. Ngoài ý nghĩa văn hoá lịch sử đền thờ La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp còn mang một giá trị kiến trúc nghệ thuật qua các hoạ tiết điêu khắc chạm trỗ với các đề tài quen thuộc “long, ly, quy, phượng”, không đồ sộ nhưng mềm mại uyển chuyển, bố cục bài trí của các mảng chạm khắc gỗ hợp lý hài hoà, mang đậm phong cách kiến trúc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hiện vật gồm có: bát hương sành sứ, lư hương, long ngai thần chủ, mâm gỗ, sắc phong thần, chiếu chỉ, hộp đựng sắc được bài trí trong đền thờ mang dấu ấn của một giai đoạn lịch sử.

Trước đây đền thu hút được rất nhiều du khách thập phương, nhất là giới trí thức khắp cả nước viếng thăm, có nhiều người đã làm câu đối để ca ngợi công lao của Nguyễn Thiếp. Tuy nhiên, với sự phong hóa của thời gian ngôi đền bây giờ giống như một ngôi nhà hoang… gạch ở nền nhà và sân đã bật lên lỗ chỗ, tường thì bị rong rêu phủ kín, nứt toác, vôi vữa bong tróc, nhiều chi tiết bằng gỗ thì mục nát, mái ngói thủng dột

Ông Nguyễn Văn Giai – hậu duệ đích tôn của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, người trông coi đền chia sẻ: "Lâu lắm rồi đền không được tu sửa, tôn tạo nên giờ xuống cấp trầm trọng, nương hoang cỏ rậm, mối mọt khắp nơi, nếu không kịp thời sửa chữa thì sẽ sập xuống bất cứ lúc nào. Tôi là tộc trưởng nhưng đồng thời trông coi ở đây, hằng ngày thắp hương cho cụ Nguyễn Thiếp mà tôi thấy lo lắm, nhưng với sức lực của họ chúng tôi thì không thể làm gì được”.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Văn Hữu, Phó chủ tịch UBND xã Kim Lộc cho biết: "Từ khi được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia đến nay đền chỉ được tôn tạo 1 lần vào năm 1997 và năm 2010 thì xây tường rào, đổ đất phía sau đền. Nhân dân cũng như chính quyền xã đã nhiều lần kiến nghị lên các cơ quan chức năng tôn tạo lại đền nhưng đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Địa phương không đủ nguồn lực để xây dựng hay tu sửa, tôn tạo lại, vì vậy rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể”.

Quá khứ là bệ phóng của tương lai, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã có công lao không nhỏ trong việc chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước, thiết nghĩ, tôn tạo lại ngôi đền để nhân dân tưởng nhớ đến ông là một việc làm khẩn thiết. Ra khỏi cổng đền thờ Nguyễn Thiếp là con đường lớn trải nhựa, các ngõ hẻm đã được đổ bê tông, nhà dân cũng đã xây tường, lợp ngói đỏ, rất nhiều nhà lên một hai tầng. Làng Mật của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã không còn nhà tranh vách đất. Kết quả chương trình xây dựng nông thôn mới mang lại hiệu quả đáng khích lệ, làng xóm đẹp hơn, đời sống vật chất của nhân dân dần được nâng lên, nhưng đa số thanh niên trong làng, kể cả con cháu hậu duệ Nguyễn Thiếp, vẫn tìm cách ly hương tứ xứ, "hấp dẫn" nhất vẫn là các thành phố lớn trong Nam, ngoài Bắc. Phải chăng, một phần là do môi trường văn hóa tinh thần chưa đáp ứng để họ ở làng lập nghiệp? Một trong những nguồn cội của văn hóa, chính là phải trân trọng bảo vệ di sản của cha ông. Sự nghiệp cứu nước và văn chương của Nguyễn Thiếp - La Sơn Phu Tử là di sản lớn không chỉ của miền sông La núi Hồng mà của cả nước ta. Việc xây dựng, tôn tạo, gìn giữ di tích lịch sử văn hóa này hẳn không phải của riêng một dòng họ và vì thế đang trở nên rất cấp bách. (nguồn từ: http://www.vietnamtourism.com.vn/; http://daidoanket.vn/; http://ct.qdnd.vn/).

4.54. Đền thờ Đô đốc Thuyết

 Đô đốc Tuyết (都督雪) có tên là Nguyễn Văn Tuyết (阮文雪; ?-1802?); là danh tướng nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong Tây Sơn thất hổ tướng.

Một số sử liệu đã chép rằng Nguyễn Văn Tuyết là người An Nhơn, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Tuy nhiên, theo gia phả họ Nguyễn (chi 2 phái 4 ở làng Lệ Xuyên, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), thì ông là người làng Ôn Tuyền, huyện Đăng Xương, Thuận Hóa (nay là làng Lệ Xuyên, xã Triệu Trạch, huyện Triệu PhongQuảng Trị); và tên thật của ông là Nguyễn Minh Mẫn. Tương truyền trước khi phong trào Tây Sơn khởi phát vào năm 1771, ông là người có sức mạnh, giỏi võ, và từng là một trong số người du thủ du thực. Tình cờ trên bước đường phiêu bạt khắp, ông gặp được một người thầy dạy võ hết lòng yêu thương chỉ vẽ, lại còn đem con gái gả cho, Nguyễn Văn Tuyết đã trở thành người quyết chí đem tài sức của mình ra cứu khổ cho dân. Khi nghe Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn chiêu mộ hào kiệt, ông bèn cùng vợ về quê nhà, rồi lên sơn trại đầu quân, và nhanh chóng được anh em nhà Tây Sơn trọng dụng.

Cuối năm Mậu Thân (1788), khoảng 29 vạn quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tràn sang xâm lược nước Việt, ông được dự phần trong bộ chỉ huy Bắc Hà do Đại tư mã Ngô Văn Sở đứng đầu. Trong lệnh xuất quân của nhà vua vào ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Thân, thì: Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đốc xuất tả quân, trong đó gồm có thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt Đông...

Sau trận đại phá quân Thanh, sử liệu không ghi rõ Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết làm gì và ở đâu, chỉ biết khoảng giữa năm1802, khi vua Gia Long dẫn đại quân tiến ra Bắc Thành, thì vợ chồng ông đang coi việc binh ở nơi đó

Trước sức mạnh của quân đội Nguyễn, liệu không thể chống giữ nổi, Ðô đốc Nguyễn Văn Tuyết và vợ đã đưa vua Cảnh Thịnh cùng cung quyến sang sông Nhị Hà chạy lên vùng núi phía Bắc. Tướng Lê Chất dẫn quân truy đuổi kịp. Ðô Ðốc Tuyết truyền cho vợ phò ngự giá chạy trước, còn mình thì ở lại cản ngăn. Sau một hồi kịch chiến, ông bị súng bắn trúng tử trận... Quân Nguyễn liền đuổi theo Ngự giá. Trần phu nhân hết sức chống cự, nhưng chỉ ít lâu thì cả đoàn đều bị bắt. Không thể để đối phương làm nhục, phu nhân liền tự sát cùng với Thái hậu Bùi Thị Nhạn. Đó là ngày 16 tháng 6 nămNhâm Tuất (1802)...

Sách Nhà Tây Sơn có câu chép về vợ chồng Đô đốc Tuyết như sau: Nguyễn Văn Tuyết đã cùng vợ con tuẫn nghĩa sau khi thất thủ Bắc Thành.

Ông có câu nói lưu danh:

Ra sức trừ khử sự đau khổ cho dân, vì cả cõi đời này mà tiêu diệt hết mọi bất bình, đó là sở nguyện của ta” 

Hiện nay, tại đường Hoàng Diệu thuộc quận Phú NhuậnThành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi đền thờ của dòng họ Nguyễn Văn Tuyết. Ở đấy, con cháu ông thờ ông, và còn thờ cả danh tướng Đô đốc Long.

4.55. Thế Tổ Miếu  thờ vua Gia Long và lăng Gia Long

4.55.1. Thế Tổ Miếu  thờ vua Gia Long Gia Long (chữ Hán: 嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎 hoặc 阮福映; thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm1802 đến khi qua đời năm 1820. Năm1802 sau khi đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam. Triều đại của ông được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan, gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức ngày 3 tháng 2năm 1820), vua Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, miếu hiệu là Thế Tổ, thụy hiệu Cao Hoàng đế.

Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này.

Nguyên ở nơi này trước kia là miếu thờ ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long gọi là tòa Hoàng Khảo Miếu. Đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía bắc khoảng 50 m để dành vị trí xây tòa Thế Tổ Miếu thờ vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì thế mới có tên gọi Thế Tổ Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các vị vua của triều Nguyễn.

Kiến trúc

Khuôn viên của Thế Tổ Miếu có hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha, chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trong Hoàng thành và Tử Cấm thành. Tòa Thế Tổ Miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn được xây theo lối "trùng thiềm điệp ốc" đặt trên nền cao gần 1 m. Bình diện mặt nền hình chữ nhật (54,60 m × 27,70 m), diện tích 1500 m². Nhà chính có 9 gian và 2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh tế. Mái được lợp ngói hoàng lưu ly với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ. Bên trong khuôn viên ngoài tòa Thế Tổ Miếu là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ Công TừCửu ĐỉnhHiển Lâm CácCanh Y điệnTả Vu, Hữu Vu.

Các án thờ vua Nguyễn

Bên trong miếu, ngoài án thờ vua Gia Long và 2 Hoàng hậu đặt ở gian giữa, các án thờ của các vị vua còn lại đều theo nguyên tắc "tả chiêu, hữu mục" để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của họ Nguyễn, các vị vua bị coi là "xuất đế" và "phế đế" đều không được thờ trong tòa miếu này, do đó, trước năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua dưới đây:

Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và 2 Hoàng hậu Thừa ThiênThuận Thiên ở gian chính giữa.

  1. Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở gian tả nhất (gian thứ nhất bên trái, tính từ gian giữa).
  2. Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian hữu nhất (gian thứ nhất bên phải, tính từ gian giữa).
  3. Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian tả nhị (gian thứ hai bên trái).
  4. Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian thứ hai bên phải).
  5. Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở gian tả tam (gian thứ ba bên trái).
  6. Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở gian hữu tam (gian thứ ba bên phải).

Đến tháng 10 năm 1958, án thờ 3 vị vua chống Pháp vốn bị liệt vào hàng xuất đế không được thờ trong Thế Tổ Miếu là Hàm NghiThành Thái và Duy Tân đã được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc rước vào thờ ở Thế Tổ Miếu. Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên trái). Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái), còn án thờ vua Duy Tân đặt ở gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải). Còn các án thờ vua Dục ĐứcHiệp Hòa và Bảo Đại đến nay vẫn chưa có mặt trong Thế Tổ Miếu. (http://vi.wikipedia.org/)

Ngoại thất

Cửu đỉnh

Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát Tràng. Trên sân đặt 1 hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng đứng trong thiết đình.

Nói đến Thế miếu mà không đề cập đến Cửu đỉnh là một thiếu sót lớn. 9 cái đỉnh đồng này được đúc từ cuối năm 1835, đời vua Minh Mạng, đến tháng 3 năm 1837 mới xong. Chúng có trọng lượng không giống nhau, nặng nhất là 4.307 cân ta (cân ta = 0,6 kg), nhẹ nhất 3.121 cân ta, được đặt trong sân phía trước Thế miếu, mỗi đỉnh đối diện với án thờ của một vị vua triều Nguyễn và có tên tương ứng với miếu hiệu của vì vua đó, cụ thể như sau:

- Cao đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Thế tổ CAO hoàng đế của vua Gia Long. Đỉnh này được đặt vượt lên trên các đỉnh khác, có lẽ để tượng trưng cho công việc khai sáng triều Nguyển của nhà vua.
- Nhơn đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Thánh tổ NHƠN hoàng đế của vua Minh Mạng.
- Chương đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Hiến tổ CHƯƠNG hoàng đế của vua Thiệu Trị
- Anh đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Dực tông ANH hoàng đế của vua Tự Đức
- Nghị đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Giản tông NGHỊ hoàng đế của vua Kiến Phúc
- Thuần đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Cảnh tông THUẦN hoàng đế của vua Đồng Khánh
- Tuyên đỉnh được đặt tên theo miếu hiệu Hoằng tông TUYÊN hoàng đế của vua Khải Định.
- Dụ đỉnh không còn miếu hiệu nào để đặt tên, được đặt đối diện với án thờ vua Hàm Nghi
- Huyền đỉnh, không còn miếu hiệu tương ứng, được đặt đối diện với án thờ vua Duy Tân.
Sau bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, ngày nay, cửu đỉnh vẫn còn nguyên vẹn nét cổ kính của chúng. (http://kienthuc.net.vn/.

Tiếp theo là gác Hiển Lâm, 3 tầng cao vút, hai bên có lầu chuông, lầu trống nối liền với gác bằng một bờ tường gạch. Bên dưới lầu chuông, lầu trống trổ 2 cửa, Tuấn Liệt (bên trái) và Sùng Công (bên phải). Bên ngoài bờ tường này có 2 miếu nhỏ cũng được gọi là Tả Vu và Hữu Vu thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.

Thổ Công Từ và Canh Y điện đều là những tòa nhà hình vuông nằm đối xứng với nhau theo chiều đông-tây của Thế Tổ Miếu (điện Canh Y nằm ở phía đông đã bị hủy hoại từ lâu), ở sát thần phía tây của miếu còn có một cây thông cổ thụ, có hình dáng uốn lượn rất đẹp, tường truyền được trồng từ khi dựng Thế Tổ Miếu.

Các công thần được phối thờ

1. Thái sư Hoài quốc công Võ Tánh (?-1801)

2. Thái tử Thái sư Ninh Hòa quận công Ngô Tòng Chu (? - 1801)

3. Thái bảo Lâm Thao quận công Châu Văn Tiếp (? - 1784)

4. Thái bảo Bình Giang quận công Võ Di Nguy (? - 1801)

5. Thái phó Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương (? - 1810)

6. Thái phó Tiên Hưng quận công Phạm Văn Nhân (?-1815)

7. Thái phó Kiến Xương quận công Nguyễn Hoàng Đức (? - 1819)

8. Thái tử Thái sư Tuân Nghĩa hầu Tống Phước Đạm (? - 1794)

9. Thiếu bảo Duy Tiên hầu Nguyễn Văn Mẫn (?-1789)

10. Thiếu phó Phụ Dực hầu Đỗ Văn Hựu (?-1789)

11. Thái bảo Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân (? - 1822)

12. Thái phó Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên (? - 1824)

13. Thái sư Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865) (http://vi.wikipedia.org/).

4.55.2. Lăng Gia Long

Lăng Gia Long - còn gọi là Thiên Thọ Lăng(天授陵), Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.

Lịch sử xây dựng

Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng báo hiệu khu vực lăng.

Với chu vi lên đến 11.234,40 m; Thiên Thọ Lăng gồm những lăng sau:

Toàn bộ khu lăng là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Ðại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất. Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm, bên trái và bên phải có 14 ngọn núi là tả thanh long và hữu bạch hổ. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:

  • Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi.
  • Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất
  • Bên trái khu lăng là Bi Ðình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia Thánh đức thần công của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
  • Lăng Gia Long là một bức tranh tuyệt tác về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc. Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong một không gian tĩnh lặng và đầy chất thơ.

Khu Lăng Tẩm

Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ". Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:

Khu Lăng Mộ

Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm "Càn Khôn hiệp đức" - một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung.

Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành là trung tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh Thành nghĩa là "sự hoàn thiện rực rỡ". Cũng có một cách giải thích khác là "hoàn thành vào ngày mai", bởi người ta cho rằng: "Sườn của điện này chưa có sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản" (theo L. Cadière). Bên trong điện Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.

      Khu Bi Đình

Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia "Thánh đức thần công" của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.

       Lăng lận cận

Men theo các lối đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn, đó là vua Minh Mạng.

Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Sử cũ cho hay, thầy Địa lý Lê Duy Thanh (con trai nhà bác học Lê Quý Đôn) là người tìm được thế đất này, nơi mà theo ông "đã tập trung được mọi ảnh hưởng tốt lành tỏa ra từ nhiều núi đồi bao quanh", nơi mà "ảnh hưởng tốt lành sẽ còn mãi mãi trong suốt 10 ngàn năm" (theo L. Cadière).

Quá trình xây dựng Lăng

Cũng vì quá sâu sắc với công trình xây cất "ngôi nhà vĩnh cửu" của mình mà có lần suýt nữa, Gia Long đã thiệt mạng trong một tai nạn ở công trường. Một trận gió làm sập ngôi nhà mà vua đang trú ngụ, vua Gia Long tuy đã ẩn trong một cái hố nhưng vẫn bị thương ở trán, mí mắt và bị dập chân do một thanh xà rơi trúng. Hai hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và Phổ bị trọng thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các quan lại thi công, ngược lại đã cấp thuốc men để chạy chữa cho họ, cấp phát 500 quan tiền và 500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng Định Môn, gần nơi xây dựng lăng.

Theo sách Giai thoại xứ Huế cũng của Tôn Thất Bình, vào lúc đặt địa bàn xuống để định phương hướng cho lăng thì thần núi có ý không cho nên làm địa bàn bị vỡ. Sách viết: “Tương truyền lúc đặt địa bàn xuống đất để nhắm phương hướng thì mặt gương của địa bàn bỗng nhiên bị vỡ. Vua Gia Long đứng cạnh bên, lớn tiếng bảo với thần núi “Quý gì mảnh đất này mà người lại cố giữ không cho trẫm chôn mẫu hậu” ? Thế rồi nhà vua bảo các quan lại đặt lễ tam sinh cúng thần và tiến hành việc xây lăng”.

Đường thăm quan

Đến thăm lăng Gia Long, quý khách có thể tham quan theo hai đường: đường thủy và đường bộ.

  • Đường thủy

Từ sông Hương khoảng 18 km sẽ đến Lăng.

  • Đường bộ

Đi đường bộ chừng 16 km rồi qua bến đò Kim Ngọc, đi thêm vài cây số đường rừng thì bắt gặp hai Trụ biểu uy nghi nằm ngoài cùng. Trước đây, đó là những cột báo hiệu, nhắc nhở mọi người phải kính cẩn khi đi qua khu vực này và có đến 85 cột như vậy trong quần thể lăng Gia Long. Năm 1859 còn 42 cột và hiện nay du khách chỉ trông thấy 2 cột. Và du khách dường như rút ra được một điều: lăng nào có bán vé thì lăng đó được trùng tu bảo vệ, lăng nào không bán vé thì sức tàn phá ghê rợn, chẳng ai chăm sóc, chẳng ai quan tâm. Ngày nay, chỉ còn rừng thông xanh làm đường biên cho khu lăng, bởi quanh lăng không có la thành. Nguyên nhân này cũng là nguyên nhân gây chi tình trạng xuống cấp của khu di tích.

Thời điểm thăm quan

Theo gợi ý của L. Cadière từ hơn 60 năm trước đây, du khách nên viếng lăng Gia Long vào buổi chiều. Đó là thời khắc có thể ngắm cảnh hoàng hôn đang đến từ phía bên kia các hồ nước. Sự phối hợp giữa hồ nước cùng cảnh vật xung quanh, rừng thông sẽ tạo cho người tham quan một cảm giác khó tả. Chính lúc ấy, du khách mới cảm nhận hết vẻ đẹp hùng tráng và kỳ vĩ của khu lăng này. Phong cảnh xinh tươi hòa với nét uy nghi của đồi núi xa xa. Sự khắc khổ tĩnh lặng của cái chết hòa với sự sinh động, nét tuyệt mỹ của thiên nhiên chung quanh. Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong sự tĩnh lặng. Cái cảm giác buồn của cảnh, cái ghê rợn của sự chết chóc và sự đổ nát, sự xuống cấp cùng với sự thờ ơ của du khách với di tích làm cho di tích thêm phần huyền bí.

Giá trị

Lăng Gia Long là một bức tranh trác tuyệt về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc, trong đó, thiên nhiên là yếu tố chính tạo nên nét hùng vĩ của cảnh quan. Đến thăm lăng, du khách được thả mình trong một không gian tĩnh lặng nhưng đầy chất thơ để suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của vị vua đầu tiên của triều Nguyễn. Dù hết sức cố gắng của trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế nhưng xem ra di tích không mấy thu hút khách tham qua, một phần do điều kiện xa xôi, một phần giá trị về mặt kiến trúc còn thua kém cáclăng Tự Đức và Lăng Khải Định và lăng Minh Mạng nên thật sự chưa thu hút du khách.

Sự trùng tu

Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã khởi công công trình bảo tồn và tu bổ di tích Thiên Thọ cung - khu vực lăng và tẩm chính của quần thể lăng vua Gia Long, tại xã Hương Thọ, huyện Hương TràThừa Thiên - Huế vào cuối năm 2007 để đưa vào phục vụ du khách và bảo tồn các giá trị ban đầu.

Các hạng mục sẽ tu bổ là: hệ thống mộ, quách, sân chầu ở khu vực lăng vua và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu; hệ thống tẩm gồm nhà đông - Tây phối điện, Tiền - Hậu cổng, cổng Hữu của Minh Thành điện; nhà Bi Đình cùng hệ thống sân, lan can, tường, kè hồ... với tổng kinh phí 13,7 tỉ đồng.

Công trình này do Công ty Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa trung ương (Bộ Văn hóa - Thông tin) đảm nhận. Với sự trùng tu này, một tín hiệu lạc quan cho các công trình lăng tẩm thuộc quần thể di tích cố đô Huế một lần nữa được quan tâm đúng mức.( wikipedia.org).

4.56. Thế Tổ Miếu  thờ vua Minh Mạng và lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng)

Vua Minh Mạng (1820-1841), còn gọi là Minh Mệnh (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5,1791 – 20 tháng 11841), tức Nguyễn Thánh Tổ (阮聖祖) là vị vua thứ hai của nhà Nguyễn. Vua Minh Mạng qua đời ngày 28 tháng 12 năm Canh Tý, tức ngày 20 tháng 1 năm 1841 tại điện Quang Minh, hưởng thọ 50 tuổi, ở ngôi 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ.

 Thế tổ miếu là nơi thờ ông. Bên trong miếu, ngoài án thờ vua Gia Long và 2 Hoàng hậu đặt ở gian giữa, các án thờ của các vị vua còn lại đều theo nguyên tắc "tả chiêu, hữu mục" để sắp đặt. Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở gian tả nhất (gian thứ nhất bên trái, tính từ gian giữa) trong Đại Nội kinh thành Huế.

Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng (孝陵, do vua Thiệu Trị cho xây dựng), nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12 km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành, huy động tới mười nghìn thợ và lính.

Tháng 2 năm 1820, vua Gia Long qua đời hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.

Bố cục kiến trúc

Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng. Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành). Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài... làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.

Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.

Từ ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục. Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9 m, rộng 12 m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia "Thánh đức thần công" bằng đá Thanh ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.

Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông). Điện Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu. Hoằng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của hoa lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơm mùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh Lâu - một công trình như đột khởi từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn. Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn; là "bộ ngực kiêu hãnh" của "con người" được ví bởi hình dáng của khu lăng. Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã "bình thành công đức" trước khi về cõi vĩnh hằng.

Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố "Âm" bao bọc, che chở cho yếu tố "Dương" là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.

Cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp đẫn vào nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.

Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một. Hiện nay, các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy đều không còn tồn tại.

Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một "bảo tàng thơ" chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19. Trong có tấm bia “Thánh Đức Thần Công”. Kể cả bệ bia cao tới 4m23, riêng bia cao 3m15 rộng 1m8, bằng đá Thanh được dựng vào ngày 15 tháng 10 năm 1842 do vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha rồi cuối cùng ông đã tóm gọn tài đức của cha mình bằng tám chữ: “thánh văn thần võ, đại đức, trí nhân”

Tình trạng

Kiến trúc Lăng có phần đổ nát nhưng mức độ nhẹ hơn so với số phận của những Lăng khác, một phần nhờ vào việc Lăng có giá trị về nhiều mặt. Những cây sứ nhiều năm tuổi công với vẻ hoang toàn mặc cho rêu phong theo chủ ý của Ban bảo vệ di tích cố đô Huế và quy tắc bắt buộc của UNESCO nhằm không trùng tu các di sản cố ý để tạo nét nguyên sơ làm cho di tích càng có giá trị. Hiện nay Lăng thu hút du khách đông nhất sau Lăng Tự Đức.

4.57. Thế Tổ Miếu  thờ vua Thiệu Trị Lăng Thiệu Trị (Xương Lăng)

 Vua Thiệu Trị (16 tháng 61807 – 4 tháng 101847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Thiệu Trị qua đời ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 10 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ(憲祖). Thụy hiệu của ông là Thiệu thiên Long vận Chí thiện Thuần hiếu Khoan minh Duệ đoán Văn trị Vũ công Thánh triết Chương Hoàng đế (紹天隆運至善淳孝寬明睿斷文治武功聖哲章皇帝). Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian hữu nhất (gian thứ nhất bên phải, tính từ gian giữa).

Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng(昌陵) tọa lạc tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11 tháng 12 năm 1993.

Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành Huế chừng 8 km. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Cách lăng 8 km về phía trước, ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm tiền án. Dòng sông Hương chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường. Ngay cách chọn "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ" cũng có những nét khác thường: đồi Vọng Cảnh ở bên này sông được chọn làm "rồng chầu", nhưng "hổ phục" lại là ngọn Ngọc Trản ở bên kia sông. Đằng sau, núi Kim Ngọc xa mờ trong mây được chọn làm hậu chẩm; đồng thời, những người kiến trúc lăng còn đắp thêm một mô đất cao lớn ở ngay sau lăng để làm hậu chẩm thứ hai. Một nét riêng khác là lăng không có la thành bao quanh. Nếu ở lăng Gia Long, la thành bằng gạch được thay thế bởi vô số núi đồi bao quanh như một vành đai tự nhiên, hùng tráng bảo vệ giấc ngủ cho vị tiên đế triều Nguyễn thì ở lăng Thiệu Trị, những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn ở chung quanh được xem là La thành. Chính vòng La thành thiên nhiên đó tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.

Quá trình xây dựng

Sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh. Trong khi hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi rằng: "Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân".

Vua Tự Đức lên nối ngôi đã lệnh cho các thầy địa lý tìm đất để xây lăng cho vua cha. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánhhuyện Hương Thủy, cách Kinh thành không xa như hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó núi ấy được đặt là núi Thuận Đạo còn lăng được gọi là Xương Lăng.

Vào ngày 11 tháng 2 năm 1848, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Giai, sung chức Đổng lý, đứng ra trông coi công việc xây dựng lăng. Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần phải báo cáo cho vua biết tiến độ xây dựng lăng.

Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm "toại đạo" giống như trên lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm. Toại đạo, tức là đường hầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ, được xây vào ngày 24 tháng 3 năm 1848.

Quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, nên chỉ sau ba tháng thi công, các công trình chủ yếu đã hoàn thành. Ngày 14 tháng 6 năm 1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương Lăng kiểm tra lần cuối. Mười ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 8 tháng quàn tại điện Long An ở cung Bảo Định. Vua Tự Đức viết bài văn bia dài trên 2.500 chữ, cho khắc lên tấm bia "Thánh đức thần công", dựng vào ngày 19 tháng 11 năm 1848 để ca ngợi công đức của vua cha.

Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5 năm 1848, có đoạn nói: "Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm báo cáo hoàn thành". Ngày 14 tháng 6 năm 1848, tức là 10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã căn dặn là phải làm lăng như thế nào cho "kiệm ước", không nên quá tốn kém tiền của và sức dân, sức binh. Và trong bài văn bia ở Xương Lăng, vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng: " Lời vàng ngọc văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí"; nhưng hôm ấy khi lên xem công trình lăng, thấy "công trình có phần phiền phức to lớn", nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.

Riêng tấm bia "Thánh đức thần công" với bài bi ký dài hơn 2.500 chữ do vua Tự Đức viết, thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19 tháng 11 năm 1848 mới dựng được.

Như vậy, tính từ ngày bắt đầu xây dựng (11 tháng 2 năm 1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.

Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng mộ khác của những người trong gia đình vua. Nằm chếch phía trước là Lăng Hiếu Đông của mẹ vua - bà Hồ Thị Hoa; gần phía sau bên trái là Lăng Xương Thọ của vợ vua - bàTừ Dũ; phía trước bên trái là khu lăng "Tảo thương" là những ngôi mộ của con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ.

Kiến trúc

Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng vua Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm khởi công xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có hai lăng là lăng Gia Long và Minh Mạng. Khi còn sống vua Thiệu Trị đã tham khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu.

So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, lăng vua Thiệu Trị gần Kinh thành hơn, là sự dung hòa hai mô thức kiến trúc của hai lăng vua tiền nhiệm bằng cách thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm - khu vực điện thờ nằm bên trái. Hai trục cách nhau khoảng 100 mét. Nói cách khác, các nhà kiến trúc lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữ của lăng Minh Mạng- điện thờ đặt riêng ra một bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và các hồ bán nguyệt thì giống lăng Minh Mạng.

Lăng Thiệu Trị khác lăng Minh Mạng là không xây La thành, nhưng giống lăng Gia Long là lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm nên một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành hùng vĩ đó, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo, gần trước mặt lăng là một vùng đất bằng phẳng cỏ cây xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim. Xét về phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế "sơn chỉ thủy giao". Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng khoảng 1 km có đồi Vọng Cảnh, bên trái có núi Ngọc Trản chầu về trước lăng theo vị thế "tả long hữu hổ". Ngọn núi Chằm cách đó khoảng 8 km đứng làm "tiền án" cho khu vực lăng, động Bàu Hồ ở gần hơn làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa, người xưa đã đắp một mô đất cao lớn làm "hậu chẩm" cho lăng. Trong phạm vi lăng có ba hồ bán nguyệt là Hồ Điệnhồ Nhuận Trạch, và hồ Ngưng Thúy cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên chay ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi.

Giá trị kiến trúc

Tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Trị là sự kết hợp và chọn lọc từ mô thức kiến trúc của lăng Gia Long và lăng Minh Mạng. Xương Lăng giống với Thiên Thọ Lăng ở chỗ đều không có La thành, khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau. Xương Lăng lại giống Hiếu Lăng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo, Bửu Thành hình tròn với hồ Ngưng Thúy hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước. Lăng gồm hai khu vực: lăng và tẩm. Phần lăng nằm ở bên phải, phía trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Điện ở trước khu tẩm qua một hệ thống cống ngầm và nối với hồ Ngưng Thúy ở trước Bửu Thành, tạo thế "chi huyền thủy" chảy quanh co trong lăng. Ngay sau hồ Nhuận Trạch là nghi môn bằng đồng đúc theo kiểu "long vân đồng trụ" dẫn vào Bái Đình rộng lớn. Hai hàng tượng đá ở hai bên tả, hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ XIX ở Huế. Tiếp theo Bi Đình dạng phương đình là lầu Đức Hinh ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa. Các nhà thiết kế lăng Thiệu Trị đã tách riêng khu vực tẩm điện trong lăng Minh Mạng rồi cải tiến, sửa đổi cho phù hợp với cảnh quan của Xương Lăng để tạo ra đồ án thiết kế lăng này. Chính vì thế mà Bi Đình và lầu Đức Hinh ở Xương Lăng mang dáng vóc của Bi Đình và Minh Lâu ở lăng Minh Mạng. Đứng trên lầu Đức Hinh, phóng tầm mắt ra phía sau sẽ thấy một cảnh quan trác tuyệt. Hồ Ngưng Thúy như vầng trăng xẻ nửa án ngữ trước Bửu Thành. Bên trên hồ có 3 chiếc cầu: Đông Hòa (phải), Chánh Trung (giữa) và Tây Định (trái), dẫn đến bậc tam cấp vào Bửu Thành - nơi đặt thi hài của nhà vua. Xa hơn về phía phải của lăng có gác Hiển Quang - nơi nghỉ ngơi, suy tưởng của nhà vua ở cả cõi âm lẫn cõi dương.

Có lẽ do yếu tố địa lý không cho phép kiến tạo Xương Lăng theo một trục dọc như Hiếu Lăng nên khu vực điện thờ được xây dựng riêng, cách lầu Đức Hinh 100m về phía trái. Ngay sau hồ Điện có một nghi môn bằng đá cẩm thạch, bên trên là những liên ba và một bầu Thái cực hình nậm rượu bằng pháp lam, trang trí hoa lá vui mắt và sinh động. Bức hoành phi nằm giữa những hoa văn trang trí với 4 chữ Hán: "Minh đức viễn hỷ" (Đức sáng cao xa vậy!) như muốn ghi mãi vào không trung tài đức của nhà vua. Bước lên tam cấp dẫn vào khu vực điện Biểu Đức, sẽ đi qua Hồng Trạch Môn nhìn về phía Bắc, một dạng vọng lâu như Hiển Đức Môn (ở lăng Minh Mạng) và Khiêm Cung Môn (ở lăng Tự Đức sau này). Chính giữa là điện Biểu Đức, nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu Từ Dũ. Trong chính điện, trên những cổ diêm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch, có hơn 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị về văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Tả, Hữu Phối Điện (trước), Tả, Hữu Tùng Viện (sau) quây quần chung quanh điện Biểu Đức càng tôn thêm vẻ cao quý của chính điện. Bên kia hồ Điện, hòn Bàu Hồ làm bình phong cho khu vực điện thờ, rừng thông xanh mướt làm La Thành cho khu vực Lăng. (wikipedia.org/wiki)

Theo http://thethaovietnam.vn: Về phương diện phong thủy lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn chỉ thủy giao”. Lăng quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lơn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng chừng 1 km, bên phải có đồi Vọng Cảnh, bên trái có núi Ngọc Trản chầu về trước lăng theo vị thế “tả long hữu hổ”. Ngọn núi làm “tiền án” cho khu vực lăng, trong khi độn Bầu Hồ ở gần hơn lại làm bình phong thiên nhiên cho khu vực lăng tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa xa, người xưa còn đắp một mô đất cao lớn để làm “hậu chẩm” cho lăng. Trong phạm vi lăng tẩm ấy, có ba chiếc hồ bán nguyệt là hồ Điện, hồ Nhuận Trạch và hồ Ngưng Thúy, từ dòng khe từ hồ Thủy Tiên chảy ra bên phải và giao với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi.

Giá trị di tích

Lăng vua Thiệu Trị nằm gần với cùng với lăng mộ của dòng họ, chếch về phía trước lăng là lăng Hiếu Đông của bà Hồ Thị Hoa (mẹ vua). Bên trái phía sau là Xương Thọ Lăng của bà Từ Dũ (vợ vua) và không xa phía trước là khu mộ "tảo thương" -nơi có nhiều ngôi mộ của các ông hoàng, bà chúa nhỏ bé, con vua Thiệu Trị.

Cụm di tích lân cận

Trong quá trình thám sát mở rộng xung quanh quần thể lăng Thiệu Trị, đoàn khảo sát các công trình di tích cố đô Huế đã phát hiện một cụm di tích quan trọng liên quan đến lăng thuộc thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Cụm di tích gồm 2 khu mộ Tảo Thương - mộ những người con của vua Thiệu Trị, Bến Ngự(nằm bên bờ sông Hương), các trụ biểu, Hành Cung Cư ChánhTrại Bảy (nơi ở của lính bảo vệ lăng Hiếu Đông), đặc biệt là con "đường ngự" dẫn vào lăng vua Thiệu Trị, xuất phát từ bờ sông Hương. Đường ngự ngày xưa là con đường dùng để đưa thi hài vua Thiệu Trị vào an táng trong lăng, sau đó các vua đời sau dùng để đi vào lăng trong các dịp tế lễ hằng năm.

Quá trình trùng tu

Bộ Văn hoá Thông tin đã có quyết định phê duyệt dự án đầu tu bảo tồn, tu bổ và phát huy giá trị tổng thể di tích lăng vua Thiệu Trị thuộc quần thể di tích Cố đô Huế. Tổng kinh phí dự trù lên đến 106 tỷ đồng. Theo dự án, công tác trùng tu diễn ra tại có 3 khu vực của lăng Thiệu Trị: Khu vực lăng, sẽ tu bổ phục hồi các hạng mục công trình hồ Nhuận Trạch, hồ Ngưng ThủyBình Phong tiền án, hồ điện, sân chầu, Nghi mônHồng Trạch mônHữu phối điệnTả phối điệnđiện Biểu ĐứcHữu Tùng viện... Khu vực tẩm, sẽ tu bổ phục hồi bình phong tiền án, hồ điện, sân khấu, Nghi Môn, Hồng Trạch môn, Hữu phối điện, Tả phối điện, điện Biểu ĐứcHữu Tùng viện... Khu vực lăng Bà sẽ tu bổ nhiều công trình kiến trúc...

Đồng thời, dự án cũng sẽ đầu tư xây dựng các công trình tu bổ, tôn tạo, bảo quản và bảo vệ, quản lý di tích như hệ thống phòng cháy chữa cháy, điện chiếu sáng, cung cấp nước...

Được biết tổng mức đầu tư 106 tỷ đồng do nguồn vốn Trung ương cấp, ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác... Thời gian thực hiện dự án từ nay đến năm 2010(vi.wikipedia.org)

Ngày 13/6/2013, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã khởi công công trình Bảo tồn, tu bổ di tích Tả Tùng Viện và Hữu Tùng Viện thuộc tổng thể di tích lăng vua Thiệu Trị. Đây là công trinh mang đậm dấu ấn kiến trúc của Cố đô Huế với các hạng mục chính như: tu bổ, phục hồi Tả Tùng Viện với diện tích 140,14m2 theo lối kiến trúc 3 gian 2 chái đặc trưng và tu bổ, phục hồi Hữu Tùng Viện nằm đối xứng với Tả Tùng Viện. Theo đó, phần nền móng, hệ thống mái, kết cấu gỗ, cột kèo, các khối trang trí và điện nội thất sẽ được tu bổ, phục hồi theo nguyên gốc. Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng miền Trung tiếp tục là đơn vị thực hiện công trình này. Dự kiến thời gian thực hiện công trình sẽ diễn ra trong 2 năm.( http://disanxanh.cinet.vn/)

4.58. Thế Tổ Miếu  thờ vua Tự ĐứcLăng Vua Tự Đức (Khiêm Lăng)

Vua Tự Đức (chữ Hán: 嗣德; 22 tháng 91829 – 19 tháng 71883) là vị vua thứ tư của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任) hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì (阮福時). Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883.

Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi, tức ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức qua đời, hưởng thọ 54 tuổi. Bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực Tông Anh Hoàng đế. Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian tả nhị (gian thứ hai bên trái).

Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ(萬年基), sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung(謙宮). Sau khi vua Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng(謙陵).

Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.

Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.

Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.

Do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần KhiêmTiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm ViệnDung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn do Tự Đức tự dựng cho mình có khắc bài "Khiêm Cung Ký" do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia "Thánh đức thần công" trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội. ( http://vi.wikipedia.org/).

4.59. Điện Long Ân và Lăng Vua Dục Đức

Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng(安陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Ðức, vị vua thứ 5 của triều đại nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhấtlàng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2 km.

Khái niệm khu lăng Dục Ðức thường dùng hiện nay là để chỉ toàn bộ quần thể kiến trúc nằm trong một khu vực rộng gần 6 ha, bao gồm lăng vua Dục Ðức, hoàng hậu và 42 tẩm mộ ông hoàng bà chúa cùng 121 ngôi mộ đất của những người thuộc Ðệ Tứ Chánh phái Nguyễn Phước tộc (hệ phái của vua Dục Ðức).

An Lăng nằm ở khu vực trung tâm, diện tích khoảng 1ha. Lăng gồm 2 khu vực: khu lăng mộ và khu tẩm thờ đặt song song với nhau. Cả hai khu đều có tường thành bao bọc. Lăng quay mặt về phía tây bắc, lấy đồi Phước Quả làm tiền án, núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thủy.

Lịch sử xây dựng

Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sinh năm 1852, khi lên 2 tuổi, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và làm Dục Đức Đường trong kinh thành cho ở. Năm 17 tuổi ông được đổi tên thành Ưng Chân. Khi vua Tự Đức qua đời, vị hoàng trưởng tử 32 tuổi lên nối ngôi, nhưng chỉ sau 3 ngày thì bị phế (23-7-1883) và bị quản thúc tại Thái Y Viện, cuối cùng chết đói ở nhà ngục Thừa Thiên sau 7 ngày không cho ăn uống (6-10-1883); để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. Mộ chôn tạm tại khe cồn Phước Quả, gần chùa Tường Quang. Mấy hôm sau triều đình mới cho người vợ chính là bà Từ Minh được phép lên thăm mộ và làm lễ chịu tang ở chùa Tường Quang. Con trai của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân được đưa lên ngôi vua vào năm 1889, với niên hiệu Thành Thái. Sau khi lên ngôi vua, Thành Thái liền cho xây lăng mộ của vua cha đàng hoàng và đặt tên là An Lăng. Nơi thờ thì có chùa Tường Quang cách 200 mét. Năm 1891, triều đình vua Thành Thái cho xây dựng một ngôi miếu ở phường Thuận Cát, gần bên phải Hoàng thành để thờ vua Dục Đức, đặt tên là Tân Miếu (Năm 1897, đổi tên là Cung Tôn Miếu). Năm 1892, bà Từ Minh Hoàng Thái Hậu - mẹ vua Thành Thái xuất tiền đúc tượng Phật và mở rộng nhà tăng của ngôi chùa Tường Quang, năm sau vua Thành Thái cho đổi tên thành chùa Kim Quang và ban cho chùa tấm hoành phi đề 5 chữ "Sắc Tứ Kim Quang Tự".

Đến tháng 7 năm Thành Thái thứ 11 (8-1899), nhà vua cho xây dựng điện Long Ân gần khu vực lăng mộ vua Dục Đức để thờ cha. Trong khuôn viên này có xây dựng thêm một số nhà của phụ thuộc như Tả, Hữu phối đường, Tả Hữu tòng viện dành cho 7 bà vợ thứ của vua Dục Đức ăn ở để lo hương khói phụng thờ. Năm 1906, bà Từ Minh tạ thế, triều đình cho quy hoạch lại khu vực lăng mộ vua Dục Đức, làm thành một khu lăng kép, xây mộ bà gần mộ ông theo kiểu "song táng", "càn khôn hiệp đức". Cuối năm 1945, ngay sau khi vua Duy Tân tử nạn máy bay ở châu Phi, một cuộc lễ truy điệu nhà vua được tổ chức tại điện Long Ân và thờ chung vua tại đây. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái. Gần hai bên lăng vùa Thành Thái và Duy Tân còn có lăng mộ của 3 bà vợ vua Thành Thái. Và năm 1994, hài cốt bà Mai Thị Vàng (mất năm 1980), vợ vua Duy Tân được đưa vể chôn gần lăng mộ của vua Duy Tân.

Theo http://www.huexuavanay.com: Năm 1907, vua Thành Thái bị truất ngôi vì có tư tưởng chống Pháp, con trai Thành Thái được đưa lên ngôi, đó là Duy Tân. Năm 1916 vua Duy Tân lại bị bắt vì tội tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp do Thái Phiên và Trần Cao Vân tổ chức. Duy Tân cũng bị đày biệt xứ như vua cha. Năm 1953 vua Thành Thái được trở về nước và sống ở Sài Gòn, năm 1954 ông mất, thi hài được hoàng tộc đưa về chôn trong khuôn viên lăng Dục Đức… Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được cải táng từ Trung Phi đưa về chôn cạnh mộ vua Thành Thái. Hiện giờ An lăng là khu mộ chung của ba thế hệ vua: Dục Đức (cha), Thành Thái (con), Duy Tân (cháu)

Ngoài ra, trong khu vực lăng Dục Đức hiện nay còn có 39 lăng mộ các ông hoàng bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ.

Theo địa bộ cũ, lăng Dục Đức chiếm một vùng đất rộng 56.144 m2, trong đó có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ; chia ra làm hai khu vực: lăng và tẩm, nằm cách xa nhau khoảng hơn 50 mét. Cả hai khu vực kiến trúc đều xây thành bao bọc chung quanh. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, dùng một ngọn đồi thấp, thường gọi là cồn Phước Quả làm tiền án; lấy dòng khe chảy ngang trước mặt làm yếu tố "minh đường" và dùng ngọn núi Tam Thai ở đằng sau làm "hậu chẩm".

Đi vào khu lăng mộ - diện tích 3.445m2 bằng một cửa tam quan khá lớn xây bằng gạch, trên làm mái giả. Sau cửa là Bái đình, không có tượng đá như các lăng khác, mà chỉ xây lan can bằng vôi gạch để trang trí. Trung tâm của lăng mộ nằm ngay sau cửa tam quan thứ hai, có ngôi nhà Huỳnh Ốc được xây dựng trên một nền hình vuông mỗi cạch 8 mét. Nhà xây như một phương đình với dạng cổ lầu, mái lợp ngói hoàng lưu ly. Bờ nóc bờ quyết chắp hình rồng và phụng, nội thất trang hoàng đơn giản.

Các công trình kiến trúc nằm trong khu tẩm điện với diện tích mặt bằng 6.245m2. Công trình chính là điện Long Ân là một tòa nhà kép làm theo kiểu cung điện Huế, với 6 bộ vì kèo nóc ở 5 gian nhà trước được kết cấu theo lối "chồng rường giả thủ", trang trí mặt hổ phù rất tinh xảo. Đây là một công trình kiến trúc gỗ có giá trị nghệ thuật trong hệ thống công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở Huế.

Khu Lăng Mộ

Khu lăng mộ có diện tích gần 3.500 m², la thành chu vi 136 m, cao 3,7 m, dày 0,5 m. Mặt trước la thành trổ 1 cửa vòm xây gạch, trên có 2 tầng mái giả ngói (trước kia có 2 cửa hông nhưng đã bị xây bít). Sau cửa là sân Bái đình lát gạch. Hai bên sân không có tượng đá như ở lăng mộ các vua khác. Tiếp đến là 1 cửa tam quan đồ sộ 3 tầng, hình thức như cửa Trường An ở cung Trường Sanh trong Hoàng thành. Ðây là cửa chính của vòng tường thành thứ hai, chu vi 142m, cao 2m, dày 0,5m. Bên trong lại có vòng tường thứ ba, chu vi 106m, cao 1,5m, dày 0,4m bao bọc lấy mộ vua, mộ hoàng hậu và nhà Huỳnh ốc. Ở vị trí trung tâm trong vòng tường thứ 3 là nhà Huỳnh ốc làm theo lối phương đình, mái lợp ngói lưu ly vàng, đặt trên 1 bệ hình vuông, mỗi cạnh dài 7m. Trong nhà có sập thờ, án thờ đều làm bằng đá dùng để trần thiết các đồ thờ cúng. Hai bên ngôi nhà này là hai ngôi mộ của vua Dục Ðức và Hoàng hậu Từ Minh nằm đối xứng với nhau. Mộ đều xây bằng đá Thanh, theo kiểu 5 hình khối chữ nhật chồng lên nhau, tổng chiều cao mộ là 0,85m. Trước 2 mộ đều có bình phong đắp nổi hình chữ Thọ, chữ Song Hỷ. Bên ngoài khu mộ, ở hai bên có 2 trụ biểu xây gạch, trên đắp hình hoa sen, xa hơn nữa có các trụ cấm để giới hạn khu vực lăng mộ.

Khu Tẩm Điện

Khu tẩm điện cách khu lăng mộ khoảng 50m, diện tích rộng 6.245m², có vòng la thành chu vi 260m, cao 2,3m, dày 0,5m bao bọc. Ở cả 4 mặt la thành đều trổ 1 cửa, cửa sau thông với một vòng tường thành hình thang vuông giới hạn khu vực ăn ở của các cung phi và gia nhân.

Cổng chính phía trước làm theo lối tam quan, trên đắp 4 tầng mái xi măng giả ngói ống, thân cổng chia làm nhiều ô hộc để trang trí. Các cổng bên và cổng sau đều làm theo lối cửa vòm, trên có 2 tầng mái giả ngói.

Sau cổng chính là bình phong, rồi đến sân chầu lát gạch Bát Tràng. Trung tâm của khu tẩm thờ là điện Long An, một tòa nhà kép trùng thiềm điệp ốc đặt trên một mặt nền kích thước 24,2m x 22,2m. Chính điện 3 gian 2 chái kép, tiền điện 5 gian 2 chái đơn mái lợp ngói lưu li vàng. Trong điện có 3 khám thờ: khám giữa thờ bài vị vua Dục Ðức và bà Từ Minh Huệ Hoàng hậu, khám bên trái thờ bài vị vua Thành Thái, khám bên phải thờ bài vị vua Duy Tân.

Điện Long An

Sau khi vua Thiệu Trị qua đời, đây cũng là nơi quàn thi hài của vua trong tám tháng, trước khi làm lễ Ninh lăng (đưa đi an táng). Ngoài nơi thờ chính thức trong Thế Miếu, bài vị của vua Thiệu Trị còn được đưa vào thờ tại điện Long An - nơi ông thường lui tới khi còn sống. Trong thời kỳ thất thủ kinh đô (1885), quân Pháp đã tràn vào ngôi điện, làm mất đi sự tôn nghiêm của một nơi thờ phụng. Vì thế, sau biến cố này, bài vị của vua Thiệu Trị được đưa vào thờ tại điện Phụng Tiên bên trong Đại Nội.

Năm 1909, điện Long An được dời về vị trí hiện nay (số 3 Lê Trực - Huế) để làm một chức năng mới với tên gọi là Tân Thơ Viện - nơi lưu giữ hàng ngàn tư liệu bằng chữ Hán và cả chữ Pháp, chữ Anh - chủ yếu phục vụ cho các học sinh của trường Quốc Tử Giám gần đó. Năm 1913, Hội Đô Thành Hiếu Cổ được thành lập với mục đích sưu tầm và nghiên cứu những vấn đề liên quan đến lịch sử vùng đất Thừa Thiên Huế, những vấn đề văn hóa và mỹ thuật thời Nguyễn. Hội cũng ấn hành tập san riêng có tên Bulletin des Amis du Vieux Hué (tập san của Hội Đô Thành Hiếu Cổ, gọi tắt là B.A.V.H.) và lấy một góc của Tân Thơ Viện làm trụ sở. Hàng ngàn hiện vật được đưa về đây cất giữ, hàng trăm bài khảo cứu được xuất bản. Năm 1923, Tân Thơ Viện trở thành Bảo tàng Khải Định, gìn giữ và trưng bày những hiện vật do những hội viên của Hội Đô Thành Hiếu Cổ sưu tầm được.

Có một lịch sử phức tạp như vậy, điện Long An đã gắn liền với những thăng trầm của Huế. May mắn thay, trải qua chiến tranh và thời gian hơn 154 năm, điện Long An vẫn còn khá nguyên vẹn với toàn bộ hệ thống kiến trúc bằng gỗ được làm theo kiểu trùng thiềm điệp ốc - kiểu kiến trúc cung đình phổ biến thời Nguyễn. Các hệ thống cột gỗ ở đây đều để mộc trơn, không sơn son thếp vàng. Nhưng bù lại, điện Long An có một hệ thống vì kèo được chạm trổ rất tinh xảo theo đồ án lưỡng long triều nguyệt (hai con rồng chầu vào mặt trăng) cùng các liên ba, đố bản có chạm khắc rất nhiều bài thơ. Hầu hết những bài thơ này đều do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác. Thơ trang trí trong điện Long An được bố trí, sắp xếp ở hầu khắp trong-ngoài ngôi điện nhưng không bị lặp lại, không gây cảm giác nhàm chán. Sự phong phú ở đây được thể hiện không chỉ về nội dung, hình thức trình bày mà còn cả về thể loại thơ. Đặc biệt, điện Long An có hai tác phẩm thơ nổi tiếng của vua Thiệu Trị - đó là bài Vũ trung Sơn thủy (Cảnh trong mưa) và bài Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên) được làm theo kiểu hồi văn kiêm liên hoàn gồm 56 chữ Hán nhưng có thể đọc thành 64 bài thơ. Những tác phẩm này không những thể hiện một tâm hồn thi sĩ của vua Thiệu Trị mà còn mang tính khoa học ở cách lý giải, cách giải mã trong phạm vi một số lượng chữ hạn hẹp nhưng lại chứa đựng một nội dung sâu xa rộng lớn hơn nhiều. Cho đến tận ngày nay, chung quanh việc giải mã những bài thơ của vua Thiệu Trị vẫn còn rất nhiều bàn cãi. Điện Long An, với tất cả vẻ đẹp về kiến trúc và mỹ thuật, xứng đáng là ngôi điện đẹp nhất hiện còn ở cố đô.( http://geckotrip.com/)

Hai bên điện Long An, phía trước có Tả, Hữu phối điện, sau có Tả, Hữu Tòng viện nối thông với nhà cầu qua điện chính. Ngoài vòng tường thành có nhà trực, điếm canh và nhà ở của quan quân hộ lăng.

Giá trị

So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn hơn. Lăng gồm hai khu vực: điện Long Ân và lăng mộ vua cùng Hoàng hậu, đều lấy cồn Phước Quả ở đàng trước làm tiền án, khe Mụ Niệm chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường và dùng ngọn núi Tam Thai ở đằng sau làm hậu tẩm.

Khu vực lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m², bên trong không có Bi Đình và tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Chính giữa Bửu Thành có một nhà Huỳnh Ốc dạng phương đình, thay thế cho nhà bia. Bên trong nhà Huỳnh Ốc không có bi ký, thay vào đó là một sập đá và kỷ đá dùng để bày hương án và hào soạn mỗi khi cúng giỗ nhà vua. Điện Long Ân ở trung tâm khu vực tẩm là một công trình được xây cất theo khuôn mẫu của các ngôi điện có ở Huế. Bên trong hiện có 3 án thờ thờ bài vị của các vua: Dục Đức và vợ (ở giữa), Thành Thái (bên trái) và Duy Tân (bên phải).

Phía sau điện Long Ân ngày xưa là chốn hậu cung của các bà vợ vua, giờ đây được mở rộng và chỉnh trang thêm. Đó cũng là nơi yên nghỉ của hai ông vua Thành Thái và Duy Tân. Trong khu vực này còn có mộ của các bà vợ vua Thành Thái: mộ bà Hoàng Quý Phi Nguyễn Gia Thị Anh, bà Nguyễn Thị Định (mẹ vua Duy Tân) và bàKhoan Phi Hồ Thị Phương; mộ công chúa Lương Linh (em vua Duy Tân), mộ bà Mai Thị Vàng (cải táng) vợ vua Duy Tân và một số lăng mộ của các hoàng thân anh em với vua Duy Tân. Khu vực An Lăng còn có 39 lăng mộ các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ (Nguyễn Phúc Tộc). (http://vi.wikipedia.org/)

4.60. Lăng mộ Vua Hiệp Hòa

Vua Hiệp Hòa (18471883), tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Nguyễn Phúc Thăng. Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Vua Hiệp Hòa lên ngôi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn.  Đó là ngày 30 tháng 10 năm Qúy Mùi tức 29 tháng 11 năm 1883. Hiệp Hòa làm vua được 4 tháng, mất lúc 36 tuổi, giao cho Phủ Tôn nhân chôn cất theo nghi thức Quốc Công. Vì là phế đế nên vua Hiệp Hòa không được thờ trong Thế Miếu.

Du khách khi đến Huế sẽ thật khó để tìm ra lăng vua Hiệp Hòa - một trong 13 vị vua Triều Nguyễn, ông vua chỉ nắm giữ ngai vàng trong vòng 4 tháng. Bởi lẽ lăng của ông chỉ như mộ của biết bao người dân bình thường khác. Nơi yên nghỉ của vua Hiệp Hòa cách thành phố Huế 7km, đó là Khu di tích lịch sử Chín Hầm. Theo tấm bảng chỉ dẫn bằng bê tông nằm núp sau vòm cây cỏ do lâu ngày không ai cắt dọn, rẽ vào con đường mấp mô đất đá với 2 bên là khu nghĩa trang phía Tây thành phố Huế là nơi yên nghỉ của vua Hiệp Hòa. Do thời gian, tường gạch đã ngả màu rêu phủ, ngôi mộ bình thường đến nỗi không có điểm gì đặc biệt hơn những ngôi mộ của người dân xung quanh. Lăng chỉ vẻn vẹn chừng 30m2, có một mái che bằng ngói, 2 bậc thang bước lên, ở giữa là tấm bia nhỏ bằng xi măng khắc mấy dòng bằng chữ Quốc ngữ: Vua Hiệp Hòa tức Nguyễn Phúc Hồng Dật - Sinh ngày 24/9 năm Đinh Mùi (1/11/1847) - Mất ngày 30 tháng 10 năm Qúy Mùi (29/11/1883).

Mặt sau của tấm bia có ghi bốn câu thơ bằng chữ Hán của vua Tự Đức, dịch nghĩa là: “Em ta được mười bốn - Ham học thật ít người - Ngoại trừ Kiến Thụy Công - Nay chỉ còn Văn Lãng”.

Phía sau nhà bia là cổng vào mộ có hai câu viết bằng chữ Hán. Câu bên phải là của vua Hiệp Hòa tự đánh giá về mình: “Quý dĩ tiên hoàng quý tử tư chất tầm thường thật vạn bất can đương”, dịch nghĩa: “Là con út yêu quý của tiên hoàng có tư chất tầm thường không cam nổi ngai vàng”.

Câu bên trái là của Viện Cơ Mật: “Kim nhật tất cầu xã tắc trường quân vô như Văn Lãng Công chi hiền”, dịch nghĩa: “Khen Văn Lãng Công hoàn tất tốt việc cúng tế ở đàn xã tắc”.

Phía sau bình phong có đắp nổi hình tượng lưỡng long tranh châu bằng sành sứ. Chính giữa là một bát hương.

Xung quanh khu vực lăng, cây cỏ mọc xanh không ai nhổ bỏ, quét dọn, không tường chắn bao bọc, chỉ đơn giản, sơ sài. Lăng của một ông vua mà biết bao người thắc mắc, ngạc nhiên. Nó thật lạ, lạ như chính cuộc đời ông vậy.

Theo http://www.thanhnien.com.vn: Xót xa trước tình cảnh lăng mộ của một vị hoàng đế nhưng chịu cảnh hoang tàn, vừa qua, một nhóm thân hữu người Huế ở TP.HCM và Đà Nẵng đã đứng ra vận động quyên góp để trùng tu lại khu lăng mộ.

Theo đó, khu lăng mộ đã được trùng tu lại theo kiến trúc cung đình triều Nguyễn với đầy đủ các hạng mục, gồm: tẩm lăng, bi đình, sân bi đình, đường trung đạo, trụ biểu, bình phong, hiển long và ẩn long… đúng tiêu chuẩn của một khu lăng mộ của một bậc hoàng đế.

Lăng mộ của vua Hiệp Hòa tọa lạc ở khu vực đồi thông thuộc P.An Tây, TP.Huế (Thừa Thiên-Huế) trước đó đã bị hoang phế vì không được trùng tu, sửa chữa.

Sáng 13.8, đại diện phủ Văn Lãng, hậu duệ của vua Hiệp Hòa và nhóm vận động trùng tu đã tổ chức lễ hoàn công công trình trùng tu xây dựng lăng vua Hiệp Hòa, vị vua thứ 6 của vương triều nhà Nguyễn.

Lễ hoàn công còn có sự góp mặt của các nhà nghiên lịch sử, văn hóa Huế, đến tham dự và dâng hương.  

Được biết, mặc dù là vị vua thứ 6 của vương triều Nguyễn, nhưng do bối cảnh lịch sử có nhiều uẩn khúc chưa được làm sáng tỏ nên đến nay, lăng mộ của vua Hiệp Hòa vẫn nằm ngoài danh mục của quần thể di tích cố đô Huế và không được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế quản lý.

4.61. Thế miếu và lăng Vua Kiến Phúc

Vua Kiến Phúc (18691884), sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi.

Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông thụy hiệu là Thiệu Đức Chí Hiếu Uyên Duệ Nghị Hoàng đế

Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian thứ hai bên phải).

Lăng của Kiến Phúc đế hiệu là Bồi Lăng (陪陵), ở phía trái Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, phường Thủy Xuân, thành phố Huế.

Lăng mộ của hoàng đế nhà Nguyễn, lăng Kiến Phúc không có khuôn viên riêng (nằm trong quần thể kiến trúc lăng Tự Đức) và quy mô khá khiêm tốn. Dù vậy, đây vẫn là một lăng mộ hoành tráng và còn khá nguyên vẹn nếu so với mặt bằng chung của các lăng mộ hoàng tộc Nguyễn ở Huế.

4.62. Thế miếu và lăng Vua Hàm Nghi

Vua Hàm Nghi (18711943). Tên húyNguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Nguyễn Phúc Minh.

Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2-8-1884) Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.

Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), thọ 72 tuổi. Năm 2008, hài cốt vua Hàm Nghi được đưa về cải táng tại Huế. Năm 2009, ông được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc đưa về thờ tại Thế Tổ Miếu (hoàng thành Huế). Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên trái).( (http://vi.wikipedia.org/)

Theo http://www.khamphahue.com.vn: Vua Hàm Nghi mất ngày 14 tháng 1 năm 1944, an táng ngay trong khuôn viên biệt thự Gia Long trên đồi El Biar nhìn ra vịnh Alger. 

Năm 1962, nước Algérie độc lập, Chính phủ Pháp buộc lòng phải di chuyển kiều dân Pháp cùng toàn bộ tài sản mồ mã của người Pháp về Pháp. Gia đình vua Hàm Nghi cũng thuộc diện kiều dân Pháp nên vào năm 1965, chuyển qua sinh sống tại lâu đài de Losse bên bờ sông Vézère thuộc làng Thonac tỉnh Dordogne (miền trung tây nước Pháp, sát với biên giới phía tây nam tỉnh Corrèze), do Công chúa Thạc sĩ Nông học Như Mai tạo lập từ nhiều thập niên trước. 

Lăng mộ vua Hàm Nghi và bà quản gia Delorme  cũng được cải táng qua nghĩa trang do Công chúa Như Mai tạo lập riêng cho gia đình bà tại Thonac. Khu nghĩa địa được bao bọc bởi một vòng thành xây bằng đá rất cổ. Cho đến năm 1999 lớp vôi vữa áo bên ngoài đã bị thời gian bóc hết để trơ lại những bức tường đá lởm chởm gây cảm giác như một di tích của thời thượng cổ. 

Lăng mộ vua Hàm Nghi hết sức đơn sơ, gồm hai khối bê-tông chồng lên nhau. Khối lớn khoảng 4m x 6m, cao 0.6m, chưa kể phần móng chôn sâu dưới đất, khối nhỏ chiều ngang bằng một phần ba khối lớn chồng trên khối lớn ở vị trí trung tâm. Trên mặt bê-tông của khối lớn còn thừa ở bên trái (từ ngoài nhìn vào) gắn tấm bia mang từ Alger sang với dòng chữ: ”S.M. Ham Nghi. Hué 1871- Alger 1944. Empereur d’ Annam“ (Dịch nghĩa: Vua Hàm Nghi. Huế 1871-Alger 1944. Hoàng đế nước Annam). Phần bê-tông bên phải có một tấm đá dùng làm nắp che cho cửa huyệt mộ lăng. 

Trong huyệt mộ này cho đến nay đã táng 5 người. Các hàng chữ khắc trên mộ như sau:

S.M. HAM NGHI, Empereur d'Annam, Hue 1871 - Alger 1944 (không phải năm 1940 như Ngô Công Đức đã viết); 

S.A.I. La princesse d'Annam, née Marcelle LALOË, 1884 – 1974 (S.A.I. viết tắt của các từ  Son Altesse Impériale Hoàng phi Marcelle LALOË, 1884 – 1974 vợ chính thức của vua Hàm Nghi chứ không phải bà Marie Jeanne Delorme (1952-1941), là vợ vua Hàm Nghi như NCĐ viết)

Nhu May, Princesse d'Annam, 1905 – 1999 (tức Công chúa Như Mai, người Pháp đọc chữ Mai là “Me” cho nên phải khắc trên bia là Như May); 

Minh Duc, Prince d'Annam, 1910 – 1990 (Hoàng tử Minh Đức) 

Marie Jeanne DELORME, 1852 - 1941 (lớn hơn vua Hàm Nghi 19 tuổi, người quản gia, do chính phủ Pháp cử đến giúp vua Hàm Nghi ngay từ khi vua Hàm nghi mới bị đày sang Alger, chứ không phải vợ vua Hàm Nghi như NCĐ viết). 

Đến năm 2002, Mathilde Tuyết Trần đã đến viếng lăng mộ vua Hàm Nghi và cho biết (qua Diễn Đàn ở Paris) thêm hai thông tin mới: 1. Ngôi lăng mộ vua Hàm Nghi được sửa sang tươm tất hơn, 2. Nghĩa địa riêng do Công chúa Như Mai tạo lập nay đã trở thành khu mộ của dân địa phương với nhiều ngôi mộ khác mọc lên chung quanh. 

4.63. Thế miếu và lăng Vua Đồng Khánh 

Vua Đồng Khánh (1864 – 1889), là vị vua thứ 9 của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889Thụy hiệu của ông là Hoằng Liệt Thống Thiết Mẫn Huệ Thuần Hoàng Đế 

 Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.

Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bị bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi.

Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.

Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở gian tả tam (gian thứ ba bên trái).

Lăng Ðồng Khánh hay Tư Lăng(思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng vua Đồng Khánh. Lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, xã Thủy Xuân, thành phố Huế).

Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư Lăng.

Tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Ðịnh (1916-1925), con trai vua Ðồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái ÐìnhBi Ðình đến Bửu Thành và Huyền Cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Ðịnh, đến tháng 7-1917 mới hoàn thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng Tả Hữu Tùng Viện; Tả Hữu Tùng Tự tiếp tục được tu sửa cho đến năm 1923.

Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng Tự Ðức và phong cách hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Ðịnh sau này thì lăng Ðồng Khánh là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình vẫn mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa phụ thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh, tứ quý... quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của Việt Nam. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước... bằng sơn mài, ghép khảm và chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh trong điển tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở Trung Hoa.

Quá trình xây dựng

Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối đời vua (1888: khu vực điên Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915,1917,1921,1923).

Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng Khánh, Thành TháiDuy Tân vàKhải Định.

Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yấu tố "minh đường" và ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 kim được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai...Nếu tượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng voi gạch với dáng cao ngưng gầy.

Công trình kiến trúc nổi bật về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện Ngưng Hy, là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế, nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu). Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ "tam" với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng, nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.

Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng pháp lam ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó người xưa đã diễn tả rất nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi...con gà, con rắn, cắc kè, voi, ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.

Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nôi thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24 câu chuyện trong "Nhị thập tứ hiếu".

Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.(http://vi.wikipedia.org/).

4.64. Thế miếu và lăng Vua Thành Thái

Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Do chống Pháp nên ông, cùng với các vua Hàm Nghi và Duy Tân, là 3 vị vua yêu nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc bị đi đày tại ngoại quốc.  

Vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889 với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.

 Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngôi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị. Sau đó, ông bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Năm 1916, ông bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi). 

Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất ngày 9 tháng 3 năm 1954, thọ 77 tuổi

Ông được thờ trong Thế miếu. Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái), còn án thờ vua Duy Tân đặt ở gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải).

Theo.huexuavanay.com:  Năm 1953 vua Thành Thái được trở về nước và sống ở Sài Gòn, năm 1954 ông mất, thi hài được hoàng tộc đưa về chôn trong khuôn viên An lăng - lăng Dục Đức… Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được cải táng từ Trung Phi đưa về chôn cạnh mộ vua Thành Thái. Hiện giờ An lăng là khu mộ chung của ba thế hệ vua: Dục Đức (cha), Thành Thái (con), Duy Tân (cháu)

An Lăng nằm ở khu vực trung tâm, diện tích khoảng 1ha. Lăng gồm 2 khu vực: khu lăng mộ và khu tẩm thờ đặt song song với nhau. Cả hai khu đều có tường thành bao bọc. Lăng quay mặt về phía tây bắc, lấy đồi Phước Quả làm tiền án, núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thủy (xem phần lăng mộ vua Dục Đức)

 3.65. Thế miếu và lăng Vua Duy Tân 

Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ 1907 tới 1916), sau vua Thành Thái

 Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên là Hoảng, con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định, sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900).

Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi. 

Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân... vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trốn ra khỏi Kinh Thành. 3 ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion ở Ấn Độ Dương

Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, vua Duy Tân bị mất khi máy bay của ông rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hoà Trung Phi.

Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An LăngHuế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987.

4.66. Thế miếu và lăng Vua Khải Định 

Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị vua thứ mười hai nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925 .  

 Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu), sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885). 

Vua Đồng Khánh mất, Hoàng tử Bửu Đảo còn ít tuổi (4 tuổi) nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, triều đình Huế và người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày 18-5-1916, lấy niên hiệu là Khải Định.

Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6-11-1925), thọ 41 tuổi.

Sau khi chết, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế.

Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở gian hữu tam (gian thứ ba bên phải).

Lăng Khải Định (còn gọi là Ứng Lăng 應陵) toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế.

Khải Định lên ngôi năm 1916 ở tuổi 31. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng nhiều cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Định, cửaTrường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, đặc biệt là Ứng Lăng.

Để xây dựng sinh phần cho mình, Khải Định đã tham khảo nhiều tấu trình của các thầy địa lý cuối cùng đã chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí để xây cất lăng mộ. Ở vị trí này, lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ"; có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm "thủy tụ", gọi là "minh đường". Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ - vừa là hậu chẩm, vừa là "mặt bằng" của lăng - thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi là Ứng Lăng.

Núi Châu Chữ cách thành phố Huế khoảng 10km về phía Tây Nam. Vua Khải Định đã cho người sang PhápTrung Quốc, Nhật Bản để thu mua nguyên liệu, phục vụ cho việc xây Lăng Mộ

Địa thế của Lăng Khải Định được tính toán rất kỹ lưỡng, vị trí các ngọn núi đồi, khe suối xung quanh lăng đều ứng với các yếu tố phong thủy địa lý, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Kiến trúc của Lăng Khải Định rất lạ, khác hắn kiến trúc lăng mộ của các vị vua triều Nguyễn trước đó. Đây là công trình có lối kiến trúc độc đáo pha trộn giữa nét hiện đại của Châu Âu và nét cố điển của Việt Nam.

Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 do Tiền quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy và kéo dài suốt 11 năm mới hoàn tất. Tham gia xây dựng lăng có rất nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn TánhNguyễn Văn KhảKý DuyệtCửu Sừng...

So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều, với kích thước 117 m × 48,5 m nhưng ngược lại cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung HoaNhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.

Lối vào Lăng Khải Định là một cổng chào uy nghi sừng sững và 37 bậc cấp thang với thành được đắp tượng rồng rất lớn. Thêm 29 bậc nữa đến sân chầu Bái Đình. Hai bên sân chầu có hai hàng tượng lính hướng mặt vào giữa sân. Các bức tượng đều được làm bằng đá hiếm và được tạc rất công phu

Cung Thiên Định ở vị trí cao nhất và là công trình chính của Lăng, được xây dựng rất công phu và tinh xảo. Toàn bộ nội thất trong cung đều được trang trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là các bộ tranh tứ quý, bát bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện... và các vật dụng hiện đại như đồng hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa... của vua cũng được trang trí nơi đây. Công trình này gồm 5 phần liền nhau:

  • Hai bên là Tả, Hữu Trực Phòng dành cho lính hộ lăng;
  • Phía trước là điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định;
  • Chính giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua ở trên và mộ phần phía dưới;
  • Trong cùng là khám thờ bài vị của vua.

Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua.

Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa "Cửu long ẩn vân" lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.

4.67. Mộ Vua Bảo Đại

Vua Bảo Đại (1913 –  1997) là vị vua thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Ông đồng thời cũng là quốc trưởng đầu tiên của Đế quốc Việt Nam (3/1945) và Quốc gia Việt Nam (7/1949).

Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Ông là con độc nhất của vua Khải Định và bà Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913). 

Khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại. Sau đó, ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8-9-1932 mới trở về Huế.

Chiều ngày 25 tháng 8, 1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong bản Tuyên ngôn Thoái vị, ông có câu nói nổi tiếng "Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị".

Chế độ phong kiến chấm dứt, Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại Pháp. Ông đã được an táng trong nghĩa trang Passy ở Paris, nơi chôn cất nhiều nhân vật nổi tiếng.

Vương triều Nguyễn trị vì 143 năm (1802 -1945). Trong số 13 vị vua, Hàm Nghi và Bảo Đại vẫn nằm lại đất khách quê người.

4.68. Đền thờ, lăng mộ tiền quân Nguyễn Văn Thành

Nguyễn Văn Thành (chữ Hán: 阮文誠; 17581817) là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn đồng thời là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên (vua Gia Long) của triều Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam (1802-1945).

Nguyễn Văn Thành là bậc nho tướng, giỏi việc quân, biết dùng người hiền tài, mang phong thái của một mạnh thường quân, việc tài chánh, giao thiệp với ngoại bang, biên soạn hình luật, không gì không làm được, giỏi văn chương

Sách Đại Nam Liệt Truyên còn ghi:

"...Thành có văn võ tài lược, lâm trận dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua, lúc đầu trung hưng, công ấy tốt lắm. Đến khi Bắc hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước..."

Tuy nhiên ông bị bức tử, buộc phải uống thuốc độc trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), hưởng thọ sáu mươi. Năm Mậu Thìn 1868, sau khi nguyên niên được 21 năm, thể theo lời đệ tấu xin gia ân của Đông các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn, Vua Tự Đức đã truy xét công trạng, lại chiếu giải oan án và phong chức tước cho con cháu Tiền Quân Nguyễn Văn Thành.

Lăng mộ Tiền Quân Nguyễn Văn Thành hiện an vị ở xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Lăng mộ có diện tích năm mươi mét vuông, bao gồm bốn cột trụ biểu, bia tiền và bia hậu. Trên bức bia tiền còn ghi rõ chức tước của Tiền Quân khi đã trở về cố đô Huế vào năm 1810 cho đến khi mất: "Việt Cố Khâm Sai Chưởng Trung Quân Bình Tây Đại Tướng Quân Thành Quận Công Chi Mộ". Trên Bức bia hậu ghi tóm tắt tiểu sử công trạng cùng tên tuổi gia quyến của Tiền Quân. Đặc biệt trên bia còn khắc cảnh Xuân Hạ Thu Đông và các hoa văn tượng trưng cho uy quyền và đức độ của ngài khi xưa.

Tại xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trên cuộc đất cao trong khu rừng sao, ngôi đền thờ Tiền Quân Nguyễn Văn Thành được xây dựng từ năm 1820. Toàn bộ khung sườn đền đều làm bằng gỗ sao đốn từ những cây sao già tại khu rừng ấy. Trải qua hơn một trăm tám mươi năm thăng trầm của lịch sử, đền vẫn còn đó dáng uy nghiêm và trầm mặc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Mười Một âm lịch là ngày giỗ của Tiền Quân Nguyễn Văn Thành, tại xã Tân An.

4.69. Đền thờ và lăng Nguyễn Huỳnh Đức

Nguyễn Huỳnh Đức (chữ Hán: 阮黃; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là một trong số các võ quan cao cấp đầu triều Nguyễn, từng giữ chức Tổng trấn của cả Bắc Thành lẫn Gia Định Thành.

Ngày 9 tháng 9 năm Kỷ Mão (tức 27 tháng 10 năm 1819), ông mất khi đang tại chức, thọ 71 tuổi, an táng tại nơi quê nhà và được thờ tại miếu Trung hưng công thần tại kinh đô Huế.

Cách Thị xã Tân An 3,5km về phía Tây, lăng Nguyễn Huỳnh Đức là một trong những kiến trúc lăng mộ cổ nhất ở Long An còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay. Đây là một quần thể kiến trúc bao gồm các công trình chính như cổng, lăng mộ, đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, một công thần khai quốc của Triều Nguyễn

Khuôn viên lăng Nguyễn Huỳnh Đức có diện tích hơn 3000m2, được giới hạn bởi tường rào, có cổng tam quan mở về hướng Đông, trên cổng đắp nổi dòng chữ ''Tiền quân phủ''. Lăng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng năm 1817 (trước khi ông mất) bằng đá ong và vữa tam hợp theo hướng bắc-nam. Lăng được xây dựng theo lối cổ, đăng đối nghiêm ngặt, có vòng thành hình chữ nhật dài 35m, rộng 19m, cao1,2m, dày 0,4m bao quanh. 

     Án ngữ lối vào mộ ở phía bắc tường thành là bình phong đá ong cao 3m có đắp nổi hoa văn mai - lộc. Từ bình phong có đường thần đạo dài 17m dẩn đến phần chính của mộ gồm biểu thành, các trụ biểu, hai bình phong và bia mộ. Trên hai bình phong có khắc 2 bài văn tế Nguyễn Huỳnh Đức của Trịnh Hoài Đức và Trấn thủ Định Tường Nguyễn Văn Phong.

Toàn bộ ngôi mộ được trang trí hoa văn rồng, hoa lá, mặt trời, mây, hoa sen và nhiều câu đối chữ Hán. Nổi bật trong ngôi mộ là bia đá cao 1,56m, rộng 0,95m được mang vào từ Huế. Mặt bia có dòng chử hán: ''Việt Cố Khâm Sai Gia Định Thành Tổng Trấn, Chưởng Tiền Quân, Tặng Thôi Trung Dực Vận Công Thần, Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc, Thái Phó Nguyễn Huỳnh Quận Công Chi Mộ''. Phía sau bia là nơi chôn cất thi hài Nguyễn Huỳnh Đức với một nấm mộ phẳng dài 3,4m, rộng 2,7m, cao 0,3m. Xung quanh mộ là những cây sứ cổ thụ tỏa hương ngào ngạt tạo nên vẻ thâm nghiêm cho nơi an nghĩ của một đại thần khai

quốc. Nói chung lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng theo lối kiến trúc đầu đời Nguyễn: giản dị mà hùng tráng. Cách mộ 20m về phía Nam là đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Từ năm 1819 đến 1959, gia tộc thờ ông trong ngôi nhà xưa do Vua Gia Long sai người dựng cách ngôi mộ khoảng 500m. Vào năm 1959, để tiện cho việc thờ cúng, gia tộc đã xây dựng ngôi đền thờ mới này theo kiểu tứ trụ, 2 tầng mái, cửa gỗ trông ra hướng Đông. Ngay sau cửa chính đền thờ có đặt hương án chạm rồng, phụng, hoa lá sơn son thếp vàng, phía trên có bức họa truyền thần Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được vẽ năm 1802. Phía sau hương án có bộ ván độc mộc dài 3,4m - rộng 1,8m- dày 0,14m có niên đại hơn 300 năm vốn là di vật của người đã khuất. Trong cùng là bàn thờ chính với khánh thờ đặt trên hương án và chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của các triều Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức phong tặng cho tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức. Bên trong đền thờ còn bố trí 3 bộ lỗ bộ, tàn lọng và 4 cặp liễn đối ca ngợi sự nghiệp của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức do Vua Gia Long ngự ban. Ngoài ra những hiện vật cổ có niên đại thế kỷ XVIII và XIX còn được lưu giữ trong đền thờ như: đoản kỷ Vua Xiêm tặng năm 1798, Khánh lệnh đồng Vua Gia Long tặng năm 1819, bức hoành ''Vạn Lý Danh'' Vua Tự Đức tặng năm 1854. Phía sau đền thờ là ngôi chánh điện lợp ngói lưu ly xanh được gia tộc xây dựng năm 2000 theo bản vẽ của Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng (nguyên viện trưởng Viện khảo cổ Sài Gòn). Trước đây vào năm 1972 gia tộc đã cho xây dựng 2 cổng lớn ở hai đầu con đường vòng cung dẫn vào lăng với thiết kế giống nhau theo kiểu cổng tam quan truyền thống. Trên cổng có hàng chữ Hán ''Tiền quân phủ'' và ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'' bằng đồng. Nhìn từ xa, cổng lăng toát lên vẻ đường bệ, uy nghi như chào đón khách tham quan.

Trong dân gian và sử sách, cuộc đời của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đã trở thành huyền thoại. Ông có tên thật là Huỳnh Tường Đức, sinh năm 1748 tại làng Tường Khánh- huyện Kiến Hưng (nay là xã Khánh Hậu - Thị xã Tân An) trong một gia đình võ tướng đã 3 đời. Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1780 lập nhiều công trạng lớn, được ban họ vua và giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Chưởng Hậu Quân, Chưởng Tiền Quân, Tổng Trấn Gia Định Thành, Tổng Trấn Bắc Thành, tước Quận Công. Tương truyền ông là người trung cang, nghĩa khí, võ nghệ cao cường, mọi người đều gọi là ''Hổ tướng''. Ông mất vào ngày 9/9/1819, được dân gian xem như một vị thần. Hằng năm vào 3 ngày 7-8-9 / 9 âm lịch, nhân dân trong vùng tề tựu cùng gia tộc làm lễ cúng ông hết sức trọng thể. Truyền thống này đã được kế tục từ năm 1819 cho đến nay.

Chính quyền thuộc địa đã liệt hạng lăng Nguyễn Huỳnh Đức là 1 trong 404 cổ tích ở Đông Dương. Bộ Văn hóa Thông tin nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đã ra quyết định công nhận lăng Nguyễn Huỳnh Đức là di tích Quốc gia ngày 11/5/1993 (số quyết định 534-QĐ/BT). ( http://www.longan.gov.vn/).

4.70. Đền thờ Nguyễn Công Trứ 

Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.

Nguyễn Công Trứ con quan Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:

Làm trai đứng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

Ông đúng là một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước

Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng.

4.70.1. Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Ninh Bình

Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Thái Bình được xây dựng tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tiền thân của ngôi đền là ngôi nhà ba gian của Nguyễn Công Trứ làm tại ấp Lạc Thiện để ông đi về và làm việc tại đây. Năm 1852, nhân dân Kim Sơn xây dựng lại thành ngôi Sinh Từ (Đền thờ sống). Hàng năm, đến ngày sinh nhật của Nguyễn Công Trứ, nhân dân mở hội mừng thọ ông. Sau khi ông mất, năm 1882, ngôi đền được tu sửa lần thứ nhất và xây dựng tiền đường 5 gian và được đổi tên từ Sinh Từ thành Truy Tư Từ. Năm 1992, đền thờ Nguyễn Công Trứ được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.

Đền thờ Nguyễn Công Trứ độc đáo ở chỗ nó được xây từ chính ngôi nhà ông từng ở đó một thời gian và xây dựng khi ông đang còn sống. Đền có kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, tiền đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Bên tả hữu tiền đường có 2 cột đồng trụ, bên trong có hương án, giá trống, giá chiêng và 3 bức đại tự nói lên tấm lòng thành kính và ngưỡng mộ của nhân dân huyện Kim Sơn đối với Nguyễn Công Trứ. Hậu cung 3 gian, gian giữa để bàn thờ Nguyễn Công Trứ có một bát hương men sứ trắng, cao 40 cm, miệng rộng 40 cm, hoạ tiết màu xanh thẫm vẽ hình lưỡng long chầu mặt nguyệt.

Từ khi Nguyễn Công Trứ mất, hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 11 âm lịch, nhân dân huyện Kim Sơn đều tổ chức lễ tế tại ngôi đền trong 3 ngày. Tại những ngày lễ đó, những nghệ nhân đến đây hát với cây đàn đáy, cặp phách đơn giản và hát những bài ca trù do Nguyễn Công Trứ viết.

Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ là lễ hội lớn nhất của cư dân huyện mới ven biển Kim Sơn tỉnh Ninh Bình để ghi nhớ công ơn của Doanh điền Nguyễn Công Trứ - người đã chiêu dân khai hoang lấn biển lập ra huyện Kim Sơn (núi vàng) của Ninh Bình và Tiền Hải (biển bạc) củaThái Bình. Lễ hội diễn ra từ ngày 14 tháng 11 đến 16 tháng 11 âm lịch hàng năm để tưởng niệm ngày mất của ông.

Phần lễ: Dâng hương tại đền thờ Nguyễn Công Trứ xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn. Thường có sự tham gia của nhiều làng trong huyện Kim Sơn. Điều độc đáo là lễ hội có sự tham gia của cả người lương và giáo với những nghi thức khác nhau.

Phần hội: Tổ chức trò chơi đua thuyền trên nhánh sông Vạc, một đặc trưng của lễ hội cư dân đồng bằng ven biển. Phần hội còn có phần thi hát ca trù, loại hình dân ca liên quan nhiều đến Nguyễn Công Trứ.

4.70.2. Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Hà Tĩnh

Vị trí: Thuộc làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Đặc điểm: Năm 2004-2005, Đền thờ và mộ Nguyễn Công Trứ đã được Bộ Văn hoá Thông tin đầu tư bổ tôn tạo khang trang bao gồm tu bổ lại phần đền thờ, mộ và xây dựng mới nhà ca trù trong khu di tích, nhà bia ghi công lao sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ.

Nguyễn Công Trứ sinh năm Mậu Tuất (1778), tại huyện Quỳnh Côi, Thái Bình nơi thân sinh là Nguyễn Công Tấn làm tri huyện, mất năm Mậu Ngọ (1788) tại quê nhà làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Công Trứ là một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, với nhân cách cao thượng, tâm hồn phóng khoáng, tài năng về nhiều mặt: chính trị, quân sự, kinh tế và thơ ca.

 Sự nghiệp của ông thật rõ ràng, khi vua Minh Mạng cử làm Dinh Điền Sứ ông đứng ra chiêu tập lưu dân lập ra được 2 huyện Kim Sơn, Tiền Hải và hai tổng Hoành Thu và Ninh Nhất. Về văn học Nguyễn Công Trứ sáng tác khá nhiều thơ, biểu hiện quan điểm nhân sinh quan, tâm trạng thái độ, phong cách của tác giả bộc lộ một cách chân thật và sâu sắc trong thơ ca. Tất cả những việc ông làm đều xuất phát từ nhân cách tâm hồn, dù sống trong cảnh nghèo, làm quan ở cái thời nhiễu nhương nhiều lúc bị đối xử bất công nhưng ở cương vị nào ông cũng làm tròn chức phận của mình. Là một ông quan ông giữ đúng “ Thanh, cần, thận, trực” là một con người ông có đủ trung dũng trí tín, ông là một phẩm cách cao đẹp luôn luôn nhập thế hành động vì cuộc đời vì con người.

Di tích Nguyễn Công Trứ ở làng Uy Viễn còn ngôi mộ và nhà thờ. Mộ thời gian đầu là mộ đất cao khoảng 1,5m, do mưa lụt tàn phá bị sụt lở dần. Năm 1918, con cháu xây lại trên khoảng đất bằng phẳng rộng 1860m2. Ba mặt Bắc, Đông, Tây có cây cối bao bọc. Hai bên mộ có tre đằng ngà, phía trước có phi lao, xoan. Mộ hình chữ nhật dài 2,2m, cao 1,1m, phía trên vát kiểu mái nhà, được xây bằng gạch, cát đá mật mía khá chắc. Mộ quay về hướng Bắc, xung quanh có tường bao, phía trước xây thêm bờ gạch cao 1m, rộng 0, 5m đế đặt bát hương và mộ chí khắc rõ bằng chữ Hán: Khải Định Mậu Ngọ xuân kiến (xây dựng vào xuân Mậu Ngọ, Triều Khải Định - 1918).

 Nhà thờ được xây dựng bằng gỗ, lợp ngói mũi hài (1868), sau đó bị hư hỏng và được sửa chữa nhiều lần. Năm 1936 được khôi phục cho đến nay. Nhà được xây dựng trên mảnh đất bằng phẳng rộng 1920m2. Có hàng tre, xen những cây xoan, chuối, bời lời làm thành làng rào tự nhiên bao quanh nhà thờ. Sân nhà khá rộng, có phượng, ngâu, thiên tuế, bưởi, trúc, hoa giấy xanh tốt tạo nên khung cảnh tươi mát. Nhà thờ gồm 3 gian, hai đốc liên kết nhau thông qua hai vì kèo kiểu quá giang cột đấu. Cột kèo, xà gồ và cánh cửa bằng gỗ lim. Mặt tiền có 4 trụ đứng, đỡ lấy một máng xối kiêm chắn mái xây bằng gạch vữa. Thân trụ mặt trước có các đường chỉ dọc hai bên, ở giữa phẳng làm chổ ghi câu đối:

“ Uy viễn Bạch Đường bản chi bách tuế.

Hồng Sơn Lam thuỷ chung tự thiên nhiên”

(Họ này ở Uy Viễn cùng dòng với họ ở xã ở Bạch Đường đã trăm năm.

Vẻ đẹp Núi Hồng Sông Lam chung đúc tự ngàn năm).

 Ở gian giữa phía trong có hai câu đối nêu rõ công lao của Nguyễn Công Trứ và sự trường tồn của tinh thần ông.

“ Ngọc Noạ, Vân Trung bằng đại thụ.

Kim sơn, Tiền Hải thiện cam đường”

(Nghĩa là: Ngọc Noạ, Vân Trung lấp lánh dựa vào cây đại thụ.

Kim Sơn, Tiền Hải ngọt ngào có nhớ người xưa).

Phần chắn mái có bức đại tự bằng chữ Hán: “Nguyễn Công từ đường”. Trên đỉnh đại tự, có bức cuốn thư đắp nổi khá đẹp. Trên cuốn thư, góc trái, đặt trên đuôi rồng là thanh gươm, góc phải có ngọn bút, mặt chính có 3 chữ Hán: “Trần Lưu quận”. Cùng nằm trên mặt phẳng với chắn mái, đặt ở khoảng cách đều nhau từ trái sang phải có 4 trụ đứng.

 Đỉnh trụ hai bên phải trái có hai con nghê mập khoẻ, ghép bằng mảnh sứ, trắng, xanh, bờ nóc nhà thờ gồm hai mảng trên trừ hai góc, có đáp một dải, vừa uốn cong, đáp hình lưỡng long chầu nguyệt. Hình con rồng khoẻ, nhưng không kém phần bay bướm. Mảng tường trước nhà thờ được trổ ba cửa rộng, phía trên bên trái có chữ “Vô tư”, phía phải có chữ “ Chí công”.

Nội thất, đồ tế khí tập trung vào gian giữa, hai gian hai bên chỉ để giá trống, giá chiêng phục vụ hành lễ. Nhìn từ cửa vào, gian giữa có giá cắm cờ, biển, bàn gỗ, đèn hương. Trên giá cắm cơ có biển đề chữ: “ Huân danh nghiệp đỉnh” (danh tiếng lên đến tuyệt đỉnh). Đáng chú ý nhất là bức chân dung Nguyễn Công Trứ được vẽ sơn dầu, đặt trên hương án ở vị trí trang trọng nhất.

 Năm 2004-2005, Đền thờ và mộ Nguyễn Công Trứ đã được Bộ Văn hoá Thông tin đầu tư bổ tôn tạo khang trang bao gồm tu bổ lại phần đền thờ, mộ và xây dựng mới nhà ca trù trong khu di tích, nhà bia ghi công lao sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ.( http://www.vietnamtourism.com.vn/)

4.71. Đền thờ Nguyễn Tri Phương

Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).

Nguyễn Tri Phương (chữ Hán: 阮知方) tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân (tức 9 tháng 9 năm 1779), quê làng Đường Long (Chí Long), xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức chuẩn phê cải tên ông là Nguyễn Tri Phương. Từ đó tên Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Sau đó ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp.

Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, vua Tự Đức cử ông làm Quân thứ Tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống lại. Với vũ khí tối tân, Pháp đã uy hiếp và phá hủy một số lớn đồn lũy của Việt Nam, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Tuy nhiên, do công cuộc kế hoạch phòng thủ của Nguyễn Tri Phương chu đáo nên quân Pháp không thể tiến lên được.

Đêm ngày 19, rạng sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, Garnier đánh úp thành Hà Nội. Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết tại trận, Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa". Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức  tự soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.

Tấm gương quên mình vì nước của ông được nhân dân khâm phục, kính trọng, ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Hoàng Diệu) trên gò Đống Đa với câu đối:

Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa

Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên

Dịch:

Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất

Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Để tỏ lòng ngưỡng mộ và thương tiếc vị anh hùng sau khi ông mất, nhân dân Biên Hòa đã xây ngôi đền thờ tại làng Mỹ Khánh, dinh Trấn Biên (nay là phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa). Đền đã được Bộ Văn hóa -Thôn tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1992.

Với diện tích 500 m2, đình được lợp bằng mái lợp ngói vảy cá. Mặt trước của đền được đắp nổi với dòng chữ: Mỹ Khánh đình bằng chữ Hán và hai bên là cặp lý ngư hóa long, nhật nguyệt. Chính điện của đền ngày đêm nhang khói nghi ngút, hai bên thờ tả ban, hữu ban liệt vị... Chính điện có tượng Nguyễn Tri Phương được tạc khắc bằng gỗ. Tương truyền, một bô lão ở địa phương nằm mộng thấy Đức Ông Nguyễn Tri Phương hiện về với áo mũ lẫm liệt, vũ khí trong tay oai hùng, bèn chặt cây mít trước nhà tự tay tạc như hình trong mộng. Đó là bức tượng chính của đền hiện nay, cũng cần nói rõ tác giả bức tượng không phải là nhà điêu khắc.

Đền thờ Nguyễn Tri Phương luôn được nhân dân địa phương và Ban quí tế trông coi gìn giữ ngăn nắp, sạch sẽ. Vào các ngày lễ, hội bao thiện tâm tín hữu tụ họp về đền dâng hương cầu phúc. Hàng năm, đền tổ chức lễ Kỳ yên rất long trọng. Lễ Kỳ yên (cầu an) còn gọi là lễ vía thần, nghi thức của lễ Kỳ yên cũng giống như nghi thức của lễ cúng Đình thần Nam bộ bao gồm: Lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, lễ rước thần, lễ dâng vật cúng thần và lễ tống ôn. Lễ Kỳ yên ở đền Nguyến Tri Phương được tiến hành vào ngày 16 và 17 tháng 10 âm lịch. Lễ Kỳ yên được chuẩn bị rất chu đáo. Trước khi hành lễ, các vị hương chức lớn nhỏ đều hội tại đền để yết kiến thần thánh. Đến tối lễ bắt đầu từ lúc trăng lên cũng là khi con nước bắt đầu lớn. Lễ kéo dài trong hai ngày với những nghi thức tiến thần, diễn hành lễ bộ, tống phong... rất độc đáo và đẹp mắt. Dân trong làng, các nơi xa gần cùng các ban quí tế đình, đền trong vùng đến dự.

Vào các ngày lễ, nhân dân nhiều địa phương tụ họp về đây để dâng hương cầu phúc. Hàng năm vào trung tuần tháng 10 âm lịch, tại đền có tổ chức lễ Kỳ Yên kéo dài trong ba ngày với nhiều nghi thức cổ truyền. Nhân dân ở các nơi gần xa đều đến tham dự đông đảo.

4.72. Đền thờ Nguyễn Hữu Huân 

Nguyễn Hữu Huân (chữ Hán 阮友勳, 1830-1875), được biết nhiều với danh hiệu Thủ Khoa Huân. Ông là một sĩ phu yêu nước, và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19. Nguyễn Hữu Huân là người làng Mỹ Tịnh An, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Ông mất ngày 15 tháng Tư năm Ất Hợi (tức 19 tháng 5 năm 1875) do người Pháp hại.

Mộ và đền thờ Thủ Khoa Huân được xây dựng ngay tại quê nhà của ông. Ban đầu mộ được đấp bằng đất, đầu thế kỷ 20, cháu ngoại của ông là Trần Văn Thông xây lại bằng đá xanh. Trong đền thờ có nhiều hoành phi và câu đối ca ngợi khí tiết của Thủ Khoa Huân.

Trên đường từ TP. Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, khi đến ngã ba Tân Hiệp, rẽ trái, đi khoảng 5 cây số, sẽ đến Tịnh Hà. Gần chiếc cầu sắt Cai Lộc bắc qua rạch Bảo Định, rẽ trái, đi thêm một đoạn nữa, thì sẽ thấy đình thờ và phần mộ của Thủ Khoa Huân. Trước kia, nơi đây kéo dài ra cầu sắt Cai Lộc là bãi chợ Phú Kiết. Trở ra cầu Cai Lộc cạnh ngã tư (đường xuống Nhựt Tiên, đường ra Phú Kiết, đường về Tân An, đường Lên giồng Tân Hiệp) sẽ thấy một tấm bia mộ kỷ niệm nơi ông thọ án.

Đền thờ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân có diện tích khoảng 0,5ha, tọa lạc ở ấp Hòa Quới, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo (Tiền Giang), được xây dựng khá khang trang theo lối kiến trúc truyền thống, cách Ủy ban nhân dân xã 500m về phía bắc và quốc lộ 1A 3,5km về phía đông. 

Về ngôi mộ, lúc đầu được đắp bằng đất, đến năm 1927, con cháu ông và người dân địa phương xây dựng lại bằng đá xanh gồm hai phần: núm mộ và bia mộ. Theo các vị bô lão địa phương, mộ được xây theo kiểu "voi phục" vì trông giống con voi đang nằm áp bụng xuống đất. Nhân dịp  xây dựng đền thờ, mộ ông cũng được nâng lên, trùng tu những vẫn giữ nguyên trạng như lúc ban đầu.

Nền mộ là những phiến đá dày 30cm, rộng 40cm, dài 120cm ghép lại với nhau thành nền để đặt núm mộ với diện tích phần nền bằng đá 4,042m2. Núm mộ gồm hai tảng đá xanh có hình dáng mô hai đầu cao 70cm, phần giữa lõm xuống cong như lưng voi, phía trước có hoa văn khắc ô chữ nhật xoáy vòng, phía sau hoa văn là những vòng gợn và uốn xoáy lại ở cuối đã được ghép bằng ximăng theo chiều dài. Bia mộ nối liền với núm mộ gồm ba phần: chân bia, thân bia và mái bia.

Chân bia là một khối đá hình chữ nhật có chạm hoa văn hình lá. Thân bia để viết chữ dày 40cm, cao 72cm, ngang 100cm. Mái che bằng đá xanh cao 32cm, ngang 38cm. Mái che giả ngói chia làm tám rãnh, cuối đầu mỗi rãnh có chạm hoa sen, hai đầu chạm hai con dơi quay mặt ra ngoài trong tư thế đang bay trông rất sinh động. Ngôi mộ tuy không nguy nga, lộng lẫy nhưng đã nói lên được sự tôn kính của người dân địa phương với vị anh hùng dân tộc.

Tại đây, các ngành chức năng đã thành lập ban bảo vệ đền thờ, hằng ngày có người trông nom, chăm sóc khu di tích và đón tiếp khách tham quan. Hằng năm, tỉnh Tiền Giang đều tổ chức lễ giỗ ông vào trung tuần tháng 4 âm lịch. Tưởng nhớ ông, Ủy  ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã cho xây dựng một tượng đài lớn trong công viên Lạc Hồng cạnh sông Tiền, ngay trung tâm thành phố Mỹ Tho.

Đền thờ và mộ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân có giá trị lịch sử văn hóa. Mười lăm năm chống giặc, ba lần khởi nghĩa, ba lần bị bắt, bị đày tận đảo Réunion nhưng ông không nao núng tinh thần cho đến phút cuối cùng. Đó chính là niềm tự hào dân tộc nói chung, của người dân Tiền Giang nói riêng trong cuộc đấu tranh giữ nước. (http://thptthukhoahuan.tiengiang.edu.vn/)

4.73. Đền thờ Nguyễn Quang Bích 

Nguyễn Quang Bích (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là Ngô Quang Bích, tự Hàm Huy, hiệu Ngư Phong; là quan nhà Nguyễnnhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại vùng Tây Bắc (Việt Nam).

Nguyễn Quang Bích sinh ngày 8 tháng Tư năm Nhâm Thìn (tức 7 tháng 5năm 1832) tại làng Trình Phốhuyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).

Năm Ất Hợi (1875), được vua Tự Đức giao cho duyệt bộ sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Cũng trong năm này, triều đình mở doanh điền Hưng Hóa (tức tỉnh Phú Thọ ngày nay) vừa khai hoang vừa phòng vệ vùng núi rừng Tây Bắc, ông được cử làm Chánh sơn phòng sứ. Đến năm sau (1876) ông kiêm thêm chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa. Tại đây, Nguyễn Quang Bích phối hợp với Tôn Thất ThuyếtHoàng Tá Viêm vừa đánh dẹp vừa lôi kéo phân hóa các đội quân người Trung Quốc mà sử cũ gọi là "giặc khách" (tàn dư của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất). Đặc biệt, trong số người mà Nguyễn Quang Bích cảm hóa được có Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh đội quân Cờ Đen (dư đảng của Thái Bình Thiên quốc)

Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Cam Lộ (Quảng Trị), ban bố dụ Cần Vương. Biết Nguyễn Quang Bích là người có chí và có tài đức, nhà vua phong ông làm Lễ bộ thượng thư, sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu; lãnh nhiệm vụ tổ chức kháng chiến ở vùng Tây Bắc (Bắc Bộ).

Nguyễn Quang Bích mang một số quân rời Nghĩa Lộ đến Yên Lập, là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, để củng cố phong trào kháng chiến tại vùng này. Từ nơi đây, ông đã phái nhiều đạo quân đi đánh phá nhiều nơi. Công cuộc đang thu được một số kết quả, thì bất ngờ ông lâm bệnh nặng rồi mất tại núi Tôn Sơn, (thuộc xã Mộ Xuân, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ) ngày rằm tháng Chạp năm Canh Dần (tức 24 tháng 1 năm 1890

Đền thờ tướng quân Nguyễn Quang Bích được xây dựng khang trang ngay tại khu căn cứ Tiên Động, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Trong đền có tượng thờ tướng quân Nguyễn Quang Bích, các văn bia ghi lại ý chí và lòng quả cảm của ông và các nghĩa sĩ Cần Vương.

Ngôi đền trầm mặc trên đỉnh gò cao, phía xung quanh là đồng lúa và thấp thoáng rừng cọ…

“ Việt quốc thiên thu nguyên bất dịch,

Lạc Hồng tiên chủng phục hoàn tô”

Nghĩa là: Nước Việt ngàn năm chẳng đổi dời/ Lạc Hồng giống tiên sẽ quay về. Hai câu thơ như lời tuyên ngôn mà Nguyễn Quang Bích – thủ lĩnh phong trào Cần Vương  đọc trong lễ tế cờ tại Tiên Động (Cẩm Khê, Phú Thọ).

Căn cứ Tiên Động thuộc xã Tiên Lương, hiện nay còn lưu giữ lại được các địa danh nổi tiếng như đồi Tướng Quân, gò Mai, gò Đồn, gò Múc, đồn Cỏ Rác, đồi Cột Cờ là những địa điểm gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Quang Bích và phong trào khởi nghĩa chống Pháp. Ngày 12/02/1999 Bộ Văn hoá Thể thao đã ban hành quyết định số 05 /QĐ-BVHTT về việc xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia đối với căn cứ Tiên động -Tiên Lương, huyện Cẩm Khê. 

Từ ngôi đền, nhìn ra tứ phía, Tiên Động có cảnh đẹp của vùng núi đồi xen lẫn đầm ao, sông ngòi và nhiều rừng cọ, đồi chè kỳ thú, vui mắt, là một thắng cảnh vùng Trung du. Nhân dân cả nước nói chung và nhân dân quanh vùng Tiên Động nói riêng đời đời ghi nhớ công lao của Ngô Quang Bích cùng các nghĩa sĩ:

“Nhớ lại thủa Cần vương nghĩa sỹ

Biết bao người nuôi chí diệt thù

Nhân dân suốt dải Thao Đà

“Bình tây báo quốc” đó là Ngư Phong”

(Trích: Văn tế Nghĩa trủng Xuân Áng) (http://www.vhdn.vn/).

Đền thờ Nguyễn Quang Bích là công trình kiến trúc ra đời do nhu cầu tín ngưỡng, nhu cầu tôn vinh và tưởng niệm. Vì vậy, các hoạt động tại ngôi đền và lễ hội tưởng niệm về Nguyễn Quang Bích là sự nối tiếp truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Bởi lẽ, lịch sử đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngay từ khi còn trong nôi đã là lịch sử dựng nước và giữ nước. Xây dựng và giữ gìn đã trở thành lẽ sống, biểu tượng cho cái gì thiêng liêng, cao cả mà cả cộng đồng suy tôn, thờ phụng. Từ những người bình thường đến các tướng lĩnh...có công với dân với nước đều được cộng đồng ghi ơn, đưa vào điện thần, muôn đời suy tôn, thờ phụng.

Hàng năm, vào các ngày âm lịch: Mùng 8/4 là ngày sinh, ngày 15 tháng Chạp ngày mất của Nguyễn Quang Bích và ngày đưa tượng Ông vào đền: Ngày 16/2, nhân dân Tiên Lương - Cẩm Khê lại tổ chức lễ hội tưởng niệm Ông. Tuy không phải là lễ hội dân gian truyền thống, nhưng lễ hội tưởng niệm Nguyễn Quang Bích cũng được tổ chức đầy đủ cả phần lễ với lễ vật và nghi thức tế lễ thiêng liêng truyền thống: Đại tế dâng 3 tuần rượu do ban tế 15 người thực hiện hết sức kính cẩn, trang trọng, kèm theo còn có nhạc, trống, chiêng, dân làng dâng lên ban thờ Ông những hoa quả đẹp nhất, những món ăn, quà bánh, rượu thịt...; phần hội có các trò chơi dân gian truyền thống phong phú, như: Kéo co, tổ tôm, leo cột... Hơn thế nữa, lễ hội là dịp để  người dân Tiên Lương bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng Nguyễn Quang Bích - người đã có công chống giặc ngoại xâm trong quá khứ và họ cũng gửi gắm ước nguyện coi Ông như vị thánh đang tồn tại bên đời sống của người dân và phù hộ cho dân làng một cuộc sống bình an, no ấm và thịnh vượng.( http://phutho.gov.vn/)

4.74. Đền thờ Nguyễn Trung Trực 

Nguyễn Trung Trực (chữ Hán: 阮忠直; 18391868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào nửa cuối thế kỷ 19 ở Nam BộViệt Nam. Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát).

 Đền thờ Nguyễn Trung Trực hay Đình thần Nguyễn Trung Trực Rạch Giá tọa lạc ở số 8, đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, là ngôi đền thờ ông sớm nhất & lớn nhất trong số 9 ngôi đền thờ ông trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Sau khi Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp xử chém ngày 27 tháng 10 năm 1868 tại chợ Rạch Giá, những người dân yêu kính ông đã bí mật thờ ông trong đền thờ Nam Hải đại tướng quân (cá voi hay cá ông). Ban đầu, đây chỉ là một ngôi đền nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá do dân chài dựng nên bên dòng sông Kiên (phía trước mặt) và rạch Lăng Ông (từ cổng đền nhìn vào, ở phía bên trái) và chỉ cách biển Đông độ chừng trăm mét. Qua lần sửa chữa vào năm 1881, ngôi đền đã khang trang hơn. Nhưng để có diện mạo như ngày hôm nay, chính là nhờ lần khởi công sửa chữa lớn vào ngày 20 tháng 12 năm 1964, khánh thành ngày 24 tháng 2 năm 1970, do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết kế, với toàn bộ kinh phí xây dựng do nhân dân đóng góp.

Nhân dịp này, nhân dân địa phương cũng đã tạc tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng sơn đen, đặt trước khu "chợ nhà lồng" Rạch Giá.

Kiến trúc

Đình thần được xây dựng theo kiểu chữ tam (chữ Hán: 三), gồm có chánh điện, đông lang và tây lang.

Cổng đền có ba cửa (tam quan), cổ kính với mái ngói hai tầng trang trí hình "lưỡng long tranh trân châu" trên đỉnh. Hai bên là đôi câu đối bằng chữ Quốc ngữ được đắp nổi sơn vàng trên nền đỏ. Đó là hai câu trong bài thơ Điếu Nguyễn Trung Trực của danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt:

Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.

Thái Bạch dịch thơ:

Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất

Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần.

Qua khỏi cổng, là một lư hương lớn bằng đá, và bức tượng Nguyễn Trung Trực đúc bằng đồng, có màu nâu đỏ. Trước đây, tượng thờ này đặt trước khu "chợ nhà lồng" Rạch Giá, nay sơn lại màu nâu đỏ, và được di dời vào đây.

Kế đến là ngôi chánh điện được thiết kế với mái ngói cong bốn góc, ở các viền góc đều có trang trí hoa văn hình rồng và lá cúc. Mặt trước chánh điện có hai trụ cột đắp nổi hình rồng uốn lượn từ dưới lên quấn quanh cột.

Trong chánh điện, cột và kèo đều bằng bê tông. Đền có tất cả mười cột, mà mỗi cột đều có chân hình bát giác, phía trên có đắp nối hai lớp cánh sen. Ngoài ra, ở nơi đây các hoành phi, câu đối đều được sơn son thiếp vàng, làm cho các nơi thờ vừa trang nghiêm vừa lộng lẫy.

Thờ phụng

Trong chánh điện có rất nhiều bàn thờ, lần lượt từ ngoài vào trong có các bàn thờ chính như sau:

-Bàn thờ Chánh soái Đại càn.

-Bàn thờ 30 vị anh hùng dân tộc.

-Long đình cùng di ảnh (ảnh nhỏ) Nguyễn Trung Trực.

-Bàn để di ảnh (ảnh lớn) Nguyễn Trung Trực.

-Bàn thờ Chư vị.

-Bàn thờ chư vị hội đồng trăm quan cựu thần và Cửu huyền thất tổ.

Gian cuối ngôi đền có ba ngai thờ chính:

-Ngai chính giữa thờ Nguyễn Trung Trực. Phía trên bệ thờ, có bức hoành ghi bốn chữ: Anh Khí Như Hồng (英 气 如 虹), tức ca ngợi khí tiết hào hùng của ông sáng như cầu vồng bảy sắc.

-Phía bên trái có ngai thờ chung thờ Phó cơ Nguyễn Hiền Điều và Phó lãnh binh Lâm Quang Ky.

-Phía bên phải là ngai thờ thần Nam Hải Ðại tướng quân.

Đông lang và tây lang, có các bàn thờ: Tây hiến, Đông hiến, Tiền hiền, Hậu hiền, Thủy long, Đồng bào nghĩa quân liệt sĩ.

Hằng năm, vào các ngày 27, 28 và 29 tháng 8 âm lịch, tại đền thờ đều có tổ chức lễ hội trọng thể kỷ niệm ngày hy sinh của anh hùng Nguyễn Trung Trực. Cho nên từ lâu trong dân gian ở đây có câu:

Dù ai buôn bán gần xa,

Ngày giỗ cụ Nguyễn thì ta nhớ về.

Ngoài phần lễ cơ bản theo các nghi thức cổ truyền, còn có phần hội. Thông thường thì phần hội có: giao lưu văn nghệ quần chúng của ba dân tộc Kinh - Hoa - Khơme (thường có màn diễn nhằm tái hiện hai chiến công nổi bật của Nguyễn Trung Trực, đó là trận đồn Rạch Giá và trận Nhật Tảo), các trò chơi dân gian, biểu diễn võ thuật, thi nấu ăn, thi múa lân, cộ hoa, thả hoa đăng trên dòng sông Kiên...

Mộ

Mộ Nguyễn Trung Trực nằm trong khuôn viên, từ cổng nhìn vào, ở bên trái đình. Ngôi mộ bằng xi măng, hình chữ nhật, mà phía sau là một tấm bia cao khoảng 2 m, rộng hơn 1 m, trên khắc chữ: Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1838 - 1868). Ở góc phải mộ có một tảng đá nhỏ ghi ngày đặt viên đá đầu tiên xây mộ là là ngày 18 tháng 10 năm 1986.

Năm 1988, Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận mộ và đền Nguyễn Trung Trực là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. (vi.wikipedia.org).

Đền thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực tại Gành Dầu Phú Quốc. Chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đền thờ Nguyễn Trung Trực tại Phú Quốc.

Qua khỏi cổng là bức tượng Nguyễn Trung Trực đúc bằng đồng. Bức tượng rất oai nghiêm, sống động với khí thế trung nghĩa, bất khuất, như câu nói của ông trước lúc hy sinh: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”. Trong khuôn viên bao bọc đình, ngoài bức tượng còn có ngôi mộ của ông được xây vào năm 1986.

Đền thờ Nguyễn Trung Trực ngoài địa điểm để khách thập phương đến viếng, tưởng niệm, đền còn là nơi để người dân làm công đức. Ở đây nơi có phòng mạch thuốc nam miễn phí cho mọi người. Hàng ngày đền nhộn nhịp người ra vào để chữa bệnh, bốc thuốc, làm công đức.

 Vào ngày hội đền, người ta tổ chức nghi lễ cúng tế và diễn lại trận đánh chìm tàu Hy Vọng của Pháp trên sông Nhật Tảo. Ngoài ra, còn tổ chức các sinh hoạt văn hoá truyền thống như đua thuyền, đánh cờ…

4.75. Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷沼; 1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19. Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).

Nguyễn Đình Chiểu qua đời ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888),  tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông

Khu mộ và đền thờ của cụ Nguyễn Đình Chiểu cách trung tâm thị trấn Ba Tri 2km về phía nam, nay thuộc ấp Giồng Cụt, xã An Đức, huyện Ba Tri. Trong khu di tích có mộ của cụ, mộ bà Lê Thị Điền - người vợ hiền của cụ, mộ bà Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ.

Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27. 4. 1990.

Nhằm tỏ lòng thành kính đối với cụ Đồ, vừa để phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ, năm 1999, Bộ Văn hóa Thông tin và tỉnh Bến Tre đầu tư xây dựng đền thờ mới, mở rộng khu di tích, khởi công vào ngày 1.7.2000, khánh thành ngày 1.7.2002 với tổng diện tích khu mộ và đền thờ là 13.000m2. Trước cổng đền, phía trái có nhà tiếp đón các đoàn khách, các cá nhân từ mọi miền đất nước về viếng cụ. Từ cổng đền đến nhà bia có sân rộng lát đá chẻ viền cỏ xanh rất khoáng  đạt, khu vực đền còn trồng nhiều cây kiểng qúy, được uốn tỉa công phu. Cả khu vực thành một hệ thống liên hoàn hòa nhập với quang cảnh xanh tươi vốn có của vùng quê An Đức. Đền thờ hình tròn với 3 tầng mái tượng trưng cho ba nghề nghiệp của cụ Đồ Chiểu ( nghề dạy học, bốc thuốc và làm thơ ). Tượng cụ Đồ được làm bằng đồng thau, nặng 1,2 tấn. Mảng  phù điêu bên trái tả cảnh cụ Đồ đọc văn tế “Lục tỉnh sĩ dân trận vong” tại chợ Đập (Ba Tri) năm 1883. Mảng phù điêu bên phải miêu tả trận đánh của Phan Ngọc Tòng tại Giồng Gạch ( xã An Hiệp – Ba Tri ). Nhà bia với 2 tầng mái tượng trưng cho hai cống hiến nổi bật, đó là những áng thơ văn yêu nước kiệt xuất “đã đạt đến độ toàn bích” của cụ, là ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước chống Pháp và những tác phẩm văn học dân gian xuất sắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của thơ ca Nam Bộ.

 Hàng năm vào ngày 1.7, ngày sinh của cụ, đã trở thành ngày hội truyền thống văn hóa của người Bến Tre để tưởng nhớ nhà thơ yêu nước vào bậc nhất của Nam Bộ nói riêng, của Việt Nam nói chung trong thời kỳ chống Pháp. Lễ hội 1.7 được tổ chức long trọng, trang nghiêm nhưng không kém phần sôi nổi với những hoạt động như biểu diễn võ thuật, múa lân, đánh trống hội, liên hoan đờn ca tài tử, thi hóa trang các nhân vật trong truyện Lục Vân Tiên, thi nấu mâm cơm ngày giỗ, triển lãm ảnh nghệ thuật, thi viết thư pháp, ngâm thơ, diễn cải lương, tuồng cổ…

Nhưng trên hết, ngày hội này là để nhắc nhở mọi người nhớ đến tài năng, đức độ của bậc hiền tài. Tấm gương Nguyễn Đình Chiểu đã đi vào sử sách, đi vào lòng người, không chỉ ở Bến Tre mà đã in sâu, lan rộng khắp vùng, vang xa cả nước. Nhiều nhà nghiên cứu văn học, nghiên cứu lịch sử đã viết về ông, không tiếc lời ca ngợi, đánh giá cao những áng văn chương tuyệt tác của ông, nhưng hơn hết chính là nó xuất phát từ tâm hồn, tư tưởng của một con người yêu nước thương dân đến cực độ. Chính vì thế, ngày 1.7 đã trở thành ngày hội lớn. Người hành hương viếng cụ hàng ngày vốn đã đông nay càng thêm đông đảo.( http://sovhttdl.bentre.gov.vn/).