Video
Công đức
Sách: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM (NXB Hồng Đức XB 2018)

CHƯƠNG II: LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ

2.1. Lạc Long Quân - con trai của Kinh Dương Vương - Nguyễn Quảng

Lạc Long Quân và Âu Cơ cũng được xem là quốc tổ của dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng". Lạc Long Quân có thể là danh hiệu truyền lại trong dã sử của một tù trưởng đã có công trong việc đi đến thống nhất các bộ tộc người Lạc Việt. Con trai ông là tù trưởng bộ lạc Văn Lang đã thống nhất thành công 15 bộ lạc, thành lập nhà nước Văn Lang, xưng hiệu Hùng Vương đời thứ nhất. (http://vi.wikipedia.org).Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN) (chữ Hán: 雒龍君 hoặc 駱龍君 hoặc 貉龍君) tên húy là Sùng Lãm (崇纜), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam, con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục (húy là Nguyễn Quảng) và con gái Động Đình Quân tên là Thần Long. Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang do King Dương Vương lập nên.

Truyền thuyết trong Lĩnh Nam Chích Quái (Trần Đình Hoành dịch): Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vu Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước.

Long Quân dạy dân việc cày cấy, cơm ăn áo mặc, đặt ra các cấp quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng. Đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! sao không lại cứu chúng con” thì Long Quân tới ngay. Sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi.

Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Vì nhớ đến chuyện ông tổ Đế Minh du hành phương Nam gặp tiên nữ, nên Đế Lai nhân khi phương Bắc thiên hạ thái bình bèn sai quần thần là bọn Xi Vưu thay mình trông coi việc nước, rồi đi tuần xuống  phía nam đến nước Xích Quỷ. Khi đó, Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không có vua. Đế Lai bèn để ái thiếp là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành cung rồi đi chu du thiên hạ, ngắm xem các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, voi, tê, đồi mồi, ngọc ngà, vàng bạc, quế, tiêu, hương, trầm, cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai vui thích mà quên trở về. Dân phương Nam khốn khổ vì bị quấy nhiễu, không được yên sống như xưa, nên ngày đêm mong mỏi Long Quân trở về. Thế nên cùng nhau gọi lớn: “Bố ơi, bố ở đâu mau về cứu chúng con”.  Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ sống một mình, có dung mạo đẹp đẽ lạ thường, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thanh niên khôi ngô tuấn tú, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống trước hành cung Âu Cơ ở. Âu Cơ thấy vậy, sinh lòng ưa thích. Long Quân đón Ấu Cơ ở Long Trang Nham. Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc. Truyền ngôi đến đời Du Võng, đánh nhau với Hoàng Đế ở đất Bản Tuyền, đánh không nổi mà chết. Đời Thần Nông tới đây thì hết.

Long Quân lấy Âu Cơ, trong năm sinh ra một bọc trứng, cho là điềm bất thường, vứt ra ngoài đồng; qua bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không cần phải bú mớm, các con tự lớn lên, người nào cũng trí dũng song toàn, ai ai cũng nể phục, đều cho là những kẻ phi thường. Long Quân ở lâu dưới thủy phủ, vợ con sống một mình, nay muốn về đất Bắc. Âu Cơ về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không thể về Bắc được, nên ngày đêm lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi buồn khổ thế này”.  Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương Dã. Âu Cơ khóc mà nói rằng: “Thiếp vốn là người phương Bắc, nay ở với vua, sinh được trăm trai. Xin vua đừng bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, để vợ con phải làm người không chồng, không cha, thật là đáng thương”.  Long Quân nói: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng giòng giống khác nhau, thủy hỏa tương khắc, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia tay. Ta đem năm mươi trai về thủy phủ chia trị các xứ, nàng đưa năm mươi trai về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên”.  Trăm con vâng lời, sau đó từ biệt mà đi.

Âu Cơ và năm mươi con về ở đất Phong Hiệp (Nay là huyện Bạch Hạc), cùng nhau tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước ra làm 15 bộ là Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải (nay là Nam Ninh), Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận. Sai các em cùng nhau chia trị các nơi đó. Lại đặt các em làm tướng văn, tướng võ, văn là Lạc Hầu, võ là Lạc Tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan gọi là Bố Chính, nô bộc gọi là Trâu, con ở gái gọi là Tinh. Bề tôi của vua gọi là Côi, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ Đạo, đều xưng là Hùng Vương, không hề thay đổi.

Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Vua nói rằng: “Giống sơn man và giống thủy tộc khác nhau, nên xâm phạm lẫn nhau”.  Bèn khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình loài thủy tộc. Từ đó, dân không bị họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đó. Lúc đất nước còn sơ khai, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ tranh làm chiếu, lấy bả cơm làm rượu; lấy cây cau, cây cọ làm đồ ăn; lấy cầm thú, cá, tôm làm mắm; lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng bằng dựa. Đất trồng được nhiều gạo nếp, dùng ống tre để thổi cơm ăn. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ vào rừng. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh để người lân cận nghe tiếng đến cứu. Việc cưới hỏi giữa nam nữ trước lấy gói muối làm lễ vật đi hỏi, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để vào phòng cùng ăn, rồi mới thành thân. Đây là lúc chưa có trầu cau.

Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.

Khi lên làm vua, Lạc Long Quân đã có nhiều chiến công hiển hách như diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh và đẩy lùi sự xâm lược của Đế Lai đến từ phương Bắc.

Ngoài các chiến công đó, Lạc Long Quân còn có công dạy cho người dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ và đề ra quy tắc ứng xử cha con, vợ chồng…(Lĩnh Nam Chích Quái  - https://trandinhhoanh)

Truyền thuyết diệt Ngư Tinh

Ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn thịt người nên ai cũng sợ.

Thuở ấy có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bển, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của dân đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có  người tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời.

Truyền thuyết diệt Hồ tinhLạc Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỷ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ, còn cái đầu trôi ra ngoài biển biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bển rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy).

Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn. 

Lạc Long Quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân đi tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hóa phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy Hồ tinh. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, Hồ tinh dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.

Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.

Truyền thuyết diệt Mộc tinh

Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu tinh này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết của dân làng, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.

Truyền thuyết dạy dân

Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm. Lạc Long Quân bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! “

Truyền thuyết “Khuyên” vua Hùng

Theo nhiều tài liệu văn học dân gian, khi giặc Ân xâm lược nước Văn Lang, Lạc Long Quân đã “khuyên” vua Hùng thứ sáu nên cho sứ giả đi khắp nước để tìm người kỳ tài ra cứu nước.

Và người đó chính là Thánh Gióng, người anh hùng nhổ tre đánh giặc, đánh lùi giặc Ân, đem lại thái bình và lạc nghiệp cho cư dân Văn Lang.

Truyền thuyết “Giúp” An Dương Vương

Thành Cổ Loa gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú của dân tộc Việt: An Dương Vương định đô, xây thành; chiếc nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc; mối tình bi thương của Mỵ Châu - Trọng Thủy... Nhưng vì quá chú ý đến những tình tiết này nên ít ai lưu tâm đến “vai trò” của hình tượng Lạc Long Quân trong đó.

Theo truyền thuyết thì thần (Lạc Long Quân) chính là người sai Kim Quy giúp vua xây thành Cổ Loa để định đô và chế “nỏ thần” để chống giặc.

Truyền thuyết “Trao” kiếm Thuận Thiên

Đọc truyền thuyết Hồ Gươm cho ta thấy rõ về điều này. Việc thanh kiếm Thuận Thiên không đến thẳng với Lê Lợi mà được chia làm hai phần: một lưỡi kiếm và một chuôi kiếm, rồi việc khi có thanh gươm thần, Lê Lợi đánh thắng liên tiếp quân Minh và việc “hoàn kiếm” cũng chứng tỏ sự tính toán đầy khôn ngoan của Lê Lợi trong việc tung các tin đồn để khích động sự quan tâm của xã hội vào vấn đề chung của đất nước. Việc Đức Lạc Long Quân “trao” kiếm Thuận Thiên cho Lê Lợi đánh thắng giặc Minh là một truyền thuyết mang tính sử dụng sức mạnh thánh thần của người Việt. Để tập hợp lực lượng và thu phục lòng dân. Lê Lợi đã sử dụng đến sức mạnh thánh thần. Và sự thông minh của Lê Lợi là đã chọn Đức Lạc Long Quân làm “giá đỡ” cho tinh thần nghĩa quân.

Thứ nhất, việc bộ hạ Lê Thận kéo lưới “vô tình” được lưỡi gươm, Lê Lợi chạy giặc “vô tình” được chuôi kiếm đã khiến người dân và nghĩa quân tin chắc chắn rằng quân Lam Sơn đang được thần linh phù trợ.

Việc “hoàn kiếm” cũng là một thủ thuật chính trị mẫu mực của Lê Lợi. Là người đứng đầu một quốc gia dân tộc nên Lê Lợi đã tính toán để kết thúc hợp lý truyền thuyết do mình tạo ra. Nghĩa là, việc Lạc Long Quân cho thần Kim Quy nổi lên ở hồ Tả Vọng (hồ Hoàn Kiếm) để đòi lại kiếm trước thuyền Rồng của vua thực chất chỉ là sự “hợp lý hóa” truyền thuyết Thuận Thiên Kiếm do Lê Lợi tạo ra. (Lĩnh nam Chích quái bản dịch của Trần Đình Hoành;  http://www.lyhocdongphuong.org.vn/; http://huc.edu.vn/)

2.2. Đền Quốc tổ Lạc Long Quân ở đồi Sim tỉnh Phú Thọ

Đồi Sim có hình thế giống một con rùa lớn, hai bên có Thanh Long, Bạch Hổ, phía trước là hồ Hóc Trai và sông Hồng chảy xuôi về biển.Đền Quốc tổ Lạc Long Quân được xây dựng tại đồi Sim, cách núi Nghĩa Lĩnh khoảng 1 km, nơi có vị trí đắc địa, có thế "sơn chầu thủy tụ".

 Ngôi đền tọa lạc trên lưng rùa biểu hiện sự linh thiêng huyền diệu. Đền thờ gồm các hạng mục: đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, nhà tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật. Đền thờ được chia làm 3 khu: Khu A, diện tích gần 9.000 m2 xây dựng đền thờ chính; khu B, rộng hơn 9.400m2 xây dựng khu đón tiếp và nhà quản lý; khu cảnh quan và các công trình phụ trợ rộng hơn 119.000m2.

Đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân được khởi công xây dựng ngày 26-2-2007 (8-2 âm lịch) với tổng số vốn đầu tư 139 tỉ đồng trên nền diện tích 13,9 ha với các hạng mục:

Đền chính có diện tích 210m2, kiến trúc kiểu chữ đinh truyền thống, nội thất bằng gỗ lim, sơn son thếp vàng, mái lợp ngói mũi hài, nền lát gạch Bát Tràng, bó vỉa đá xanh. Hậu cung đặt tượng thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân dáng vẻ uy nghiêm. Tượng được đúc bằng đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là tượng Lạc hầu và Lạc tướng ở tư thế đứng có chiều cao 1,80m, mỗi pho nặng 0,5 tấn. Các pho tượng do các nghệ nhân thuộc Công ty Mỹ thuật Trung ương (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng các nghệ nhân của làng nghề đúc đồng Ý Yên - Nam Định thực hiện.

Cổng đền (nghi môn) cũng được xây dựng theo kiểu truyền thống, gồm có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng khoảng 2m. Cổng được xây dựng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh chạm họa tiết hoa văn 4 mặt. Phía trước nghi môn là cổng biểu tượng cũng có kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá và chạm khắc. Hai bên sân đền là nhà tả vu, hữu vu xây dựng 5 gian, khung gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Hai trụ biểu đối xứng nhau cũng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh. Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được Nhà nước đầu tư xây dựng đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo hoa văn trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc... thể hiện sinh động, độc đáo mang nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền tôn thêm sự uy nghiêm, linh thiêng.

Đến Đền Hùng ngày nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. Ngày Lễ Chính: Ngày 6/3 âm lịch hằng năm. (http://tinhtam.vn/;  http://dulich.phutho.gov.vn/).

2.3. Âu Cơ

2.3.1. truyền thuyết về Âu Cơ

* Theo “Cổ Lôi Ngọc phả truyền thư” được ghi chép từ thời Tự Đức năm thứ nhất (Tự Đức nguyên niên chính nguyệt thập ngũ nhật): “Vua Lạc Long Quân tên thuỵ là Sùng Lãm, tên tự là Phúc Thọ là con vua Kinh Dương Vương, đổi tên nước là Văn Lang, phân địa dư làm 15 bộ, phân dân làm trăm họ gọi là Bách Việt. Lấy Nguyễn (họ) làm nguyên trưởng. Lạc long Quân lấy con gái vua Đế Lai là bà Âu Cơ. Trên đầu núi có mây lành ngũ sắc rực rỡ. Bà Âu Cơ ở đó có mang sinh ra Hùng Lân nối ngôi vua là Hùng Quốc Vương, kế truyền 18 đời hơn 100 lượt vua đều lấy tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu” (tr 43-44).

* Vi.wikipedia.org: Theo truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ (嫗姬) là tổ mẫu của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và đem về làm vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau và sinh được 100 người con trai. Sau đó vì thủy thổ tương khắc nên hai người phải chia con ra 50 người con theo cha về biển, 50 người con theo mẹ về núi và chia nhau cai quản các vùng. Đây là tổ tiên của người Bách Việt.* Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên... soạn thảo (1272 - 1697), Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992) và Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội (Hà Nội) ấn hành (1993): Lạc Long Quân Tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương.  Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt.* Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm Trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470): “Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi là Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chơi ở châu Trường Sa, gặp khi vua (Lạc Long Quân) đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi

Âu Cơ là một nàng tiên xinh đẹp sống ở trên những ngọn núi cao. Nàng đi khắp bốn phương để giúp và trị bệnh cho những người đang lâm bệnh và gặp khó khăn. Nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật. Một ngày nọ, một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng liền biến thành một con sếu mà bay đi. Lạc Long Quân, là thần rồng từ biển cả, thấy nàng đang gặp nguy hiểm liền cầm lấy cục đá và giết tên quái vật. Sau đó tình yêu đã nảy nở giữa hai người và họ cưới nhau. Âu Cơ sinh ra một bọc trứng nở thành 100 người con trai. Một ngày nọ, Lạc Long Quân nói với nàng vì hai người đến từ chủng tộc và môi trường rất khác nhau nên không thể chung sống với nhau trọn đời được. Họ bèn chia nhau mỗi người 50 đứa con, 50 theo mẹ, 50 theo bố. 50 người con theo mẹ đi đến ở Phong Châu, người anh cả trở thành Hùng Vương đầu tiên của nước Văn Lang.

Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (từ thế kỷ thứ 15) và Lĩnh Nam chích quái (từ thế kỷ thứ 14) đều nhắc tới huyền thoại này. Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư thì viết Âu Cơ là con gái của Đế Lai. (http://vi.wikipedia.org/).

* Đền Tổ Mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương, Phú Thọ là nơi thờ Mẹ Âu Cơ, được xây dựng từ thời Hậu Lê, nằm trên địa phận xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. 2.3.2. Đền mẫu Âu Cơ

Dưới triều vua Lê Thánh Tông năm 1465, vua đã ra chiếu chỉ phong thần, cấp tiền, xây dựng thành Đền Mẫu Âu Cơ như ngày nay, giao cho nhân dân xã Hiền Lương thờ phụng. Thế kỷ 15, triều đình Hậu Lê đã phong sắc và cho xây xửa lại đền, thế kỷ 19 nhà Nguyễn một lần nữa lại phong sắc công nhận đền Mẫu Âu Cơ.

Ngày 3/8/1991, đền Mẫu Âu Cơ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin nước CHXHCN Việt Nam cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Ngày lễ chính của đền Mẫu Âu Cơ là ngày Tiên giáng mùng 7 tháng Giêng. Dân trong vùng từ lâu đã có câu ca lưu truyền: Mùng bảy trong tiết tháng Giêng, Dân Hiền lễ tế trống chiêng vang trời.... Lễ hội có lễ tế Thành Hoàng ở đình, rước kiệu từ đình vào đền, lễ dâng hương và lễ vật gồm 100 bánh ngọt, 100 phẩm oản, hoa quả. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày liên tục từ mùng 7-9 tháng Giêng. Ngoài đền diễn ra các trò chơi dân gian như đu tiên, cờ người, chọi gà, tổ tôm… Ngày thứ ba là lễ rước kiệu từ đền trở về đình để kết thúc lễ hội chào mừng Tiên giáng.Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình nghệ thuật kiến trúc có giá trị cao với các kết cấu kiến trúc đền chùa cổ, các pho tượng quý như tượng Âu Cơ, tượng Đức Ông, các bức chạm quý và nhiều cổ vật vô giá. Khu vực đền là một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài khoảng 200m và chiều rộng khoảng 150m với tường cao bao quanh.

Các ngày lễ khác trong năm: ngày 11-12 tháng Hai, ngày 12 tháng Ba, ngày 13 tháng Tám, ngày Tiên thăng 25 tháng Chạp (http://vi.wikipedia.org/)

* Đền Quốc Mẫu Âu Cơ ở Núi Vặn, Phú Thọ

Đền Quốc Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn (Tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn), thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn.

Đền Quốc Mẫu Âu Cơ ở núi Vặn là một quần thể kiến trúc bao gồm: Đền chính thờ Mẫu Âu Cơ, nhà tả vu, nhà hữa vu, nhà bia, trụ biểu, tam quan… được thiết kế theo phong cách xây dựng truyền thống, xen lẫn tính hiện đại. Các họa tiết trên trống đồng Đông Sơn: Cột gỗ có thớt đá kê, tường xây gạch mộc đỏ, mái đền có đầu đao cong vút như cánh chim Lạc, trụ biểu đá giống như cây bút đang viết lên trời xanh… cho nhân dân ta vừa cảm giác gần gũi với mẹ vừa thiêng liêng cao quý.        Đứng trên đỉnh núi Vặn có thể bao quát một vùng rộng lớn sơn thủy hữu tình. Phía trước núi Vặn là núi Hùng, nơi thờ tự các vua Hùng. Núi Hùng trông xa giống như đầu con rồng lớn, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc ở phía sau. Bên tả có dòng sông Hồng, bên hữu có dòng sông Lô tựa như hai dải lụa đào, bao bọc lấy ba ngọn “Tổ Sơn” ở giữa. Phía sau núi Vặn là những dãy đồi lớn san sát như bát úp, gắn với truyền thuyết “Trăm voi chầu về Đất Tổ”.  Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thủy tụ hội.

Trong Hậu cung đền đặt tượng Tổ Mẫu Âu Cơ được làm bằng đồng. Phía dưới đặt tượng Lạc hầu, Lạc tướng.

Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ là một công trình văn hóa lớn của thời đại chúng ta - con cháu các vua Hùng xây dựng nên, nhằm mục đích “quy tụ” và “hội tụ” văn hóa “Đền Hùng”.  Bổ sung cho quần thể kiến trúc tín ngưỡng trong Di tích lịch sử Đền Hùng, thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu Âu Cơ người mẹ thiêng liêng huyền thoại của dân tộc Việt Nam. (http://thantienvietnam.com).Truyền thuyết xưa kể rằng: 3 ngọn “Tổ Sơn” là nơi lưu giữ dấu tích của Tổ tiên. Mẹ Âu Cơ kết duyên cùng cha Lạc Long Quân tại Động Lăng Xương - Thanh Thủy, về đến núi Hùng, sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai. Khi các con khôn lớn, Cha Lạc Long Quân đưa 50 người con xuôi về vùng biển mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ đưa 50 người con lên vùng núi sinh cơ lập nghiệp, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải xây dựng cuộc sống. Trong dân gian hình ảnh mẹ Âu Cơ là người mẹ đầu tiên khai sinh ra cả dân tộc.

Công trình đền Quốc mẫu Âu Cơ do Viện Bảo tồn di tích (Bộ Văn hóa Thông tin) thiết kế theo kiến trúc cổ truyền thống, Công ty Tu bổ di tích và Công ty Mỹ thuật Trung ương cùng các nhà thầu phụ thi công, được chính thức khởi công từ giữa tháng 9/2001 với tổng mức đầu tư 25 tỷ VND từ nguồn vốn trung ương và ngân sách tỉnh Phú Thọ. Đến cuối năm 2004 đã cơ bản hoàn thành chuẩn bị cho việc khánh thành vào dịp giỗ Quốc tổ (10-3 âm lịch) năm 2005.

Con đường từ chân núi lên đến cửa đền có dốc khá thẳng với 553 bậc đá làm bằng chất liệu đá Hải Lựu (Lập Thạch - Vĩnh Phúc), đá Trị Quân (Phù Ninh -  Phú Thọ), dọc đường có bố trí chỗ dừng chân và nhà đón khách. Cổng tam quan cao 5,8m với ba lối vào, mái dán ngói mũi hài, các đầu đao, họa tiết đều được chạm khắc mô phỏng hình chim Lạc. Qua cổng Tam quan lên tới bậc đá thứ 500 là bắt đầu bước vào cổng tứ trụ gồm hai trụ chính cao 6,5m, hai trụ phụ cao 5,2m. Cột trụ làm bằng bê-tông cốt thép, xung quanh đắp gờ chỉ tạo hoa văn, đắp trát các con giống thời kỳ Hùng Vương.

Tiếp đến là hai trụ biểu cao chừng 14m vút thẳng giữa trời biểu thị sự giao hòa giữa thiên nhiên với trời đất, được ốp bằng đá phiến xanh từ vùng Thanh Hóa, Ninh Bình, dày 20 - 30cm có chạm khắc các họa tiết, con giống phỏng theo hình chim Lạc - đây là cặp trụ biểu được đánh giá độc đáo nhất trên cả nước. Sau trụ biểu là nhà bia được dựng theo kiến trúc đền chùa với mặt bằng hình vuông, mái chồng diêm, khung cột sườn mái làm bằng gỗ lim, nền lát gạch bát, xung quang ốp đá xanh Thanh Hóa, Hải Lựu và bố trí các con lân, ly bằng đá. Bia và trụ bia được làm bằng đá, một mặt khắc chữ Nôm, mặt còn lại khắc bằng chữ quốc ngữ, ghi lại thời kỳ xây dựng đền với sự đóng góp công đức của đồng bào khắp cả nước. 

Khu đền được đặt theo hướng Tây Nam, có bố cục kiểu chữ “đinh” gồm đền thờ chính ở giữa rộng 137m², hai bên có hai nhà Tả, Hữu vu. Toàn bộ được dựng theo kiến trúc truyền thống với cột, khung, sườn mái, vách ngăn bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, tường xây bằng gạch bát… Các thành lan can được chạm khắc họa tiết hình chim Lạc cùng các hoạt động văn hóa dân gian thời kỳ Đông Sơn. Hai bên Tả vu có hai bức phù điêu bằng chất liệu gò đồng khắc họa cảnh 50 người con theo cha xuống biển và 50 người con theo mẹ lên núi.

Bên trong đền chính phối thờ tượng Mẫu và hai tượng Lạc Hầu, Lạc Tướng được đúc bằng đồng với khối lượng khoảng 2 tấn. Riêng tượng Mẫu Âu Cơ được lấy theo nguyên mẫu pho tượng đang thờ tại đền Mẫu xã Hiền Lương (Hạ Hòa - Phú Thọ) với đôi chút điều chỉnh. Các nhang án, đại tự, câu đối, bệ đặt trống đồng, giá treo chuông, treo chiêng, y môn… đều được sơn son thếp vàng trên chất liệu gỗ qúy.

Do đặc thù nằm trên núi cao với độ chênh lớn, hệ thống sân vườn đã được xây dựng khá kỳ công với ba lớp kè, lớp trong cùng là tường chắn bằng bê-tông cốt thép, lớp giữa xây bằng đá hộc, lớp ngoài ốp bằng đá ong lấy từ vùng làng cổ Sơn Vi, Thanh Đình (Lâm Thao - Phú Thọ). Trong sân trồng nhiều giống cây đặc trưng thường thấy ở đình chùa như Đại cổ thụ, Si, Cau, Ngọc lan… mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Toàn bộ công trình đã sử dụng hơn 8.000m³ đá, 5.300 tấn cát, sỏi, 68 tấn xi-măng, 250m³ gỗ lim.

Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình thế kỷ với kiến trúc đẹp, hài hòa một cách tự nhiên giữa cảnh trí thiên nhiên hùng vỹ. Từ đây mỗi khi có dịp về đất Tổ, du khách thập phương không chỉ thể hiện tâm tình “uống nước nhớ nguồn” nơi lăng, miếu các vua Hùng, mà còn có cơ hội thể hiện lòng thành kính đối với mẹ Âu Cơ, một người mẹ đã từ trong huyền sử bước ra để dạy cho con dân nước Việt biết quý trọng tình anh em, nghĩa đồng bào…(http://www.aseantraveller.net/)

Để tưởng nhớ công đức của Quốc Mẫu Âu Cơ - người mẹ huyền thoại đã sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, khởi nguồn của hai tiếng "Đồng bào” gắn bó như keo sơn chặt chẽ của dân tộc Việt Nam. Ngày mùng 7 tháng Giêng hàng năm, các con Lạc cháu Hồng hội tụ về Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ tưởng nhớ tri ân công đức Quốc Mẫu ngày "Tiên Giáng".

Lễ dâng hương và lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ là một trong những lễ hội lớn, mở đầu cho nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc trên địa bàn tỉnh Phú Thọ với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao và các trò chơi dân gian mang đậm sắc thái văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi để đón đồng bào và du khách thập phương.

Trong ngày lễ, ngay từ sáng sớm, đông đảo đồng bào, du khách và nhân dân đã có mặt tại Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ trên đỉnh núi Ốc Sơn thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng (ước tính trên 1 vạn lượt người). Trong không khí ngút ngàn hồn thiêng sông núi, trước anh linh tổ tiên, tham dự Lễ dâng hương Tổ Mẫu, trong lòng mỗi người đều không khỏi xúc động và tự hào về nguồn cội dân tộc, tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông. 

Trong chương trình lễ dâng hương, các đại biểu, đồng bào và du khách đã tham dự nghi thức Tế Quốc Mẫu; dâng hương hoa, lễ vật, thắp hương tri ân công đức Quốc Mẫu Âu Cơ. Trước anh linh Quốc Mẫu nguyện một lòng đoàn kết, phát huy truyền thống dựng nước và đấu tranh giữ nước, xứng đáng mang trong mình dòng máu Tiên Rồng.

Nghi thức quan trọng nhất trong phần lễ là tế nữ quan theo nghi thức truyền thống được thực hiện bởi 12 cô gái thanh tân trong trang phục áo dài, đầu đội khăn kim tuyến, thắt lưng dải lụa, chân đi hài thêu. Chủ tế nữ mặc bộ lễ phục màu đỏ... Huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ sinh ra bọc trứng nở thành 100 người con nhằm tôn vinh nòi giống Tiên Rồng của dân tộc Việt Nam, mang đậm dấu ấn nhân văn sâu sắc, là đặc trưng văn hóa, thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam.

* Đền mẫu Âu Cơ ở Cà MauTruyền thuyết đó đã trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, thể hiện bản lĩnh kiên cường, đoàn kết, tính đồng bào được lưu giữ đến tận ngày nay. (http://www.phapluatplus.vn/)

Qua tìm hiểu, được biết, nơi đây có hai ngày cúng lớn trong năm. Đó là ngày Quốc giỗ Hùng Vương, mùng 10 tháng 3 và Quốc Mẫu Âu Cơ, mùng 5 tháng 5 âm lịch. Thờ cúng tại Quốc Mẫu Âu Cơ rất đơn giản nhưng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với những ai muốn tìm hiểu về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Đến Quốc Mẫu, chúng ta bắt gặp những câu đối: Khai thánh địa Rồng cha truyền Bách Việt, Dựng sơn hà Tiên mẹ mở Văn Lang, tạm dịch là “Cha Rồng truyền dòng giống Bách Việt, Mẹ Tiên lập nước Văn Lang” , theo đó, bức bình phong cùng với các dòng chữ: Nhìn non thương nhớ mẹ, trông biển nhớ ơn cha. Vào gian thờ chính, còn nhiều câu đối làm cho chúng ta suy ngẫm. Lý giải vấn đề này, người Thủ từ cho biết: Quốc giỗ Hùng Vương, mùng 10 tháng 3, tháng 3 là tháng Thìn, tính theo khởi điểm của tháng (Giêng là tháng Dần, tháng hai là tháng Mẹo, tháng ba là tháng…). Còn giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ,  thì cúng vào ngày mùng 5 tháng 5. Mùng 5 tháng 5 còn gọi là Tết Đoan Ngọ hay còn gọi là Đoan Dương, theo phong tục cổ truyền, mùng 5 tháng 5 là những ngày Tết lớn nhất trong năm, sau Tết Nguyên đán. Tháng 5 cũng là tháng Thìn, tính theo Lục thập hoa giáp (12 con giáp; Tí, Sữu, Dần, Mẹo…). Ở Cà Mau, đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ ngự tại số 336, đường Nguyễn Trãi, thành phố Cà Mau. Từ thế kỷ trước, những người dân nơi đây lập nên nơi thờ tổ của người Việt Nam chúng ta. Nơi đây có chân dung Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Đồ, Lạc Thư, cùng các bậc tiền hiền lập đền.

Nếu ngày Giỗ Hùng Vương có câu:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng ba”

Thì ngày Giỗ Mẫu Âu Cơ:

“Mùng 5 ăn Tết Đoan Dương

Nhớ ngày Giỗ Mẹ Việt Thường -Văn Lang”

2.4. Truyền thuyết con Rồng cháu Tiên

Con Rồng cháu Tiên là một huyền thoại về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Con Rồng cháu Tiên là tên xưng hô đầy tính tự hào của tất cả dân tộc Việt Nam xuất phát từ quan niệm về xuất thân liên quan đến truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên.

Trong cách gọi này, Rồng chỉ Lạc Long Quân và Tiên chỉ Âu Cơ. Người Việt Nam tự gọi mình là Con Rồng cháu Tiên tức là nhận mình là dòng dõi của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đây là tên gọi thường dùng trong thơ ca Việt Nam với hàm ý kêu gọi sự đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Ngoài ra, dân tộc Việt Nam cũng gọi nhau là đồng bào với nghĩa tương tự, xuất phát từ truyền thuyết mẹ Âu Cơ đẻ một bọc 100 trứng.

Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm người con trai. Một ngày, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, không ở cùng nhau được". Hai người bèn chia con mà ở riêng. Năm chục người theo mẹ về núi, năm chục người theo cha xuống biển, chia nhau mà thống trị những xứ đó, đó là thủy tổ của các nhóm Bách Việt. Người con cả trong số những người con theo mẹ lên Phong Châu (Phú Thọ) và được tôn làm vua gọi là Hùng Vương lập ra nước Văn Lang.

Vì mẹ là giống Tiên, và cha là giống Rồng; và từ đó sinh ra một dòng giống Việt Nam, dòng giống Việt này được phát triển. Tiên được hiểu là người sống trên núi, hiền từ thanh thoát, sống mãi không chết. Còn rồng, được coi là chủ tể của biển cả, làm mưa làm gió, thiên biến vạn hóa, tài phép khôn lường.

Bộ sách sử cổ Đại Việt sử ký toàn thư của Việt Nam cũng chép về huyền thoại tương tự, nhưng bỏ bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, mà chỉ nói đến Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra trăm người con. (http://vi.wikipedia.org)

Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên tuy có những yếu tố tưởng tượng, kì ảo nhưng về cơ bản đã giải thích, suy tôn nguồn gốc của người Việt. Đồng thời truyện cũng thể hiện niềm tự hào dân tộc, ý nguyện đoàn kết, thống nhất từ xa xưa của cộng đồng người Việt: dù ở bất cứ đâu, đồng bằng hay miền núi, trong Nam hay ngoài Bắc, người Việt Nam đều là con cháu các vua Hùng, có chung dòng dõi “con Rồng cháu Tiên” , vì thế phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.

Con Rồng Cháu Tiên' qua góc nhìn của nhà sử học Dương Trung Quốc:

Mọi quốc gia, dân tộc đều có nhu cầu thấu hiểu về nguồn gốc của mình. Đây là nhân tố cần thiết để gắn kết đồng loại. “Con Rồng Cháu Tiên” là chủ đề được các nhà nghiên cứu quan tâm, vì lý giải chúng ta là ai, cái gốc rễ sâu xa của chúng ta là gì, tại sao lại gắn kết thành quốc gia, dân tộc.

Mặc dù bắt nguồn là một truyền thuyết nằm trong dân nhưng câu chuyện đã thực sự đi vào chính sử, cụ thể là “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.  Vào thế kỷ XV, sau khi vừa kết thúc 20 năm đô hộ giặc Minh, bằng việc ghi nhận lại câu chuyện lý giải nguồn gốc, dân ta muốn chứng minh rằng dân tộc ta có cội nguồn, có nền tảng văn minh, chứ không phải là một nhánh, một bộ phận của quốc gia nào khác.

Câu chuyện tưởng chừng rất không thực tế, lại là cơ hội để lý giải vì sao từ xa xưa người Việt hình thành. Chính việc tồn tại chung một niềm tin trong tiềm thức rằng chúng ta dù già trẻ lớn bé đều là “Con Rồng Cháu Tiên” , đều chung một cội nguồn, các giá trị cốt lõi của dân tộc sẽ được trân quý một cách bền vững. Đó là lòng tự hào về dân tộc Việt duy nhất, hậu duệ của dòng dõi Lạc Rồng. Là lòng tri ân, biết ơn những người đã tạo nên hình hài đất nước. Là tình yêu thương, sự gắn kết với những người “đồng bào” , cùng sinh ra từ bọc trăm trứng Rồng Tiên. Là ý thức về đất nước mình vừa có rừng, có biển - những tài nguyên, không gian sống mà con người phấn đấu, bảo vệ.

Mặc dù câu chuyện đơn sơ thôi, nhưng sự thật rất gần gũi, có sức hấp dẫn riêng, đặc biệt ở con trẻ. Chúng không đặt câu hỏi mà người lớn rất dễ đặt ra, tại sao con người đẻ trứng? Chúng ta có thể tin như thế vì đó là đặc điểm của truyền thuyết, của quốc gia, cộng đồng, và nó đáp ứng nhu cầu tinh thần, tình cảm của con người, tạo ra những cảm xúc mà người ta rất hồn nhiên chấp nhận nó. (https://vnexpress.net,  2/11/2017)