Video
Công đức
Sách: DI SẢN VĂN HÓA DÒNG HỌ (NXB Hồng Đức XB 2016)

CHƯƠNG II: NHỮNG ĐỀN THỜ VỀ ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN NGUYỄN TUẤN VÀ 2 EM CỦA NGÀI LÀ CAO SƠN ĐẠI VƯƠNG-NGUYỄN SÙNG, QUÝ MINH ĐẠI VƯƠNG –NGUYỄN HIỀN

Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì có từ rất lâu. Khoảng 250 năm trước Công Nguyên, An Dương Vương cho lập đền thờ đức Thánh trên núi Tản Viên, gọi là Đền Thượng, nay thuộc Ba Vì, Sơn Tây, ngoại thành Hà Nội. Cứ ba năm một lần, vào 15 tháng giêng âm lịch, tại đây diễn ra lễ hội lớn, với hàng vạn người tham dự. Lễ hội gồm nhiều hoạt động như rước bài vị thánh Tản. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như đánh cá sông (99 con) làm gỏi dâng tế, lễ rước Thánh bà Mỵ Nương, chọi gà, đấu cờ, hát đúm, bịt mắt bắt dê, kéo co, cướp cờ, thi bơi  thuyền rước quân, đấu vật và mở hội Chém May…

Vào ngày hội lễ, nhà Vua hoặc tự thân hoặc cử đại quan tới dâng hương. Ngày nay, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ cũng thường tới dự lễ tại đền chính trên núi Ba Vì, Hà Nội.

Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì đã lan tỏa, có sức sống lâu bền từ đời này qua đời khác, từ đồng bằng lên miền núi, từ Bắc vào Nam.

Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì thể hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam, luôn vượt qua khó khăn, thách thức trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, chống giặc ngoại xâm, thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên, làm tăng thêm lòng tự hào và đoàn kết dân tộc

            Sự tích về Thánh Tản Viên không do một ai sáng tác. Chúng được nhân dân ngàn đời thêu dệt. Đức Thánh độ trì cho lĩnh vực cốt yếu trong đời sống người dân Việt, là sự dũng cảm, lòng từ bi nhân ái, biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụ đã, đang và mãi mãi được tôn thờ. Đó là một nét độc đáo trong tín ngưỡng của người Việt.

Tản Viên Sơn Thánh là vị thần đứng đầu trong Tứ bất tử của Việt Nam-vị thần được thờ nhiều nhất ở miền Bắc.

Theo tryền thuyết, Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, những nơi Người đến đều được người dân dựng hành cung  để thờ cúng. Hiện tại hệ thống các hành cung của Tản Viên còn lại gồm:

Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của núi Ba Vì.

Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với Động Lăng Xương huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ - Nơi thờ đấng sinh thành Ngài là cha Nguyễn Cao Hạnh và mẹ bà Đinh Thị Đen.

Nam Cung là đền Ao Vua.

Đông Cung là Đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh sông Hồng. Hội Đền Và khi tổ chức còn có sự tham gia của làng Duy Bình, nơi có Đền Dội ở đối diện bên kia bờ sông Hồng, tương truyền là nơi Thánh Tản đã lấy nước tắm bên sông.

Bắc Cung là đền Thính ở Tam Hồng - Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Thính là đọc tranh âm của Thánh.

Bắc Cung Thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Yên Lạc cũng là nơi có di chỉ khảo cổ Đồng Đậu, với tầng văn hóa từ thời Phùng Nguyên.

Theo thần tích Đền Và thì cung Trung và cung Hạ (Tây Cung) là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.

Tuy gọi là Đông – Tây – Nam – Bắc cung nhưng nếu nhìn trên bản đồ thì các cung này nằm gần như trên cùng một đường thẳng chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, cắt vuông góc với sông Hồng ở gần Sơn Tây. Đây là cũng là hướng “tọa Cấn hướng Khôn”, hướng của Đền Thượng như ghi trong thần tích Đền Và.

Truyền tích núi Ba Vì (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tháng 2/2012) Khu vực núi Ba Vì hiện có gần 100 ngôi Đình, Đền thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như Đền Trung, Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Đá Đen, Đền Vật Lại, Đền Măng Sơn, Đền Khánh Xuân, Đình Yên Nội, Đình Tây Đằng, Đình Mỗ Lao, Đình Quất Động, Đình Đông Viên, Đình Quan Húc, Đình Phú Thứ, Đình Thanh Hùng, Đình Thụy Phiêu v.v…

2.1. Đền Lăng Sương Phú Thọ nơi thờ thân mẫu đức thánh Tản Viên 

Nằm phía bên kia sông Đà, về phía huyện Thanh Thủy, Phú Thọ có một ngôi đền mà theo Ngọc phả, chính là ngôi đền đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Ngôi đền có tên là đền Lăng Sương, hiện nằm ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Theo Ngọc phả đền Lăng Sương: Đền đặt trên nền đất cũ nơi thánh Tản Viên sinh ra và lớn lên. Ngọc phả còn lưu ở đây cho biết thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là Đinh Thị Đen.

Theo xuanthu.vnweblogs.com Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống các di tích thờ Tản Viên vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thờ Tản viên Sơn Thánh là một trong bốn vị thần "tứ bất tử" của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần "Thượng đẳng tối linh", "Đệ nhất phúc thần" đứng đầu "Tứ bất tử" trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt. Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Thánh Tản. Đây có thể coi là mảnh đất "chôn nhau, cắt rốn" của vị thần linh tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu - người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước... làm nên bản sắc của văn hóa tâm linh Việt Nam. Vì vậy, người Mẹ được thờ tự ở vị trí rất trang trọng ở đền Lăng Sương.

Theo các tư liệu còn lưu giữ tại Đền, đền Lăng Sương được xây từ thời Thục An Dương Vương. Đến đời Lý vào năm 1011, đời Lê được trùng tu. Năm Thiệu Trị thứ 7 thời Nguyễn (1847) ngôi đền được tu sửa lớn. Năm Tự Đức nguyên niên (1848) khắc bia đá lưu truyền cho hậu thế. Trải qua mưa nắng và giặc giã, ngôi đến bị hư hỏng nhiều. Năm 1991, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn tạo đền Lăng Sương trên khu đất rộng với diện tích 3.000 mét vuông, bao gồm các công trình: cổng đền, miếu Hai Cô, giếng Thiên Thanh, nhà bia, nhà võng, tả mạc, hữu mạc và lăng thánh Mẫu.

Cổng đền có đôi câu đối "Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch/ Địa lưu thần tích hiển Nam bang" (tạm dịch: Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc/ Đất lưu thần tích hiến Thánh trời Nam). Và "Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần/ Bả thác long linh giáng hạ trần" (tạm dịch nghĩa: Lăng Sương ngọc sáng, ngọc tinh thần/ Mang dấu rồng thiêng xuống hạ trần).

    Qua cổng Đền là miếu Hai Cô (còn gọi là miếu Nhà Bà) thờ Bạch tinh thần nữ là thần giữ đất cùng hai người hầu là Đào Hoa và Quế Hoa. Sau miếu, về phía tây là giếng Thiên Thanh quanh năm có nước, trong vắt, nhìn thấy tận đáy. Cạnh giếng Thiên Thanh là nhà bia được xây theo kiểu kiến trúc nhà 4 mái, trong đặt tấm bia khắc năm Tự Đức nguyên niên (1848) ghi công đức của những người có công tu sửa lại đền. Trước sân đền chính là nhà võngTương truyền là nơi Tản Viên lúc còn nhỏ thường nằm võng. Trong nhà có một chiếc võng phủ vải đỏ, gọi là võng đào. Đặc biệt có 8 cột đá cao 2,1 m được xây vào thời Lê. Ở giữa nhà võng đặt một chậu bằng đá xanh hình vuông, tương truyền là chậu đá để Tản Viên tắm khi còn nhỏ. Trên chậu đá có đặt một hòn đá tương truyền khi Thánh Mẫu sinh Tản Viên xong đã dùng để chèn bụng.

Đền chính có kiến trúc kiểu chức công (I) gồm 3 gian đại bái, ống muống và 3 gian hậu cung. Trong tòa đại bái có xây bệ thờ tượng Cao Sơn và Quý Minh là bộ tướng có công giúp Tản Viên dẹp giặc Thục. Tòa hậu cung bài trí long ngai thờ Thánh Mẫu Đinh Thị Đen (mẹ của Tản Viên) và thờ đức Thánh Tản. Trong tòa hậu cung còn thờ Thánh phụ Tản viên là ông Nguyễn Cao Hanh, bà dưỡng mẫu (mẹ nuôi) là Ma Thị và công chúa Ngọc Hoa (vợ Tản Viên). Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía đông bắc, tương truyền có ngôi mộ của Thánh Mẫu nay ở đó đã được xây thành lăng tẩm.  

Ngày nay, trong khuôn viên ngôi đền vẫn còn di tích cái giếng và phiến đá bên miệng giếng có in dấu chân người Việt cổ. Tương truyền rằng những dấu vết đó là dấu ấn do mẹ Nguyễn Tuấn thường ngồi trên phiến đá cúi xuống lấy nước nên in thành vết. Độ sâu của giếng chỉ khoảng 3 đến 4m. Tuy vậy, ông Tuất thủ nhang đền cho biết rằng chưa bao giờ giếng này cạn nước: “Như năm 1954, ở khu vực xung quanh đại hạn, ruộng đồng rồi ao hồ đều cạn nước mà giếng nước này vẫn có nước, nước vẫn trong. Không rõ là có mạch nước ở đâu mà như vậy”.

Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản). Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25 tháng mười hôm sau. Còn ngày giỗ chính của đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội. Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt xa xưa.

Trong lễ hội chính rằm tháng giêng hàng năm, đoàn rước có 100 thanh niên trai tráng rước 3 kiệu (kiệu rước hoa quả, kiệu rước nước, kiệu rước lư hương), 8 người khiêng một kiệu (bát cống), có phường bát âm, múa lân tưng bừng rộn rã. Dân làng hòa vào đoàn rước kín chật đoạn đường gần cây số từ đền ra sông. Khi về đến Đền, sau lễ tế chính, 8 dòng họ trong xã lần lượt vào tế. Cuối cùng là du khách thập phương vào thắp hương bái lễ cầu cho một năm mới an lành, phát đạt. Đội rước tế Lăng Sương đã đạt giải nhất cuộc thi rước tế tỉnh nhân dịp kỷ niệm 115 năm thành lập tỉnh Phú Thọ.

Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương Đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy...

Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày 12/7/2005 xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

2.2. Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của núi Ba Vì.

Theo truyền thuyết Sơn tinh cùng Mị Nương sau khi (bỏ chữ đã) hoàn thành sứ mệnh đã về ẩn cư tại sườn núi Tản. Về sau không ai còn thấy Sơn Tinh nữa, nhân dân cho rằng Sơn Tinh và công chúa Mị Nương đã đắc đạo và về trời. Cũng không ai biết chính xác nơi thần thoát xác, vì thế nhân dân nơi đây đã chọn đỉnh núi Tản là nơi thờ vọng thần và coi đó là nơi ngài thoát xác khi đắc đạo. Do thế mà đền Thượng được xây dựng lên. Đền Thượng xưa kia chỉ là một thảo am nhỏ, được tu tạo lại vào năm 1993 với kiến trúc khá độc đáo, ba gian hai trai, một nửa mái sau ấp vào vách đá. Vì thế nên đền Thượng còn được gọi bằng một cái tên khác là đền Một Mái.

Đền Thượng nằm ở độ cao hơn 1281 mét so với mực nước biển. Đại đức Thích Đạo Thịnh cho biết, bình thường ở đây quanh năm sương phủ không thể nhìn xa được, nhưng vào ngày có nắng, trời trong xanh và quang mây thì có thể phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng phong cảnh nên thơ của vùng đất xứ Đoài cổ kính này... Đứng từ đây, có thể nhìn rõ dòng sông Đà chảy êm đềm, bao bọc dãy núi Tản, ôm ấp những xóm làng yên bình vùng trung du Bắc Bộ. Nếu xét về độ cao, núi Tản Viên chưa phải là ngọn núi cao nhất nước ta, nhưng từ xa xưa đã có câu ca rằng: “ Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. Phải lên đền Thượng, phải đứng ở vị trí mà con người có thể cảm nhận được từng lớp mây trắng đang vây quanh mình, được hòa mình vào một thiên nhiên trong lành đến tinh khiết và ngẫm nghĩ về công lao của người anh hùng dân tộc, vị thánh muôn đời trong lòng người dân Việt thì ta mới thấy hết được câu nói trên.

Không phải ngẫu nhiên mà hàng triệu lượt người dân Việt từ Nam ra Bắc - hàng năm vẫn lũ lượt về đây dâng hương, tưởng nhớ tới công lao to lớn của đức thánh Tản. Người ta vẫn truyền tai nhau rằng, đứng ở đền Thượng, đánh một tiếng chuông thì tiếng chuông ấy sẽ vang lên thấu trời xanh... Đó là một mơ ước, hơn thế- là niềm tin, là khát vọng của mỗi người Việt nam về những gì tốt đẹp dành cho cuộc sống, về tình nghĩa gắn bó đồng bào- tức là con từ cùng một bọc sinh ra; tình nghĩa ấy sẽ mãi mãi trường tồn. (theo Posted by Admin on 22/10/2009)

Từ bãi đậu xe rẽ phải là cổng đền Thượng uy nghi. Qua cổng, du khách còn phải leo hơn 500 bậc đá nữa mới tới cửa đền chính ở chót vót trên cao. Ngôi đền nhỏ được xây theo hình chữ Nhất. Đền chỉ có  một mái lộ thiên lợp ngói nghiêng bên của hang. Mái sau Đền nằm ngầm dưới lòng tảng đá nên ngôi đền có thế vững chãi, trang nghiêm khá độc đáo.

Qua sân đền chính, leo thêm  vài chục bậc đá nữa du khách sẽ tới điểm cao nhất của Đền Thượng. Nơi đây có một chiếc lầu tám góc nhỏ thoáng, mát. Trong lầu có đặt tượng Địa mẫu đứng trên quả địa cầu dịu dàng thuỳ mị. Cạnh đó là bệ thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên, Quỳnh Hoa và Quế Hoa Công chúa quanh năm nghi  ngút hương... Từ nơi đỉnh cao này du khách có thể phóng tầm mắt ra xa thưởng ngoạn phong cảnh của thiên nhiên trong bầu không khí cực kỳ thanh khiết của núi rừng: Những dải mây như những chiếc khăn voan trắng tung bay trên tấm áo choàng xanh của non ngàn. Thấp thoáng xa xa những bóng cô gái dân tộc như những bông hoa rừng trong nắng mai. Màu xanh mượt mà trên cánh đồng ngô uốn lượn theo dòng sông Đà lăn tăn sóng... càng tô đẹp thêm cho cảnh vật quanh khu Đền Thượng - Nơi giữ bao ẩn tích gắn với truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh...

Theo www.thanhtanvien.com (tháng 8/2009) Đền Thượng khởi dựng từ bao giờ, đến nay vẫn là một câu hỏi đặt ra với các nhà nghiên cứu. Truyền thuyết và các Ngọc Phả có liên quan cho rằng Đền Thượng có từ thời Vua An Dương Vương. Đền Thượng thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh trên một mái núi thắt cổ bồng có hình tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên. Phía Tây có Đà Giang, chảy về hướng Bắc, xung quanh có nhiều cây cổ thụ cảnh trí đẹp.

Một số tài liệu chép “Đền Thượng khởi dựng từ thời Bắc thuộc, trùng tu vào đời Đường Ý Tông (860 – 874). Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, phần phụ lục có ghi: “Nhân Tông triều Lý sai thợ làm thuyền ở ngọn núi thứ nhất, có lầu 20 tầng”. Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép về đời Lý Nhân Tông (1073) có ghi: “Bấy giờ mưa dầm rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh và cúng thánh núi Tản Viên”. Đời Vua Lý Anh Tông (1145) có ghi : “Mùa thu, tháng 7 làm đền thần núi Tản Viên”. Như vậy qua các thư tịch cổ thì Đền Thượng đã có từ thời Lý Nhân Tông.

Trong cuốn sách “Les Mường” của tiến sỹ văn học người Pháp, bà Jeanne Cuisinier, xuất bản năm 1948, tại Paris (Pháp) bà viết “cứ ba năm một lần, người ta tổ chức lễ cúng ở đỉnh núi Tản Viên, trong một ngôi miếu ngày nay đã đổ nát…”. Ông S.Madro trong sách “ Miền bắc Đông Dương” có ghi “Vào dịp lễ cúng ba năm một lần những người làm lễ thuộc các huyện Tùng Thiện, Tòng Bạt dâng lên thần những lưỡi búa bằng đá và bằng đồng hun nhặt được ở chân núi Tản Viên trong những kho đồ tiền sử”.

Đền Thượng xưa thuộc đất Thủ Pháp, tổng Hoằng Nhuệ, huyện Bất Bạt, nay thuộc địa giới hành chính xã Ba Vì, huyện Ba Vì và nằm trong diện tích lân phần của Vườn Quốc gia Ba Vì quản lý.

Được sự giúp đỡ của Vườn Quốc gia Ba Vì, năm 1993 Đền Thượng đã được khởi dựng lại trên mái núi thắt cổ bồng thuộc đỉnh Tản Viên (độ cao 1.227m). Đền do kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính – Tổng Giám đốc Trung tâm thiết kế và tu bổ các công trình văn hóa (Bộ văn hóa) thiết kế. Đền Thượng được xây dựng lại ngay dưới chân vách núi đá dựng đứng dưới đỉnh Tản Viên, mà người ta cho rằng trên dấu tích của ngôi đền cổ xưa. Đền Thượng được xây theo hướng Bắc-Nam, cửa đền trông về phương nam. Bên trong đền phía trên chính điện có bức hoành phi ghi bốn chữ đại tự: “Tản Lĩnh Linh Thần”. Đền gồm ba gian hai trái, một nửa mái sau Đền là vách đá, không có mái, kết cấu công trình làm bằng bê tông xi măng theo kiểu kiến trúc xà, cột. Phần mái được lợp bằng ngói mũi hài với đầu đao cong vút. Hai tường hồi bố trí hai vòng tròn sắc không đối diện nhau mô phỏng biểu tượng của nhà Phật. Trên ban thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh có một khám thờ trong có ba ngôi tượng đá cổ, mỗi pho tượng được tạc ở ba tư thế khác nhau, theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Thức – Sở văn hóa thông tin Hà Tây thì pho tượng giữa là Sơn Tinh, bên trái là Thái Bạch Thần Tinh, bên phải là Quý Minh đại vương.

Người có công lớn xin được đứng ra làm việc công đức để xây Đền là bà Đặng Thị Mát, thủ nhang Đền “Cốc khẩu linh từ” (tức đền Chùa Hang) thuộc xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Đền được khởi công xây dựng từ ngày 09 tháng 10 năm Quý Dậu (1993) và hoàn thành ngày 20 tháng 12 năm Bính Tý (1996). Từ năm 1997 đến nay được sự hỗ trợ của Vườn Quốc Gia Ba Vì, các cá nhân, tổ chức, khách thập phương công đức, Đền Thượng đã có nhiều công trình được bổ sung, hoàn thiện thắp sáng, cổng đền, sân đền, nhà tiếp khách v.v… 

Đền Thượng có hai đôi câu đối do ông Vũ Tuyên Hoàng – Giáo sư – Viện sỹ - Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam sáng tác, chữ viết là của cụ Lê Xuân Hòa, nhà nho, nhà thư pháp của nước ta.

Câu đối thứ nhất:

Thần uy trăm trận tan kình ngạc

Thánh hiển muôn đời dựng núi sông

Câu đối thứ hai:

Núi Tản vượt tầng cao, ba đỉnh lừng danh từ vạn cổ

Sông Đà ngăn thác dữ, một dòng rực sáng đến mai sau. 

2.3. Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với Động Lăng Xương huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ - Nơi thờ đấng sinh thành Ngài là cha Nguyễn Cao Hạnh và mẹ bà Đinh Thị Đen.

2.3.1.Tây cung Đền Trung

Đền Trung nằm trên lưng chừng núi Tản Viên, khoảng cốt 600. Đền Trung được người dân nơi đây truyền tụng là chốn hết sức linh thiêng. Trước đây, không có đường cho xe lên, chỉ có đường mòn, người dân phải đi bộ. Bây giờ thì ô tô, xe máy đều có thể lên được tận nơi. Đứng ở đền Trung, phóng tầm mắt ra xung quanh là những ngọn núi với mây trắng bồng bềnh ôm ấp, phía trên là bầu trời xanh thẳm – cảnh sắc như một bức tranh lụa tuyệt tác. Không gian nơi đây dường như tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, mang một không khí tĩnh mịch vô chừng, tưởng như có thể nghe thấy cả tiếng lá rơi, tiếng gió thổi...

 Hàng năm, rất đông du khách thập phương lũ lượt kéo đến chiêm bái, cầu an tại đây. Quần thể đền Hạ và đền Trung còn được gọi là Tây cung hay là chính cung thờ thánh Tản Viên.

Cuốn Ngọc Phả “ Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại Đền Và (Đông cung) do Quản giám bách thân Nguyễn Hiển sao lại năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) có ghi Đền Trung là nơi thờ bà Ma Thị, mẹ nuôi của Tản Viên. Truyền thuyết kể lại rằng bà Ma Thị đã lập chúc thư (di chúc) giao lại toàn bộ đất đai ở vùng núi và chân núi Ba Vì cho con nuôi là Nguyễn Tuấn và có trách nhiệm lập đền thờ để hương hỏa cho bà. Đền Trung được xây dựng từ triều Lý, đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng cho Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai trùng tu lại Đền.

 Nằm ở sườn núi trên một cánh rừng tương đối bằng phẳng, cửa Đền nhìn về hướng Tây, đối diện là núi Chàng Rể, phía dưới là dòng sông Đà như một dải mụa trắng vắt ngang, lại càng tôn lên vẻ thiêng liêng hùng vĩ. Bên tả có suối Đền, bên hữu có suối Tiên, cả hai suối ấy lấy nước từ núi Tản đổ xuống khe sâu hợp thành suối Cái. Từ Đền Trung phóng tầm mắt sang bên kia sông Đà là núi Lưỡi Hái, chân núi là đất xã Trung Nghĩa (thuộc tỉnh Phú Thọ), có đền thờ thân mẫu của Đức Thánh Tản (Đền Lăng Sương).

Đền Trung kiến trúc kiểu chữ TAM, phỏng quẻ Càn trong Kinh dịch, biểu tượng của sự bền vững. Hậu cung của Đền đặt ba pho tượng Tam vị Đức Thượng đẳng. Chính giữa là tượng thờ Tản Viên – Sơn Tinh, hai bên là tượng Cao Sơn đại vương và Quý Minh đại vương. Trong cung gian giữa bài trí tượng bốn vị quan ở tư thế đứng, mũ áo cân đai chỉnh tề, đứng hai bên đối diện nhau, biểu thị bốn vị đại thần trấn ở bốn cung Đông – Tây – Nam – Bắc. Trước Trung cung là nhà tiền tế năm gian còn lưu dấu tích lại bài thơ chữ Hán vịnh cảnh Đền Trung. Nằm ở bên phải Đền Trung còn có dãy nhà ba gian gọi là Đền Lang nay Đền Lang Mẫu, bên trong đặt ngai thờ bà Mai Thị. Trước Đền Lang là một ngôi nhà thờ Phật. Dưới chân Đền từ hướng hai cột đồng trụ trông ra là một ngôi đền nhỏ thờ Thái Bạch Thần Tinh, một vị tiên trên trời đã ban tặng cho Thánh Tản Viên – Sơn Tinh chiếc gậy thần để cứu nhân độ thế. Ngoài ra còn có bàn thờ lộ thiên thờ chúa sơn lâm (năm con hổ), nhà tiền tế, đền thờ Tả quan Nguyễn Hiển, là em con ông chú của Thánh Tản Viên. Đền Trung còn có tên gọi là “Đền ba dân” nghĩa là có dân Mường ở xã Thủ Pháp xưa và hai dân Kinh ở chân núi gọi là làng Vô Khuy và làng Ngọc Nhị cũng biện lễ chung để thờ cúng Thánh Tản.

Đền Trung là ngôi Đền có quy mô lớn, hoành tráng tạo thành quần thể di tích, là ngôi Đền có một vị thế đẹp nhất trong các ngôi Đền thờ Tản Viên ở sườn Tây núi Ba Vì.

Đền Trung có các ngày chính tiệc diễn ra trong năm như:

Ngày 03/01 âm lịch, tương truyền là ngày sinh Nguyễn Hiển (Tả quan)

Ngày 15/01 âm lịch, tương truyền ngày sinh Đức Thánh Tản Viên

Ngày 03/3 âm lịch tết Hàn Thực. Ngày 05/5 âm lịch tết Đoan Ngọ

Ngày 15/5 âm lịch tương truyền ngày hóa của công chúa Phương Dung (vợ Nguyễn Hiển)

Ngày 15/7 âm lịch lễ Vu Lan. Ngày 15/8 âm lịch tế mùa thu

Ngày 10/10 âm lịch tết cơm mới

Ngày 25/12 âm lịch, tương truyền là ngày hóa của Nguyễn Hiển (Tả quan).

2.3.2. Tây cung Đền Hạ

Ngôi nhà mà ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng, Nguyễn Hiển ở sau khi vượt sông, ngày nay được lập nên đền Hạ, thuộc địa phận xã Thủ Pháp xưa, nay là thôn Phúc Lộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Nhân dân xây dựng ngôi đền này để tưởng nhớ những công ơn to lớn của ngài khi còn sống. Ngôi đền Hạ nằm bên sông Đà. Bước qua cổng tam quan là một khoảng sân nhỏ, dưới tán cây cổ thụ là một con Sấu Đá đang ở tư thế trầu vào đền. Nhà Tiền tế là một ngôi nhà 3 gian tường hồi bít đốc, thiết kế đơn giản. Chính giữa nhà Tiền tế bài trí tượng bốn vị Thần Quan. Ngoài ra còn có hai con ngựa gỗ và hai con voi đá cũng được bài trí tại đây. Qua nhà tiền tế là hậu cung. Chính điện là nơi thờ tam vị đức thánh tản, chính là 3 anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng và nguyễn Hiển. Gian bên trái là tượng của dưỡng mẫu – bà Ma Thị Cao Sơn. 

Theo Ngọc phả ”Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại Đền Và (Đông cung) thì đầu thế kỉ 18 đã có Đền Hạ, hay còn gọi là cung Hạ thận. Theo sách “Sơn Tây tỉnh địa chí” của Phạm Xuân Độ thì Đền Hạ gọi là tây cung thờ Tam vị đức thượng đắng (Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương).

Kiến trúc của Đền Hạ theo kiểu chữ TAM. Ngoài sân có tấm bia đá ghi dòng chữ “Tản viên từ ký” (ghi chép về Đền thờ Tản Viên), dựng vào năm Tự Đức thứ 1 (1848) triều Nguyễn.    

Nội dung bia cho biết đền Hạ được xây dựng quy mô lớn, vua Tự Đức đã cấp hai nghìn quan tiền để xây dựng Đền. Đền Hạ còn có tên gọi là “Đền năm dân” (dân Trung Nghĩa thuộc Tổng Tu Vũ, dân Đồng Luận, Lương Khê thuộc Tổng Lương Truyền, dân Đan Thê, Thạch Xá thuộc Tổng Lương Truyền). Đền Hạ có ba dãy nhà ngang, nhiều hạng mục lớn như cổng Tam quan, Đại bái, Tiền tế, Hậu cung, nhà thờ Mẫu. Đền Hạ có hai pho tượng Hộ pháp dáng oai phong, tay cầm giáo trấn giữ hai bên. Trên mái cổng Tam quan có lưỡng long chầu nguyệt, hai tầng, tám mái đao cong, lợp ngói ri. Giữa hai tầng mái là bốn chữ Hán "Quốc Sơn Từ Hạ" cùng nhiều các bức tranh chạm trổ mô phỏng hình tượng mặt trời, tia sét, chim phượng, con nghê, đao mác, lửa v.v... theo phong cách nghệ thuật điêu khắc, đặc trưng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Phía trên gian giữa treo bức cuốn thư, trên nền triện gấm khắc chạm năm chữ Hán: "Tản Viên Sơn Linh Thánh" cùng một số câu đối viết bằng chữ Hán.Trải qua thời gian, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền Hạ đã bị hư hỏng nặng, không còn dáng vẻ như xưa. Năm 1998 Đền Hạ được nhân dân xã Minh Quang công đức tu sửa để hàng năm mở lễ hội dâng hương tưởng nhớ Thánh Tản Viên.

Tháng 11 năm 2012 tức tháng 10 Nhâm Thìn Đền Hạ được khởi công xây dựng lại theo quyết định của Bộ Văn Hóa – Du lịch và thể thao. Đền được xây trên nền tảng của ngôi đền cũ có sự mở rộng với quy mô hình thái giống khu đền Trung. Kinh phí khoảng 65 tỷ. Theo nhà Đền nguồn kinh phí này được sự tài trợ của Nhà nước và một phần từ sự công đức của một số tổ chức, doanh nghiệp, con nhang, đệ tử nhà Đền

Tháng 10 năm 2013 nhà tiền tế đã hoàn thành việc trùng tu, nội thất bên trong cũng được phủ kín bới các bức hoành phi, câu đối do các con nhang hiến tặng và đã trở nên rất trang nghiêm, hoàng tráng.

Ngôi nhà ngang của Đền là nhà thờ đức thánh Mẫu

Một quả chuông đồng trên 2 tấn, theo ông Nấu chủ nhang nhà Đền cho biết đã được đúc tại đền do công đức của con nhang họ Nguyễn – bà Nguyễn Thị Hảo người Phú Lãm, Hà Đông kính tặng còn đang được để ở trước cửa tiền nhà tiền tế. Trên quả chuông cũng ghi rõ tên bà là người kính tặng.

Cứ mỗi dịp xuân về, người dân nơi đây lại tổ chức lễ rước thánh rất long trọng vào chính ngày sinh của đức thánh Tản – ngày 15 tháng Giêng. Đây là lễ hội truyền thống không những là của người dân địa phương mà còn là lễ hội của thập phương tới lễ. Hội đền Hạ còn được mở thêm vào ngày 6 tháng 11 âm lịch  là ngày hóa thân của đức thánh Tản Viên. Sau lễ tế, lễ rước thánh của nhân dân trong vùng và du khách thập phương, nhiều hoạt động văn hóa, dân gian đặc sắc như ném còn, cồng chiêng, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy… được tổ chức.

Đền Hạ  đã được xếp hạng Di tích Quốc gia

2.4. Nam Cung - đền Ao Vua

Trên lưng chừng sườn núi Tản về phía địa phận xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, có một cái ao sâu. Ao nhỏ nhưng bốn mùa lúc nào nước cũng trong xanh và sâu thẳm. Dân địa phương gọi đó là Ao Vua.

Tục  truyền, nước ở ao Vua vốn là nước “Vua Thủy” dâng lên để đánh Sơn Tinh ngày trước. Khi Thủy Tinh kéo quân lên đánh Sơn Tinh, Thủy Tinh  dâng nước sông lên dữ dội. Quân của Thủy Tinh dựa vào thế nước dâng, tràn theo các ngả sông Hồng,  sông Tích, sông Đà, đổ vào mạn đầm Đượng, cầu Hang, suối Bon, ngòi Tôm, ngòi Bún rồi bốn  phía ầm ầm kéo cả lên núi Tản.

 Chỉ trong vòng  mấy ngày, quanh núi Ba Vì nước đã ngập mênh mông  như biển. Thừa thế, Thủy Tinh tiến lên tận Ao Vua, hội quân ở đó để tìm đường đánh ngược lên đỉnh núi. Tình hình rất nguy ngập, nhưng Sơn Tinh vẫn bình tĩnh chỉ huy chống giặc.

  Trước hết, để nhanh  chóng cản đường tiến của Thủy Tinh, Sơn Tinh lập   tức tách núi Ba Vì thành nhiều ngọn, cắt ngang  luồng nước dữ không cho tràn lên ngọn núi chính. Sau đó, Sơn Tinh lập kế bao vây quân của Thủy  Tinh đang tập trung ở Ao Vua. Ông cho quân đeo những chiếc giỏ lớn chứa đầy hạt mây, đi rải quanh Ao Vua và các nẻo đường dẫn lên núi. Hạt  mây gieo đến đâu thì chỉ trong chớp mắt, mây đã  mọc lên thành rừng đến đó. Quân Thủy Tinh bị rừng mây vây chặt, tiến không  được, lui cũng không xong, thảy đều hoang mang  sợ hãi.

Vào lúc đó, Sơn Tinh ra lệnh phản công  kịch liệt. Từ trên đỉnh núi cao, cầm trong tay  chiếc gậy thần đầu sinh đầu tử, chỉ núi núi tan, chỉ ngàn ngàn cháy. Sơn Tinh chỉ huy quân cùng  một lúc tiến đánh quân của Thủy Tinh ở khắp các   mặt xung quanh núi Ba Vì. Quân đôi bên đánh nhau   suốt một đêm ròng rã. Khoảng giờ Tý (nửa đêm),  từ trên đỉnh núi, Sơn Tinh vỗ tay giả làm tiếng gà đập cánh gáy. Gà rừng liền vỗ cánh gáy ran khắp núi. Thủy Tinh tưởng sắp sáng vội vã rút tất cả các cánh quân từ cầu Hang đến ngòi Bún,  chạy trốn theo đường sông Hồng ra bể.

 Trong dãy Ba Vì ngày nay cũng thường gặp những  giống mây sợi vừa dài vừa lớn, mọc rải rác khắp nơi trên núi, dưới khe. Người ta bảo rằng đó là giống mây Sơn Tinh cho quân gieo xuống để bao  vây quân của Thủy Tinh nơi Ao Vua  ngày trước.

Ngay phía trên Ao Vua độ vài trăm thước, ở giữa dãy U Bò còn thấy một cái giếng sâu. Mặc dù  giếng ở trên đỉnh núi cao nhưng quanh năm lúc nào mạch nước cũng dâng đầy. Nước giếng ngọt và  rất mát. Tục truyền, khi xưa, trong những ngày đánh nhau với Thủy tinh ở Ao Vua, quân của Sơn Tinh trên núi  không có nước ăn. Sơn Tinh liền    rút gươm cắm xuống đỉnh U Bò, cho quân theo dấu   gương đào giếng lấy nước. Quả nhiên, mới đào  xuống mấy thước, đã thấy nước phun lên thành tia  rất mạnh. Quân của Sơn Tinh nhờ đó mà không bị khát. Chiếc giếng kỳ lạ ấy đến nay vẫn được dân  quanh vùng quen gọi là giếng Mũi Gươm.

 Ngày nay Ao Vua là một khu du lịch nổi tiếng của thủ đô Hà Nội

2.5. Đông cung - Đền Và

Đông cung- Đền Và ngự tại thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Tương truyền thuở ấy, khi vua Hùng nghe lời Sơn Tinh trao ngôi vua cho Thục Phán, đất nước trở lại cảnh thanh bình. Sơn Tinh cùng Mỵ Nương về sống trên núi Ba Vì. Ngài thường du ngoạn bốn phương, hỏi thăm dân tình. Một lần Ngài nhằm hướng mặt trời mọc đi đến quả đồi thấp ven dòng sông Tích. Thấy đây là nơi thắng địa, Ngài dừng chân nghỉ ngơi vừa lúc trên trời xuất hiện đám mây ngũ sắc từ phía núi Ba Vì bay tới kịp che mát một vùng. Ngài cho đó là điềm lành, bèn cho lập tại chỗ một hành cung. Nơi ấy nay là đền Và.

Dân sở tại đền Và, dựa vào sự tích đám mây lành (chữ Hán là Vân già) xuất hiện trên bầu trời quê mình mà đặt tên là làng Vân Gia. Từ đó, dân thôn làm ăn phát đạt, càng chăm sóc việc hương khói thờ phụng Thánh Tản.

Theo bia "Vân Già đông trấn cung ký" (雲 遮 東 鎮 宮 記) dựng ở đầu hồi hai bên nhà tiền tế ở đền năm Tự Đức thứ 36 (1883) thì đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ấy đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng. Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong đó có lần trùng tu lớn vào năm 1884. Sự mở rộng quy mô của đền gắn với sự thành lập và phát triển của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc. Sau khi tỉnh này được lập ra năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), tỉnh lỵ là nơi tập trung nhiều quan chức, thương gia chỉ cách đền Và khoảng 2 km nên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Trước đó, nhà tiền tế đã có nhưng quy mô nhỏ. Cho đến nay, nhà tiền tế đã trải qua 3 lần tu sửa lớn: tu tạo năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), đại tạo năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và lại tu tạo năm 1932 (Bảo Đại thứ 7). Dựa theo văn tự chữ Hán khắc ở cột thì hậu cung như hiện nay được làm vào các năm 1915-1919. Gần đây, dự án tôn tạo đền Và đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây phê duyệt với tổng kinh phí 18 tỷ đồng, dự kiến sẽ bắt đầu bằng việc tu bổ đền chính trong năm 2008 (nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Đền Và nằm giữa đồi Và, một đồi cây có diện tích khoảng 17.500 m² trồng nhiều cây lim cổ thụ, ngoài ra còn có mítthôngđạimuỗm... Trong đền trồng cây vóc vàng và hai bên nhà tiền tế có hai cây lan cao to, đây đều là những loài nở hoa về mùa hè. Theo thuyết phong thuỷ, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Khu vực kiến trúc rộng khoảng 2.000 m² được bao ở hai bên và phía sau bởi tường thành bằng đá ong cao 2m15. Tường được xây hai lớp, theo cách thức thượng thu hạ thách, chính giữ lèn đất. Trong dân gian lưu truyền rằng, đá ong xây tường được lấy ở đồi Vông, thôn Vân Gia, còn gọi là "xóm Rắn" nên có câu thành ngữ "cấu cổ con xà, đè cổ con quy".

Đền có bố cục dàn trải tương đối cân xứng theo trục. Trên trục trung tâm phía trước sân đền có một bình phong tạo những hang hốc mang vẻ tự nhiên. Mặt ngoài của bình phong thờ ngũ hổ trong hang với trung tâm là hổ vàng, mặt sau của động này đắp hình “long cuốn thuỷ” dưới dạng tứ linh với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hoà, được mùa và có người tài ra giúp dân giúp nước. Qua một sân rộng khoảng 300 m2 có tường thấp bao quanh, đến "nghi môn" - cổng chính của đền. Tiếp đến là một khoảng sân rộng, được khuôn vuông bằng hệ thống công trình kiến trúc khép kín. Liền sát nghi môn, đăng đối hai bên theo chiều dọc là gác chuông và gác trống, rồi đến hai dãy tả mạc, hữu mạc, nhà kho, phía sau tả hữu mạc mỗi bên đều có nhà tạo soạn và là nơi nghỉ tạm cho khách hành hương. Nhà tiền tế (hay tiền bái) năm gian nằm song song với nghi môn ở phía cuối sân, hai đầu nhà tiền bái có tháp thiêu hương để hoá vàng mã sau khi cúng tế xong. Hậu cung hình chữ "công", cách tiền tế 1,2m, đầu nhà có bể nước và một gian nhà nhỏ để kiệu.

Mặt thoải sườn đồi đã được lợi dụng để giải quyết chiều cao kiến trúc. Lối bố trí kiến trúc theo hướng đi lên khiến cho các công trình như được nâng cao dần, đặc biệt là nghi môn, tiền tế, hậu cung. Mặc dù kết cấu các công trình đều thấp nhưng người xem vẫn có cảm giác đền có xu hướng vươn lên.

Nghi môn: gồm ba gian dựng trên nền cao, gian giữa cao 4m80, hai gian bên cao 2m15. Nghi môn có đặc điểm dễ nhận biết là ba hàng chân cột gỗ kê trên những chân tảng đá ong (cột cái cao 4m95, cột quân 3m80). Đây là một nghi môn khá hiếm gặp trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, ngoài Nghi môn này, có thể thấy kiến trúc tương tự tại đền Vua Đinh (thế kỷ 17), Đại Thành môn ởVăn Miếu, Tam quan chùa Bút Tháp.

Gác trống, gác chuông: dựng hai bên và ngay sát nghi môn và kiến trúc tương tự nhau với kiểu chồng diêm 8 mái phỏng theo gác trống, gác chuông chùa Thầy và có dáng dấp của Khuê Văn Các trong Quốc Tử Giám. Mặt hướng vào sân đền được trang trí theo chủ đề ngũ phúc bằng hình năm con dơi xoè cánh ôm lấy cửa sổ tròn.

Tả mạc, hữu mạc (hay tả vu, hữu vu): tiếp nối với gác chuông và gác trống xây dựng theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái, tường hồi bít đốc, nóc kết cấu "vì kèo quá giang", mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp, mặt trong để trống.

Nhà tiền tế và hậu cung: nhà tiền tế hình chữ "nhất" (一), kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái chồng rường, giá chiêng; hệ thống cột cái, cột quân bào nhẵn kiểu "thượng thu hạ thách" đặt lên tảng kê chân cột bằng đá. Trên cột là một hệ thống hoành phi, câu đối cổ được chạm khắc tinh xảo. Hậu cung hình chữ "công" (工), toà ngoài kết cấu 3 gian 2 chái lớn (dài 14m10, rộng 8m90). Đường vào hậu cung có một bộ vì lớn, làm theo kiểu thượng ván mê, hạ chồng rường trên xà nách. Bên dưới bộ vì mở ba cửa, hai cửa bên là lối đi vào hậu cung, cửa giữa là cửa thờ. Toà nhà bên trong cũng có kết cấu 3 gian 2 chái nhưng thấp hơn toà ngoài. Hậu cung đặt một khám thờ cao hơn 3m sơn son thếp vàng được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17. Trong cùng là bài vị của Đức Quốc Mẫu (bà Đinh Thị Đen, thân mẫu Thánh Tản Viên). Tiếp đến là 3 bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản (gồm Thánh Tản Viên và hai người em con chú là Cao Sơn, Quý Minh). Trước khám thờ có hương án bày long ngai bài vị của ba vị, phía trên khám treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh thần" (上 等 最 靈 神) niên đại Tự Đức Quý Mùi (1883). Toà ngoài của hậu cung có 4 bức tượng kích thước như người thật đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ gọi là "Tứ Thánh" trấn ở bốn cung quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên nhà có hai pho tượng quan văn, quan võ ngồi hướng vào nhau. Cách bài trí hậu cung mô phỏng thiết chế triều đình xưa trong con mắt người dân.

Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích "Tản Viên Sơn Thánh"; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. Trên những hiện vật đó khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh của Thánh Tản Viên với nhiều nét trang trí có giá trị mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh. Các bản thần tích, sắc phong, văn bia đền Và rất giàu giá trị Hán-Nôm, trong đó có văn thơ của Nguyễn KhảnNguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân...

Vị thần được thờ phụng ở đền Và là Thánh Tản Viên, đứng đầu trong tứ bất tử và là "Thượng đẳng tối linh thần", "Đệ nhất phúc thần" (弟 一 福 神), "Nam thiên thần tổ" (南 天 神 祖),... "là người anh hùng văn hoá sáng tạo trong tư duy nông nghiệp, người anh hùng trị thuỷ, chống giặc, biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc, hóa thân Tản Viên là phúc thần trừ tai hoạ cho dân". Từ thời Hậu Lê, nơi có đền Và là lỵ sở của huyện Tùng Thiện cũ, đền Và trở thành trung tâm tín ngưỡng hàng huyện, nay là cả nước.

Lễ hội đền Và diễn ra "xuân thu nhị kỳ". Hội mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị "Tam vị Đức Thánh Tản" từ đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh TườngVĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và. Cứ vào các năm NgọMãoDậu thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính.

Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99 con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh. Việc tế cá xuất phát từ truyền thuyết Thánh Tản Viên dạy dân kéo vó và bắt được 100 con cá, sau đó ngài phóng sinh một con cá trê đang có mang, về sau con cá này sinh được 9 con, đều hoá đá, đầu chầu về hướng đền Và.

Hội rằm tháng giêng có tục rước nước do dân làng Di Bình thuộc xã Vĩnh Thịnh, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đảm nhiệm. Có 8 làng tham gia, gồm: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai thuộc xã Trung Hưng; làng Phù Sa, Phú Nhi (Bần Nhi) thuộc xã Viên Sơn (Hà Nội) và làng Di Bình (tỉnh Vĩnh Phúc).

Lễ hội diễn ra trong một không gian rộng, được tổ chức chặt chẽ. Lễ hội bắt đầu mở từ ngày 13 tháng giêng. Dân thôn Vân Gia lên đền dọn dẹp, trang trí cờ hội. Buổi chiều dân các thôn rước cỗ kiệu của làng mình về đặt ở sân trước nhà tiền tế tại đền Và. Các cỗ kiệu xuống thuyền qua sông. Cư dân vạn chài ở trên sông tấp nập kéo tới, ghép thuyền lại thành một cầu phao lớn cùng đưa đoàn rước sang sông và họ nhập vào đoàn rước trở thành những ngư­ời đi hội. Quan niệm của dân vào ngày này vạn chài nào trên sông làm nhiều điều phúc thì Thánh Tản sẽ cho nhiều lộc lớn trong năm.

Sang ngày 15 tháng giêng, ngày chính hội là những cuộc vui chơi, tiếp đón khách thập phương đến đền Và dâng h­ương, hoa trái và viếng Đức Thánh Tản. Ngày 15 ở sân tr­ước nhà tiền tế có đấu vật. Các đô vật xứ Đoài đến vật chầu bóng Thánh, sau đó diễn trò vui vật giật giải, một thú vui đua sức, đua tài vốn rất đ­ược dân xứ Đoài hâm mộ. Lễ hội thu (rằm tháng 9 âm lịch) Lễ hội mở vào ngày 14 tháng 9 (âm lịch), dân làng các thôn Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Trì, Mai Trai, Đạm Trai ùa ra đoạn sông Tích từ Thượng Cầu Vang (giáp xã Đường Lâm) đến Hạ Mả Mang (giáp thôn Ái Mỗ) cùng đánh bắt cá tập thể trên đoạn sông này. Mọi ng­ười mang những công cụ đánh bắt cá như nơm, vó, xúc... Ai bắt đ­ược loại cá trắng, to thì nộp cho làng, cá nhỏ mang về nhà. Cuộc đánh bắt cá đến khi nào chọn ra đủ 99 con thì mang số cá đó về làm tiệc cá, thờ Đức Thánh Tản ở đền Và. Lễ hội này dân gian gọi là lễ hội “ đả ngư ”. Trò đánh bắt cá tập thể của 5 làng trên đoạn sông Tích có ý nghĩa lấy vui, lấy may. Ai được con cá to tâm niệm năm ấy Đức Thánh Tản phù trợ cho làm ăn gặp nhiều may mắn. Trong số 99 con cá ấy, được rửa sạch chế biến thành nhiều món dâng lên đức Thánh Tản. Tất cả dân chúng thành kính trước uy linh của Ngài. Cuối buổi, mọi người ngồi thụ lộc các món đặc sản từ cá trong không khí sảng khoái. Có một chi tiết của lệ tục xưa ở đền Và qui định cơm ăn, cỗ cúng ở đây không được dùng muối, mà phải ăn nhạt. Khi ăn cơm xong, quan viên uống nước ăn trầu (lá trầu, cau, vỏ) nhưng không được dùng vôi. Vì thế, dân gian có câu: "Hội đền Và trầu không vôi, xôi không muối"./.(Nguồn: lehoi.cinet.vn)

Lễ hội Đền Và là một lễ hội vùng đặc sắc của xứ Đoài; thể hiện sự tôn thờ, niềm tin vào sức mạnh thiêng liêng, đức nhân nghĩa, sự nỗ lực sinh tồn của dân tộc. Đến với lễ hội, du khách như được trở về với cội nguồn tiên tổ, thoả nguyện tâm linh, thanh lọc tâm hồn, để rồi ra về ngâm nga, truyền tụng mãi câu ca: “ Cả năm đi lễ bao miền -  Chẳng bằng cầu lễ tháng Giêng Đền và”./.

    2.6. Bắc Cung - đền Thính

Đền Thính - xã Tam Hồng cách trung tâm huyện lỵ Yên Lạc khoảng 1km, là một trong những di tích đẹp, nơi ngưỡng vọng về bậc Tiên Thánh từ buổi bình minh nước Việt, mãi sống trong lòng người Việt.

Tương truyền rằng sau chiến thắng Thủy Tinh và quân Thục, biết chàng là người có tài, Hùng Vương đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho đi du ngoạn khắp nơi giúp dân. Khi đi qua vùng Tam Hồng, thấy cảnh sơn thủy hữu tình, Ngài đã dừng chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá, sản xuất nông nghiệp. Ghi nhớ công đức của Ngài, nhân dân Tam Hồng dựng một ngôi đền thờ gọi là đến Thính, xây ở phía Bắc núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng nên có tên là đền Bắc Cung (một trong “Tứ cung” thờ Đức thánh Tản Viên).

Năm Thành Thái thứ 13 (1902) triều Nguyễn, quan huyện Yên Lạc là Lưu Đình Dương vời nhà sư Tăng ất đứng ra xây dựng hậu cung đền (cửu trùng), năm Duy Tân thứ 5 (1911) dựng thêm lầu chuông và lầu trống, đến năm Khải Định thứ 2 (1917) mở rộng đền về phía trước thêm 7 gian tiền tế và năm Khải Định thứ 6 (1921) xây cổng, lát sân, dựng nhà hành lang…Như vậy, trong khoảng 20 năm, việc xây dựng mới hoàn thành cho cấu trúc ngôi đền như hiện nay. Các việc xây dựng được ghi rõ trên tấm bia dựng năm Khải Định thứ 8 (1923) và bài văn của nhà sư Tăng ất tại tấm bia dựng năm 1936 (2 tấm bia đều còn, được dựng trước cổng đền).

Trong khoảng diện tích 2000m2, khu đền có các công trình kiến trúc cơ bản gồm tiền tế 7 gian, hậu cung 7 gian nối nhau theo kiểu chữ “đinh”. Song song với hậu cung, hai bên có nhà hành lang, phía trước có sân lễ hội, ao đền, ngoài cùng có nghi môn ngoại ngăn cách không gian thờ tự trong một cảnh quan thanh tĩnh, mát mẻ với hàng cổ thụ gần trăm năm tuổi

Ngoài những giá trị nghệ thuật về kiến trúc; cổng đền được cấu tạo như kiểu tam quan, cổng vào đền kiến trúc kiểu 2 tầng 8 mái, toà tiền tế cũng được nâng mái theo lối “chồng diêm”, 2 nhà hành lang tả, hữu nằm nối theo lầu chuông, trống như 2 thân rồng chầu, tất cả đã tạo nên bố cục không gian kiến trúc tổng thể khá sinh động. Từ tiền tế trở vào, hậu cung gồm 7 gian, 9 cửa thờ đều có cửa võng đục chạm cầu kỳ, sơn son thếp vàng với các đề tài tứ linh “long - ly - quy - phượng” hoặc tứ quý “thông - cúc - trúc - đào”. Mỗi lớp cửa là một tác phẩm điêu khắc độc đáo, mang phong vị riêng, cùng với kỹ thuật chạm lộng vô cùng tinh xảo đến từng chi tiết đã thể hiện sự tài hoa tuyệt mỹ về nghề chạm gỗ dân gian nửa đầu thế kỷ XIX. Còn có các bức chạm ở cốn mê, cốn nách, các bức phù điêu bằng gỗ khắc hoạ hình tượng văn quan, võ tướng, là những tác phẩm nghệ thuật quý hiếm và đặc biệt của di tích. Hai bức hình hoạ trên tường toà tiền tế cũng là những tác phẩm nghệ thuật hội hoạ đặc sắc, với đề tài thiên nhiên cây cảnh ấp ôm, hoà quyện với mái cong ngôi chùa làng, ẩn hiện trong sương mờ khói toả chiều lam. Với bút pháp trữ tình, nghệ thuật dùng màu nước trên chất liệu vôi gạch mà những bức bích hoạ tồn tại cả trăm năm còn nguyên tươi màu sắc mới thấy hết những giá trị văn hoá, giá trị nhân văn, giá trị truyền thống thật đáng trân trọng.

Căn cứ vào tài liệu còn lưu giữ tại đền và theo lời kể của các cụ cao niên trong làng đã từng được nghe, chứng kiến lễ hội, theo lệ làng cứ đến tháng chạp, chức dịch, sắc mục và các quan viên của các giáp họp bàn để tổ chức lễ hội (nay là Ban quản lý Khu Di tích đền chùa xã Tam Hồng) xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội hàng năm trên cơ sở của lễ hội cổ truyền. Những người được chuẩn bị cai đám phải thực hiện “trai giới” nhằm đảm bảo mua sắm lễ vật được trong sạch, tinh khiết hơn.Việc chuẩn bị cho lễ tế khá công phu. Trước tiên là chọn những người đủ tiêu chuẩn tham gia tế lễ và đóng các vai chính trong đám rước. Thông thường có từ 8 đến 14 cụ ông được chọn làm thành viên trong đội tế khai xuân, tế dâng lễ, tế ngày sinh, hóa của đức Thánh Tản. Một cụ hội đủ các điều kiện tốt nhất sẽ được chọn làm chủ tế, 2 cụ làm Đông xướng và Tây xướng; 2 cụ bồi tế, 4 cụ tiến nước đèn, nhang, hoa, một cụ đọc chúc văn; 6 cụ chấp kích hai bên canh gác và xua đuổi tà ma cho cuộc tế. Những công việc này đều do người dân Tam Hồng bầu chọn, cắt cử dưới sự điều hành của Ban tổ chức lễ hội.

Ban tế gồm 2 đội, một đội nam và một đội nữ, mỗi đội thường gồm 21 người, trong đó có một người chủ tế. Người chủ tế phải là người có thẻ vinh tử vượng, phu phụ song toàn, tử tôn hưng thịnh và khoẻ mạnh. Song song với việc chuẩn bị trên thì việc chuẩn bị đồ lễ vật cũng được tiến hành.

Công việc chuẩn bị xong cũng là lúc lễ hội đền Thính được diễn ra. Sau lễ khai mạc của Ban tổ chức lễ hội, lần lượt từng thôn trong và ngoài xã, theo lịch đã đăng ký tiến hành lễ rước từ đình thờ của làng mình lên đền Thính. Để chuẩn bị cho lễ rước kiệu của làng mình, người lớn thì chu đáo chuẩn bị lễ vật, thanh niên, các em nhỏ thì  háo hức tham gia lễ rước. Lễ vật là tất cả những gì đặc trưng nhất, thể hiện thành quả lao động của làng năm vừa qua dâng lên Thánh để tỏ lòng thành kính, biết ơn thành đã phủ hộ và cầu mong một năm sung túc, an lành cho dân làng. Khi đám rước của một thôn đến đền, cuộc tế lễ bắt đầu. Nội dung văn tế kể về công lao của Thánh đối với dân làng; mời Thánh về dự hội với dân làng, báo cáo thành tích của làng mình trong năm qua và cầu xin thánh phù hộ cho dân một năm mới làm ăn thịnh vượng, nhà nhà yên bình, làng xóm yên vui, người người mạnh giỏi.

Mùa xuân ngày 6 tháng giêng nhân dân Tam Hồng lại tấp nập đón khách thập phương về trẩy hội, làm lễ. Những hoạt động nhộn nhịp diễn ra tại lễ hội từ phần lễ có tính chất quy phạm nghiêm ngặt được cử hành chủ yếu trong không gian bên trong của đền (tế Quan Viên, rước kiệu, lễ dâng hương…) đến phần hội là phần sinh hoạt văn hoá dân gian mang tính chất mở phóng khoáng diễn ra khu vực ngoài  Tam Quan không giới hạn không gian, thời gian để dân làng cùng vui chơi hết mình và tình cảm cũng dịu dàng đằm thắm hơn (Chọi gà, đấu vật, ném còn, kéo co, …); các hoạt động văn hoá văn nghệ khác thu hút sự quan tâm của tất thảy mọi người đang có mặt và cả những người từng mong có một lần được mục sở thị. Truyền nối nét cổ xưa cha ông để lại, ngày nay chính quyền và nhân dân Tam Hồng đồng sức đồng lòng lo tổ chức lễ hội được chu toàn để làm vừa lòng khách đến, đẹp lòng khách đi. Quan trọng hơn là góp phần gìn giữ những nét văn hoá truyền thống của địa phương, dân tộc.

2.7. Bắc Cung Thượng -  đền Tranh

Đền Tranh nằm trên địa phận vùng Đông Lỗ và bến Vàng  xưa, nay là xóm Hoàng Thạch (xóm Tranh xưa) thôn Hoàng Thạch, xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc. Đền thờ Tam vị Đại Vương (Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh). Đền được xây dựng vào đầu thế kỷ IV; được tôn tạo vào các triều đại : Lý (1038); Hậu Lê (1469 và 1479), Mạc (1538)… Đền được hầu hết các triều đại phong sắc và năm 1993 được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận di tích văn hoá.

Theo truyền thuyết Sơn Tinh đánh đuổi quân Thục về vùng Đông Lỗ và bến Vàng. Thấy địa thế đẹp, ông truyền cho quân nghỉ, lập ngôi đền nhỏ cầu phúc cho dân và tiến quân về triều đình báo công, khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán, kết mối bang giao hữu hảo. Sau này, nhân dân thờ Tản Viên Sơn Thánh tại ngôi đền này.

Đền Tranh có vẻ đẹp thâm nghiêm, cổ kính. Đền nằm trên một khu đất cao so với xung quanh. Thế đất bằng phẳng, núp mình dưới bóng những cây cổ thụ xanh um, trước mặt đền là những cánh đồng màu mỡ. Phía sau đền, xa xa là dãy núi Tam Đảo bồng bềnh mây trắng.

Đền được kiến trúc theo kiểu chữ đinh (J), gồm hai toà tiền tế và hậu cung. Hai cung nhỏ nằm sát  một ngôi chùa khác, ở đây cũng có gian riêng thờ Phật, thánh. Vị trí chính của ngôi đền là toà tiền tế thờ Tam Vị Đại Vương. Ở đây con lưu giữ được một số tác phẩm điêu khắc bằng gỗ và một số đồ thờ bằng đồng có giá trị mỹ thuật cao. (Báo Vĩnh Phúc 24/3/2012)

Hằng năm, vào các ngày Rằm tháng Giêng, ngày 6-2 và 6-8 (âm lịch), đền Tranh lại tưng bừng tổ chức lễ hội với hình thức diễn xướng, khai sắc nhắc lại công lao đức Thánh Tản Viên; tiến hành nghi lễ nông nghiệp như gieo hạt, làm đất, chăm bón... cầu mùa màng bội thu. Trong lễ hội diễn ra nhiều trò chơi đu tiên, bơi thuyền, bắt vịt, lăn vòng, leo cây, vật, cờ tướng, thổi hiệu cốc quân... thu hút đông đảo nhân dân tham gia, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa vui tươi, lành mạnh và giáo dục truyền thống đoàn kết cho thế hệ trẻ. (Báo Vĩnh Phúc 24/3/2012)

  2.8. Đền Ngự Dội 

 Đền Ngự Dội nằm ở đầu thôn Duy Bình Bình, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc trên diện tích bãi bồi sông Hồng, quay mặt về hướng Tản Lĩnh. Theo truyền thuyết Sơn Tinh, từ khi có hành cung ở đền Và, Thánh Tản thường lui tới vùng đất bên kia sông Hồng. Một lần, trên đường trở về đền Và, Ngài dừng chân nghỉ ngơi tại một xóm nhỏ ven sông. Tuy đang tiết xuân mát mẻ, nhưng vì đi đường xa gió bụi, nên Ngài muốn tìm nước để tắm giội đôi chút. Nhìn quanh đấy, thấy một cô gái gánh đôi sọt đi cắt cỏ, Ngài đến bên lựa lời chào hỏi rồi ngỏ ý nhờ cô gánh cho một gánh nước sông Hồng. Cô gái tưởng chàng trai đùa lỡm nên cười ngặt nghẽo. Nhưng trước vẻ chân thực của chàng trai cô gái rất ngạc nhiên rồi chối từ vì sọt của cô chỉ đựng được cỏ, làm sao đựng được nước. Ngài cười và bảo cô cứ giúp thử xem sao. Quả nhiên, đôi sọt đựng được nước thật. Trong khi Ngài thoả thuê tắm giội thì cô gái chạy về loan báo với dân làng có chuyện lạ đời. Khi mọi người kéo đến nơi thì người tắm đã đi mất, xung quanh còn phảng phất hương trầm. Lúc ấy dân làng mới bừng tỉnh, nhận ra là chính đức thánh Tản vừa mới qua đây.

Lại nghe nói, khi mới gặp cô gái, nhân chuyện cắt cỏ, Ngài còn bày cho cô cách làm liềm thay cho con dao cô vẫn dùng để cắt được dễ hơn, nhanh hơn.

Ghi nhớ dấu tích và công đức của Ngài, dân làng Duy Bình đã dựng ngôi đền và đặt tên là đền Ngự Giội, ý muốn nhắc việc Ngài đã đến ngự và tắm giội ở đó trước khi về đền Và.

Theo trang du lịch Vĩnh Phú (tháng 2/2012) Đền Ngự Dội thờ tam vị Đại Vương là: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương. Lễ hội đền Ngự Dội diễn ra vào các ngày 14, 15 tháng Giêng hàng năm, tuy nhiên cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì 8 làng: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai (phường Trung Hưng, Sơn Tây); Phù Sa, Phù Nhi (xã Viên Sơn, Sơn Tây) rước kiệu sang đền Dội, còn vào những năm khác thì đền Dội lại rước kiệu sang đền Và.

Chiều ngày 14 tháng giêng, đoàn rước nước xuất phát từ đền Ngự Dội tiến ra bến sông Hồng lấy nước về làm lễ Mộc Dục cho thánh Tản Viên.  Đoàn rước gồm hai kiệu là kiệu lễ và kiệu chóe, đi đầu đội rước là đội rồng, tiếp theo là đội cờ, người thổi tù và, trống chiêng, phường bát âm, bát bửu, kiệu chóe, kiệu lễ, quan viên, dân làng… Ra tới bờ sông, kiệu chóe bắt đầu xuống thuyền. Đoàn rước bắt đầu chạy trên sông, chạy mấy vòng liền cho đến khi chủ tế múc xong nước vào chóe. Khi chín gáo nước tinh khiết đã được ông chủ tế múc từ vòng quang do cô gái đồng trinh thả dưới lòng sông vào chóe trong tiếng reo hò của đoàn người. Trời đã về chiều, đoàn rước quay đầu cập bến về đền Ngự Dội.

 Ngày hôm sau, lễ rước ngai Thánh đi từ mờ sáng, từ đền Và rước qua cầu Cộng, vào thị xã Sơn Tây, ra bến sông để xuống thuyền qua sông Hồng sang địa phận xã Vĩnh Ninh, Vĩnh Tường. Khi thuyền rước kiệu Thánh cập bờ, lá cờ ở đầu kiệu phất về phía bắc sông Hồng, lúc đó cả khúc sông vang lên tiếng reo hò hân hoan, người dự hội ùa ra đón kiệu Thánh với tất cả lòng tôn kính. Đoàn rước xếp thành một dãy dài với 8 kiệu, rước đi trong không khí tưng bừng, náo nhiệt, khua chiêng, gõ trống và ca hát… Khi đoàn rước về đến đền Ngự Dội, cũng là lúc diễn ra lễ khai hội cùng lễ tiến đón và lễ tế. Nhân dân hai bên bờ sông Hồng hòa mình vào trong không khí linh thiêng của lễ hội, tham gia các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, đánh đu... Khi lá cờ ở cổng đền phất về phía sông Hồng, đoàn người lại cùng nhau rước kiệu Thánh trở về bên đền Và ở bên kia sông Hồng.(lịch sử họ Nguyễn Việt Nam).

2.9. Các đền thờ thần Cao Sơn Đại Vương – Nguyễn Sùng và Quý Minh Đại Vương- Nguyễn Hiền

3.9.1. Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương

 Cao Sơn đại vương trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh. Vị thần này được thờ ở rất nhiều nơi, trong các vùng Ba Vì (Sơn Tây), vùng sông Tích Giang và các vùng Mường cổ, cũng như nhiều đình làng, thần tích ở nhiều vùng đồng bằng Bắc Bộ khác. Về vị thần này trong các thần tích đa phần đều có đặc điểm chung là: có tên là Hiền, sống ở thời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), cùng với Quý Minh là em họ của Tản Viên, có công giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục. Vị thần này sau này ngự ở ngọn núi bên trái của dãy Ba Vì (Tản Viên đứng giữa, bên phải là Quý Minh). Trong truyền thuyết Sơn Tinh: sau khi cưới được Mỵ Nương con gái vua Hùng (Hùng Duệ Vương) đã có công dẹp nhà Thục Phán xâm lược, trong các trận đánh quân Thục đã cùng 2 em là Cao Sơn (Nguyễn Hiền) và Quý Minh (Nguyễn Sùng) tham gia chiến trận. Vị thần này sau này ngự ở ngọn núi bên trái của dãy Ba Vì (Tản Viên đứng giữa, bên phải là Quý Minh).

* Đền Mẫu Đợi thờ Thần Cao Sơn (Quý Minh đại vương) ở làng Dụ Đại xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình để tưởng nhớ công ơn của ngài.

* Đền Dĩnh Kế (còn gọi là Nghè Kế, Nghè Cả), thuộc xã Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, thờ Đức Thánh Cả là Đức thánh Cao SơnQuý Minh, theo truyền thuyết là 2 vị tướng của Vua Hùng đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, mang lại bình yên cho đất nước, khi thác đi luôn phù hộ cho dân làng xã tắc được ấm no. Hàng năm vào dịp rằm tháng Ba âm lịch, ngày Đại kỳ phước, đền Dĩnh Kế là nơi trung tâm diễn ra lễ hội của nhân dân các thôn trong xã.

* Đình Vĩnh Ninh thuộc thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc xã Dĩnh Kế, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang). Ngôi đình được Nhà nước cấp bằng công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Di tích đình Vĩnh Ninh nằm về phía Đông Bắc thành phố Bắc Giang và đầu đường quốc lộ 31 nên đường đi rất thuận lợi cho khách tham quan. Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu duy nhất của dân thôn Vĩnh Ninh, là nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai thuộc tướng thời Hùng Duệ Vương). Đình Vĩnh Ninh cùng với các công trình tín ngưỡng văn hoá khác của xã Dĩnh Kế (nghè Cả và chùa Kế) tạo thành một quần thể di tích liên hoàn rất có giá trị. Hội đình Vĩnh Ninh hằng năm được tổ chức vào ngày 19, 20 tháng Giêng.

* Đình Bảng thuộc thị xã Từ SơnBắc Ninh. Được mệnh danh là 'Nhà sàn' giữa miền Kinh Bắc. Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng năm 1700, đến năm 1736 hoàn thành, do công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dâng làng xây dựng. Đình thờ 3 vị thành hoàng: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ bá đại vương (Thần Nước) và Bạch lệ đại vương (Thần Trồng Trọt).

* Đình Lỗ Hạnh ở thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đình được dựng vào thời Mạc, năm Sùng Khang thứ 11 (1576). Đình Lỗ Hạnh đã qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1694, 1850, và năm 1910 xây thêm hậu cung bằng cách cắt mái giữa, tạo nên mặt bằng hình chữ "đinh" và hai dãy tả vu, hữu vu. Đây là ngôi đình có niên đại sớm thứ hai trong cả nước (chỉ sau Đình Tây Đằng- Hà Tây). Đình thờ thành hoàng là Cao Sơn đại vương, người có công giúp vua Hùng đánh giặc. Đình còn thờ Phượng Duy Công chúa (Bà Chúa Tiên), người đã dạy dân địa phương trồng bầu.

Thần Cao Sơn thờ ở đình Kim Liên ở Hà Nội, một trong Thăng Long tứ trấn, lại là Lạc tướng Vũ Lâm, một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa, nay là Nho QuanNinh Bình. Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành.

Theo như thần phả các đền thờ Cao Sơn ở Ninh Bình như: đền Núi Hầu (Yên Thắng - Yên Mô), đền Quèn Thờ (Đông Sơn - Tam Điệp), đền Sơn Thần (Gia Thủy - Nho Quan), đền Quảng Phúc (Yên Phong - Yên Mô) và đền Cao Sơn (khu núi chùa Bái Đính) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm (tức vùng núi phía tây Ninh Bình ngày nay nên còn được gọi là vị thần tây trấn Hoa Lư tứ trấn), con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập nhiều đền thờ

Dù về nguồn tích khác nhau thì Cao Sơn Đại Vương vẫn là vị Thần họ Nguyễn như Thần Cao Sơn ở núi Tản Viên là Nguyễn Hiền em thần Tản Viên Sơn Thánh – Nguyễn Tuấn. Thần Cao Sơn ở Phụng Hoá con thứ 17 vua Lạc Long Quân mà Lạc Long Quân cũng có nguồn gốc là họ Nguyễn từ thời Kinh Dương Vương là họ nguyễn)

* Theo như thần phả các đền thờ Cao Sơn ở Ninh Bình gồm có:

3.7.2. Đền Núi Hầu thuộc thôn Bình Hào, xã Yên Thắng (Yên Mô) hiện còn giữ được 5 sắc phong, trong đó có một sắc phong thời Tây Sơn, đời Cảnh Thịnh năm thứ tư (1796). Nội dung sắc phong có lời tôn vinh vị thần được thờ tại đền là Cao Sơn Đại Vương.

Qua tư liệu điều tra, điền dã khảo cổ học, cho thấy đền Núi Hầu cũng như đền Năn nằm quanh thành Lê Thiên Phúc xưa, thành này được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 (thời tiền Lê) nhằm trấn giữ vùng cửa biển phía nam thành Hoa Lư. Dưới thời nhà Trần, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (1285), tướng quân Trần Nhật Duật đóng quân ở đây. Sang thời Lê, nơi đây có đắp đê Hồng Đức (1471), thời Mạc có khơi lại sông nên gọi là sông nhà Mạc, với Bến Sành. Đến thời Tây Sơn vào năm Mậu Thân (1789) trước sự tiến quân ồ ạt của quân Thanh, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn phải rút lui theo kế của Ngô Thì Nhậm về vùng núi Tam Điệp - Biện Sơn, một lần nữa thành Lê Thiên Phúc được tận dụng là điểm đóng quân thuỷ bộ, đợi đại quân của Quang Trung kéo từ Phú Xuân ra. Qua thần phả và sắc phong ở đền Núi Hầu có hé mở giả thiết lịch sử là cánh quân chính của Quang Trung đi theo đường thuỷ vào cửa Thần Phù hợp với cánh quân của Ngô Thì Nhậm ở thành Lê Thiên Phúc trước khi tiến ra Thăng Long. 

Hiện nay, đền Núi Hầu còn giữ được thần phả, sắc phong, hương án thời Lê Mạc (thế kỷ 16-17) bát hương thời Lê (thế kỷ 15), trong không gian kiến trúc hậu điện thời Nguyễn với nghệ thuật chạm thông phong tinh tế, cần được bảo tồn nguyên trạng. (http://dangcongsan.vn/)

Lễ hội Đền Núi Hầu diễn ra vào ngày mồng 10 tháng giêng hàng năm ở làng Quảng Thượng, xã Yên Thắng, Yên Mô 

3.7.3. Đền Quèn Thờ  ở xã Đông Sơn thị xã Tam Điệp, Đền Quèn Thờ nằm ở lũy Quèn Thờ, còn có tên là đền Cao Sơn vì thờ thần Cao Sơn - trấn ngự vùng núi phía tây Hoa Lư tứ trấn từ thời Đinh. Theo thần tích, năm xưa khi thân chinh ra Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương truyền ngôi đền thờ thần Cao Sơn trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di rời Đền lên đỉnh núi.

Ngoài ra còn có các đền như đền Sơn Thần (Gia Thủy - Nho Quan); Đền Quảng Phúc (Yên Phong - Yên Mô) đều thờ thần Cao Sơn và đền Cao Sơn (khu núi chùa Bái Đính)

3.7.4. Đền Kim Liên Hà Nội – Đền Nam Trấn Thăng Long

Đình Kim Liên hay còn gọi là đền Kim Liên thuộc  phường Phương Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đền còn có tên là Cao Sơn. (“Kim Liên” là gọi theo tên làng có đền, còn “Cao Sơn” là tên gọi theo tên vị thần được thờ, gọi nguyên tên là “Cao Sơn đại vương thần từ” (Đền thần Cao Sơn đại vương)). Đền nằm trong hệ thống những di tích lịch sử – văn hóa quan trọng và nổi tiếng ở mạn Nam kinh thành ngày xưa, bên phải là Đàn xã Tắc, phía sau là Đài Thiên Văn, trước mặt là La Thành

Đền Kim Liên được xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tổ ngay khi vị hoàng đế này rời đô tới Thăng Long, với mục đích để bảo vệ kinh thành mới ở hướng Nam. Tương truyền thần Cao Sơn là em trai Tản Viên thánh và được thờ là vị thần thứ hai trong đền núi Tản Viên. Thần đã có công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh và sau này giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn, khôi phục nhà Lê. Theo tấm bia đá đặc biệt cao 2,34m, rộng 1,57m, dầy 0,22m hiện còn lưu giữ tại đền (đây cũng là di vật quý giá nhất ở đền này) có bài tựa "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh", văn bia do sử thần Lê Trung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tương Dực (1510 - 1516) cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hóa (nay là Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn đại vương". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn được lập ở Phụng Hóa. Sau nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, nên năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long thời bấy giờ.

Đền Kim Liên xây trên gò đất cao, quay mặt về hướng nam, trông ra một hồ rộng có tên xưa là hồ Đồng Lầm. Kim Liên, tên cũ là làng Kim Hoa, gọi nôm là Đồng Lầm, vốn là một làng đẹp, có nghề nhuộm vải, có phong tục lễ nghi phong phú (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Đây là một trong 23 phường thôn hợp thành tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ. Đến khoảng đầu đời Vua Thiệu Trị - Nguyễn Phúc Miên Tông tức Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) vì phải kiêng húy tên của bà mẹ vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa nên đổi là Kim Liên sau là tổng Kim Liên.

Kiến trúc của đền bao gồm hai phần tương đối rõ: phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên. Ngôi đền được xây dựng trên một gò đất cao cửa ô Kim Hoa (còn gọi là ô Đồng Lầm). Từ ngoài vào là cổng có trụ biểu, đỉnh trụ đều có đặt con nghê bằng gốm quay mặt vào nhau, phía dưới là những ô lồng đèn, trong đó đắp nổi các hình long, ly, qui, phượng. Phía sau cổng là sân gạch rộng, có hai dãy giải vũ đều có ba gian. Tam quan và đền nằm trên gò. Chín bậc thềm được xây bằng gạch vồ lớn thời Lê, nối kết bộ phận bên ngoài với phần chính trên gò. Hai bên bậc thềm, ở sát sân gạch đặt hai sấu đá hướng ra cổng.

Tam quan và Đền xây trên gò đất cao, từ sân bước lên phải qua chín bậc gạch, hai bên thềm là hai sấu đá niên đại thời Lê. Tam quan xây thành nhà hoàn chỉnh, kiểu tường hồi bít đốc. Bốn góc tường hồi có bốn cột trụ, bốn bộ vì đỡ mái làm theo kiểu chồng giường, giá chiêng, cột trốn. Các con rường chạm nổi hình mây cuốn, câu đầu và chạm lộng nhiều lớp hình tứ linh vô cùng đẹp với kỹ thuật tinh xảo. Các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.

Hậu cung là nơi thờ thần Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng: Thuỷ Tinh đệ Tam - Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh phu nhân.

Di sản quý báu của Đền đặc biệt còn tấm bia đá đồ sộ mang tên "Cao Sơn Đại vương Thần từ Bi minh" cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m. Tấm bia ghi về thần tích và bài minh ca ngợi Thần do Sử thần Lê Tung soạn năm Canh Ngọ - Hồng Thuận thứ 3 (1510) và được dựng ngày 1 tháng Trọng Thu năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (1772).

Do chiến tranh, lịch sử, kiến trúc đền Kim Liên xưa chỉ còn lại một tòa hậu cung, là một dãy nhà dọc ba gian xây gạch trần, mái lợp ngói ta. Trong nhà xây vòm cuốn, gian ngoài cùng bó bệ gạch cao để đặt hương án chạm gỗ sơn son thếp vàng. Phần thân của hương án được bố trí đậm đặc các hình trang trí trong những ô chữ nhật, các đồ án hoa văn được thể hiện bằng kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi, đề tài phong phú bao gồm: hổ phù, long mã tranh châu, tứ linh, tứ quý, bát bửu… Gian thứ hai xây bệ gạch cao để đặt long ngai và các đồ tế khí. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa).

Đền Kim Liên hiện còn giữ được 39 đạo sắc phong của các triều vua cho thần Cao Sơn, trong đó có 26 đạo thời Lê Trung Hưng và 13 đạo thời Nguyễn, sớm nhất là sắc có niên hiệu Vĩnh Tộ thứ hai (1620) thời vua Lê Thần Tông. Di tích đình, đền Kim Liên từ lâu đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của Hà Nội, cùng với thần Bạch Mã ở đền Bạch Mã, thần Trấn Vũ ở đền Quan Thánh, thần Linh Lang ở đền Thủ Lệ hợp thành một tập hợp di tích độc đáo mà kỳ vĩ chỉ riêng thấy ở Hà Nội , đó là “Thăng Long tứ trấn”.

Để phục hồi giá trị văn hóa nghệ thuật xứng tầm với vị trí của một tứ trấn, thành phố đã nhiều lần cho tu bổ, tôn tạo lại di tích này. Năm 2000, nhân 990 năm Thăng Long- Hà Nội, nhà đại bái, hậu cung đã được tu bổ theo kết cấu chữ đinh. Nhà đại bái gồm năm gian mới với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Năm 2006, nhà phương đình, sơn thiếp phần khu nhà trong nội tự đại báo và hậu cung được tiến hành tôn tạo. Năm 2009, thành phố tiếp tục có dự án tu bổ và làm lại nhà tả hưu, nghi môn, bình phong, hồ bán nguyệt, giếng đình, sân vườn, đường dạo, hệ thống cây xanh và hạ tầng kỹ thuật của di tích. Đây là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội của thành phố. Đền được Bộ VHTT&DL xếp hạng danh mục di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 09/01/1990. (thantienvietnam.com/)

3.7.5. Đền Trần Tràng An (Đền Nội Lâm) - nơi tôn thờ Đức thánh Quý Minh Đại Vương

Đền Trần còn gọi là đền Nội Lâm nằm uy nghi trên ngọn núi cao - nơi tôn thờ Đức thánh Quý Minh Đại Vương - từ lâu đã trở thành ngôi đền nổi tiếng linh thiêng khắp xa gần. Đền được vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng vào thế kỷ thứ X với mong muốn mượn uy danh của Thánh để trấn trạch theo 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Ngôi đền cũ bằng gỗ do Đinh Tiên Hoàng đế xây dựng đã đổ nát và nhà Trần cho xây dựng lại bằng các cột đá rất nổi tiếng còn lại nguyên vẹn cho đến ngày nay và từ đó được nhân dân quen gọi là đền Trần vì được xây dựng lại từ thời nhà Trần. Đền Trần nằm giữa một vùng sơn thủy hữu tình thuộc Khu du lịch sinh thái Tràng An.Đền có 4 cột đá được trạm khắc bộ tứ linh (long, ly, quy, phượng) hết sức độc đáo.

Cứ vào ngày 18-3 âm lịch hàng năm, lễ hội truyền thống Đức thánh Quý Minh Đại Vương lại được tổ chức tại đền Trần (đền Nội Lâm, một trong tứ trấn của Kinh đô Hoa Lư và nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An ngày nay).

Lễ hội Đức thánh Quý Minh Đại Vương là một trong những lễ hội truyền thống độc đáo của Ninh Bình, bởi nó diễn ra trong không gian của những thung nước trong xanh, những hang động lung linh kỳ ảo và giữa bốn bề núi non hùng vĩ…

Đức thánh Quý Minh Đại Vương, theo truyền thuyết dân gian, là một trong ba anh em - ba vị tướng đã được phong Thánh (Đức thánh Tản Viên, Đức thánh Cao Sơn và Đức thánh Quý Minh), là người có công trấn ải Sơn Nam, bảo vệ đất nước thời vua Hùng Duệ Vương (tức Hùng Vương thứ 18). Ngài là một "thượng đẳng thần”, được các triều vua qua nhiều triều đại ban chiếu sắc phong, được nhân dân khắp nơi thờ phụng, trở thành Thành hoàng làng ở nhiều nơi, nổi tiếng là vị thần linh ứng khi dân gian cầu đảo. 

Đức thánh Quý Minh Đại Vương là một trong số rất nhiều những vị thần được thờ tụng theo tín ngưỡng dân gian. Suốt dọc chiều dài mảnh đất hình chữ S, nơi nào ta cũng thấy những ngôi đền, ngôi đình, ngôi phủ tôn thờ các vị thánh thần, thành hoàng được nhân dân ngưỡng vọng. Đó là một nét đẹp văn hóa, là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn” trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Bởi những vị thánh thần đó, dù họ là những nhân vật có thật - những vị thần nhân, hoặc là những thiên thần, đều là những người có công lao trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Riêng ở Ninh Bình, Đức thánh được thờ tại đình làng Sinh Dược, xã Gia Sinh (Gia Viễn); ở núi Cánh Diều (thành phố Ninh Bình); ở núi Thiện Dưỡng, đền Kê Thượng, xã Ninh Vân (Hoa Lư) và ở đền Trần thuộc Khu du lịch tâm linh Tràng An - Bái Đính.

Vào ngày diễn ra lễ hội, ngay từ sáng sớm, hàng nghìn chiếc thuyền đã quy tụ lại bến Tam Quan để chuẩn bị cho một lễ hội hoành tráng với những nghi lễ rước nước, tế lễ và phóng sinh trên sông... Và như là quy luật của tạo hoá, tại những lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tín ngưỡng dân gian, các hoạt động phần lễ bao giờ cũng mang nhiều yếu tố tâm linh và linh thiêng, đáp ứng nhu cầu của con người luôn hướng và tìm về nguồn cội, thể hiện rõ những ước muốn của con người thông qua các nghi lễ với đất trời, tổ tiên, với các thánh, thần để cầu mong một cuộc sống bình an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi…

Đúng 9h sáng, Lễ hội truyền thống Đức thánh Quý Minh Đại Vương bắt đầu. Sau hồi trống khai hội trên bờ và màn đánh trống trên đò vang lên là lúc đoàn rước hơn 100 người khiêng kiệu và rước bài vị tế Đức thánh Quý Minh Đại Vương cùng hàng nghìn du khách trên khoảng 1.000 chiếc đò bắt đầu vào cuộc rước tạo nên một không khí lễ hội vừa trang nghiêm, vừa sôi động. Xuất phát từ bến đò áng Mương, đoàn rước sẽ vượt qua 5km đường thủy, xuyên qua 11 hang động trên dòng sông Sào Khê. Sau chừng một tiếng diễu hành trên mặt nước, đoàn rước sẽ được chia làm hai, một nửa tiếp tục hành trình dưới sông, nửa còn lại lên bờ vượt qua 3 quả núi với chiều dài khoảng 3km để đến đền Nội Lâm cử hành các nghi thức tế lễ…

Trong suốt hành trình rước kiệu tiến về đền Trần để tham dự lễ hội, du khách được thả mình vào không gian thiên nhiên, chiêm ngưỡng cảnh vật của một “Vịnh Hạ Long trên cạn” nên thơ, trữ tình với những thung nước trong xanh, những hang động lấp lánh ánh nước, ánh nhũ, thư thái ngắm nhìn từng đàn cá bơi lội tung tăng dưới những dải rêu xanh, những thảm thực vật đa màu sắc và hoà cùng âm vang của tiếng mái chèo khua nhẹ trên sông. Qua hàng chục hang động, những thung nước mênh mông xanh biếc, đoàn thuyền dừng lại ở bến đò đền Trần. Lúc này, du khách sẽ tiếp tục hành trình bằng hình thức leo núi để đến khu vực đền Trần. Đường núi dốc, hẹp, lại đông người nhưng du khách sẽ cảm thấy vô cùng sảng khoái nhẹ nhõm bởi khung cảnh nên thơ, trữ tình của Tràng An.

Tham gia lễ hội Đức thánh Quý Minh Đại Vương, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo của Tràng An "Núi là thành, sông là đường, hang động là cung điện”, mà còn thấy hào hứng, thú vị bởi đường đi - lối về trong một hành trình tham gia lễ hội không hề lặp lại. Tất cả tạo cho du khách một nét tươi mới, khí thế, mê đắm như được lạc vào nơi “bồng lai tiên cảnh” để trân trọng, tự hào với quá khứ của cha ông và thêm yêu quý, giữ gìn những gì thiên nhiên ban tặng …

Năm 2013 là năm thứ hai Lễ hội truyền thống Đức thánh Quý Minh Đại Vương được phục dựng và tổ chức theo quy mô lớn. Lễ hội đã kết hợp được các hoạt động văn hóa truyền thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh vùng đất, con người Ninh Bình tới đông đảo bạn bè, du khách trong và ngoài nước. Hiện nay Quần thể danh thắng Tràng An đã được UNESCO công nhận thành di sản văn hóa thiên nhiên thế giới.

Những ai đã tham gia Lễ hội Đức thánh Quý Minh Đại Vương cũng như từng đến thăm Quần thể danh thắng Tràng An đều không thể quên một lễ hội truyền thống độc đáo, riêng biệt và không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp kỳ bí của thiên nhiên đã ban tặng cho mảnh đất sinh vua sinh thánh này… (http://baoninhbinh.org.vn/)

3.7.6. Đền Thượng Thanh Lanh- Nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương

Đền dược toạ lạc trên một quả đồi ở cuối thôn Thanh Lanh xã Trung Mỹ huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. Đền nhìn về hướng Tây Nam, phía trước là xóm làng quần tụ và cánh đồng trù phú, xung quanh bao bạo bởi dãy núi Trung Sô, nối liền với núi non trùng điệp của dãy Tam Đảo. Đền Thượng được xây dựng vào đầu thế kỷ XVM thời Lê Trung Hưng. Đền thờ thờ 4 vị sơn thần là Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương và U Sơn Đại Vương (vị thần bản Xứ). Mặt bằng đền có kết cấu hình chữ nhị (=) gồm toà tiền tế 3 gian, tường hồi bít đốc. Mái ngói với bốn đầu đao cong. Trên nóc có đắp hình lưỡng long chầu nhật. Hai bên toà tiền tế có hai cánh phong trụ biểu. Trên bờ cánh phong đặt đôi sấu đá được trạm khắc tinh xảo. Trụ biểu được trang trí đơn giản với các hình vẽ hoa văn, hoa chanh, cánh dơi và đắp nổi hình mặt hổ phù và chim phượng chụm đuôi múa, đầu quay ra tứ phía. Toà trung tế gắn với hậu cung kiểu chuôi vồ xây tường bao quanh bít đốc. Bên phải nhà trung tế còn có nhà phụ làm nơi nấu nướng, nước nôi cho nhà đền. Ngôi đền có vẻ đẹp vừa trang nghiêm vừa cao vợi, khoáng đạt lại vừa gần gũi, gắn bố với cộng đồng làng xã (vinhphuc.tourism.vn)

3.7.7. Đền Xã Tắc đền thờ Tam Thánh là Xã Tắc Đại vương, Cao Sơn Đại vương và Hưng Nhượng Đại vương

Đền Xã Tắc là một trong những di tích lịch sử vào loại lâu đời nhất ở TP Móng Cái. Khu đền đã được UBND tỉnh xếp hạng Di tích lịch sử từ năm 2005. Nằm ở vị trí quan trọng bên bờ sông Ka Long, nơi địa đầu Tổ quốc, đền Xã Tắc như một “cột mốc” văn hóa vững bền khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khắc ghi dấu ấn lịch sử nơi ông cha ta thời trước trấn yên bờ cõi và khẳng định nét đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam tại vùng biên cương của Tổ quốc.

Theo 3 văn bia cổ còn lưu lại tại ngôi đền, các nhà nghiên cứu của Viện Hán Nôm Việt Nam xác định đền Xã Tắc được xây dựng từ khoảng cuối thế kỷ thứ 13, đầu thế kỷ thứ 14, dưới thời nhà Trần. Hiện đền thờ Tam Thánh là Xã Tắc Đại vương, vốn là thành hoàng Châu Móng Cái xưa; Cao Sơn Đại vương, thần chủ về văn hoá nước Đại Việt; Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng, anh hùng dân tộc triều đại nhà Trần. Ở tiền đường của đền có bức hoành phi “Thượng đẳng tối linh thần”, và câu đối: “Công tại Trần triều danh tại sử/Sinh vi tướng quốc hoá vi thần”. (Nghĩa là: Công lao nhà Trần nổi danh thơm xứ sở, sống là tướng quốc, chết hoá là thần).

Đền Xã Tắc, hiểu theo nghĩa hẹp là đền thần Đất, thần Nông, theo nghĩa rộng, là giang sơn, đất nước. Trước kia đền có tên gọi  là “Đàn miếu Xã Tắc Đại vương”. Đền nằm bên ngã ba sông Ka Long, TP Móng Cái. Với vị trí trọng yếu trên mảnh đất biên giới địa đầu Tổ quốc, ý nghĩa của ngôi đền vượt ra khỏi phạm vi thờ thần của một làng, hay một vùng mà trở thành nơi thờ thần của non sông.

Trải qua thời gian dài, đền được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu lớn nhất vào năm Kỷ Mão, 1879, do ông Phủ Chánh đường phủ Hải Ninh họ Bùi và các tín thí giúp công giúp của. Năm 1960, trong dịp về thăm tỉnh Hải Ninh, Bác Hồ đã đến thăm đền và chia quà cho các cháu thiếu nhi. Bác chụp ảnh với bà con sống ở khu vực này dưới gốc cây gạo trong đền

Khoảng giữa thế kỷ XX, đền gần như bị bỏ hoang, với sự tàn phá do chiến tranh. Đền cũ bị phá huỷ, chỉ còn lại một số tấm bia đá và tường móng, do vậy nội dung thờ cúng ở đền cũng bị thay đổi nhiều, các sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng không được duy trì thường xuyên. Năm 1989, quan hệ hai nước Việt - Trung được lập lại, cửa khẩu biên giới hai nước được thông thương, một số người dân buôn bán ở TP Móng Cái thường xuyên đến đền cầu lộc. Đã đóng góp công đức tu sửa lại đền (đền được phục dựng trên nền đất cũ nhưng chỉ với quy mô nhỏ). Năm 1992, gia đình bà Nguyễn Thị Hoa ở xã Ninh Dương (nay là phường Ninh Dương), đến đây tu sửa và làm nhà ở hẳn trong khu vực đền.

Với giá trị lịch sử, văn hoá, tâm linh đặc biệt, cuối năm 2009, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 1242/QĐ-UBND phê duyệt dự án xây dựng trùng tu, tôn tạo đền Xã Tắc với mục tiêu: Bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hoá của khu di tích, đồng thời tạo cảnh quan khu vực, hình thành điểm du lịch gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội của TP Móng Cái. Công trình đền Xã Tắc mới được xây dựng trên diện tích đất rộng hơn 20.000m2, bao gồm khu đền chính được xây dựng phục hồi trên nền đền cũ có tổng diện tích là 308m2, gồm: Cổng nghi môn ngoại, cổng nghi môn nội, nhà Tả vu, Hữu vu; lầu chuông, lầu trống; bình phong bằng đá, miếu thờ thần linh và một số công trình khác. Các hạng mục vẫn đang trong quá trình xây dựng, dự kiến đến năm 2015 sẽ hoàn thiện.

Hàng năm, ngoài những ngày cúng rằm, mùng một hàng tháng và những ngày các gia đình có việc trọng đại, ở đền Xã Tắc còn diễn ra 5 ngày lễ chính, đó là các ngày mười sáu tháng giêng, mồng hai tháng năm, mười sáu tháng tám, mười sáu tháng chạp, mười tám tháng chạp. Đây là những ngày lễ cầu an cho nhân dân trong vùng, cầu cho cây trồng, vật nuôi tươi tốt, mùa màng bội thu.

Đến thăm đền Xã Tắc, du khách có thể đi theo hai đường. Theo đường bộ, du khách xuất phát từ TP Hạ Long, đi dọc theo quốc lộ 18A về phía Đông Bắc, cách trung tâm TP Móng Cái 1,5km là đến di tích. Còn theo đường thuỷ, du khách đi từ bến tàu thuỷ Bãi Cháy qua Vịnh Hạ Long và Bãi Tử Long đến Mũi Ngọc (TP Móng Cái). Từ đây đi xe ô tô về trung tâm TP Móng Cái khoảng 15km, qua cầu Ka Long, tới khu công viên giải trí, vui c Tường Vi hơi Hồng Vận Móng Cái, rẽ phải khoảng 350m là đến điểm di tích.(citinews.net).