Video
Công đức
Sách: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM (NXB Hồng Đức XB 2018)

CHƯƠNG VIII: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI KỲ TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1627 - 1672)

8.1. Thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh 

Trịnh-Nguyễn phân tranh là thời kỳ phân chia giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh” ở phía Bắc sông Gianh (sử gọi là Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong), mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 và kết thúc vào cuối thế kỷ 18 khi nhà Tây Sơn dẹp cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh. Nước Việt Nam bị chia cách hơn 100 năm.

Về mặt lý thuyết cả hai thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều mang khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc” để lấy lòng thiên hạ và thề trung thành với triều Hậu Lê. Nhưng trên thực tế thì khác, cả hai đều muốn tạo nên thế lực cho riêng mình và thèm muốn ngai vàng. Biến vua Lê thành bù nhìn để che mắt thiên hạ. Diễn cảnh của nước Đại Việt thời đó không khác gì Tam Quốc phân tranh vào cuối thời Đông Hán ở Trung Quốc.

Năm 1527Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê lập ra nhà Mạc. Năm 1533, tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim lập con vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, tức là Lê Trang Tông.

Năm 1545Nguyễn Kim bị sát hại, con rể là Trịnh Kiểm lên thay. Để nắm trọn binh quyền, Trịnh Kiểm đầu độc giết con cả của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông. Em Uông là Nguyễn Hoàng lo sợ bị anh rể hại, nên nghe theo lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, xin vào trấn thủ Thuận Hóa. Trịnh Kiểm cho rằng đất ấy là nơi xa xôi, hoang vu nên đồng ý cho đi, nhằm mục đích mượn tay quân Mạc giết Hoàng. Tuy nhiên, không những đánh bại quân Mạc, Nguyễn Hoàng còn lấy được lòng dân Thuận Hóa.

Mải đối phó với nhà Mạc, Trịnh Kiểm cho Hoàng kiêm trấn thủ luôn Quảng Nam. Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, con cả là Trịnh Cối lên thay. Cối không màng chính sự, bị em là Trịnh Tùng đoạt quyền. Trịnh Cối cùng đường đầu hàng nhà Mạc và chết già ở đất Bắc.

Trịnh Tùng nắm đại quyền, thao túng triều đình, giết vua Lê Anh Tông lập vua nhỏ là Thế Tông. Năm 1592 Trịnh Tùng đánh chiếm được Thăng Long, đuổi họ Mạc chạy lên Cao Bằng. Khi rước được vua Lê về kinh thành, Trịnh Tùng bắt đầu tính tới người cậu Nguyễn Hoàng phía nam.

Cuộc chiến Trịnh - Nguyễn thực sự diễn ra từ năm 1627 nhưng đó là chỉ tính về mặt quân sự. Nếu tính cả trên mặt trận ngoại giao, xung đột giữa hai bên đã nổ ra từ nhiều năm trước.

Năm 1593, Trịnh Tùng triệu Nguyễn Hoàng ra bắc với lý do để cùng đánh tàn dư họ Mạc còn tản mát ở Bắc bộ. Hoàng vâng lệnh mang quân ra bắc, phá tan quân Mạc ở Hà Trung và Sơn Nam, sau đó được Tùng giao trách nhiệm trấn giữ Sơn Nam.

Nguyễn Hoàng đóng quân ở Sơn Nam được 8 năm cố tìm cách thoát về nam. Năm 1600, nhân họ Mạc nổi dậy, Hoàng ngầm xúi giục các hàng tướng Mạc cũ là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga nổi loạn để lấy cớ đi dẹp. Trịnh Tùng mải đối phó họ Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên Quang (tức Chúa Bầu) nên đồng ý cho Nguyễn Hoàng đi dẹp. Hoàng nhân cơ hội đó chạy thẳng ra biển đi thoát về nam.

Thấy Nguyễn Hoàng trốn thoát, Trịnh Tùng sai người cầm thư vào nam dụ ra lần nữa nhưng Hoàng không ra, sau đó lại bỏ không nộp thuế đều đặn cho miền bắc. Để xoa dịu tình hình, Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho con Trịnh Tùng là Trịnh Tráng (tức là cháu lấy cô).

Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, người con trai thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay, tức là Sãi vương (hay chúa Sãi). Năm 1623, Bình An Vương Trịnh Tùng qua đời, con là Trịnh Tráng lên thay, tức là Thanh Đô Vương.

Sử sách nhà Nguyễn chép rằng, năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên bỏ không nộp thuế cho vua Lê, Trịnh Tráng làm sắc đứng tên vua Lê gửi trách Nguyễn, đòi đích thân hoặc sai con tải thuế ra bắc. Theo kế của mưu sĩ Đào Duy Từ, Phúc Nguyên một mặt lo tăng cường phòng thủ, một mặt tìm cách trả lại sắc thư.

Vì lực lượng yếu không thể ra mặt trả sắc thư cho chúa Trịnh, chúa Nguyễn sai đúc mâm hai đáy, để sắc thư kèm theo một bài thơ do Đào Duy Từ viết, cho vào đáy dưới, bên trên để vàng bạc, rồi sai Văn Khuông mang ra bắc tạ với chúa Trịnh. Khuông dâng mâm lên chúa Trịnh rồi giả cách về công quán nghỉ, trốn luôn về nam. Phía Trịnh phát giác mâm hai đáy bèn mở ra, bên trong có tờ sắc thư và một bài thơ chữ Hán như sau:

矛而無腋

覔非見跡
         愛落心腸
         力來相敵

Âm Hán-Việt:

Mâu nhi vô dịch

Mịch phi kiến tích

Ái lạc tâm trường

Lực lai tương địch

Các bầy tôi dưới quyền chúa Trịnh không giải được nghĩa bài thơ. Mãi sau Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan mới giải được nghĩa rằng:

* Câu đầu ý là chữ "mâu” 矛 bỏ nét phẩy. Chữ "mâu” không có nét phẩy thì thành ra chữ "dư” 予, nghĩa là "ta, tôi".

* Câu thứ hai ý là chữ "mịch” 覔 bỏ chữ "kiến” 見. Chữ "mịch” sau khi bỏ chữ "kiến” thì còn lại chữ "bất” 不, nghĩa là "không".

* Câu thứ ba ý là chữ "ái” 愛 bỏ chữ "tâm” 心. Chữ "ái” không có chữ "tâm” thì thành ra chữ "thụ” (受), nghĩa là "nhận".

* Câu cuối ý là chữ "lai (來) ghép với chữ "lực” 來. Chữ "lai” đem ghép với chữ "lực” thì thành chữ "sắc” (勑).

Ẩn ý của bài thơ này là "dư bất thụ sắc” 予不受勑, nghĩa là “Ta không nhận sắc”.

Theo sử sách nhà Nguyễn, sau khi hiểu được nghĩa bài thơ, nhận ra câu trả lời ngang ngạnh của Nguyễn Phúc Nguyên, Trịnh Tráng tức giận quyết định khởi đại binh vào nam. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng điều này không phải là sự thật. Trên thực tế, người giải được bài thơ của Đào Duy Từ là Phùng Khắc Khoan đã mất từ năm 1613, trước đó 14 năm rồi. Không những thế, trong chính cuốn sử biên niên Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn cũng chép rằng, sau khi Văn Khuông dâng mâm xong trốn về, tướng Nguyễn đóng ở biên giới đã chủ động đánh lấn sang đất Trịnh gây hấn trước, do đó Trịnh Tráng mới động binh vào nam, dẫn tới cuộc đại chiến đầu tiên giữa Trịnh và Nguyễn.

Chân tướng của sự việc này không giống những gì sử nhà Nguyễn chép. Chiếc mâm đồng hai đáy và bài thơ mà Đào Duy Từ dụng tâm khổ trí làm ra thì có thể có, nhưng thực ra phía Trịnh đã không phát giác ra cái mâm có hai đáy và do đó chúa Trịnh không phải tức giận về bài thơ này. Nhà Nguyễn muốn cha ông mình - chúa Sãi - đấm được họ Trịnh một cú đòn ngoại giao ngoạn mục, nhưng trên thực tế quả đấm đó chỉ trúng vào không khí. Các sử gia nhà Nguyễn đã sơ hở khi chọn Trạng Bùng làm người giải bài thơ của mưu sĩ họ Đào nhưng lại quên rằng lúc đó Trạng Bùng đã mồ yên mả đẹp từ lâu. Theo các nhà nghiên cứu, việc chúa Nguyễn tiếp tục không nộp thuế, cũng không ra nộp mình và cũng không sai con ra theo sắc của vua Lê (chúa Trịnh nhân danh), rồi họ Nguyễn chủ động gây hấn mới là lý do để Trịnh Tráng khởi binh.

Tám lần đại chiến

Cuộc chiến đầu tiên 1627

Tháng 3 năm 1627, Trịnh Tráng khởi 20 vạn đại quân thủy bộ vào nam, cùng các tướng Nguyễn Khải, Lê Khuê chia làm hai đạo tiến vào, hội binh ở cửa Nhật Lệ. Phía Nguyễn cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Vệ, Nguyễn Phúc Trung đón đánh.

Quân Trịnh chủ động tấn công nhưng không chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân Nguyễn. Phía Nguyễn có lợi thế là đại bác kiểu Bồ Đào Nha nên làm quân Trịnh sợ chạy dạt. Hai tướng Trịnh là Nguyễn Khải và Lê Khuê đều thua chạy.

Trong lúc hai bên tiếp tục giằng co thì Nguyễn Hữu Dật phao tin ở miền bắc, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc âm mưu làm phản. Trịnh Tráng nghi ngờ vội thu quân về bắc.

Cuộc chiến thứ hai 1633

Quân Trịnh rút về, Nguyễn Phúc Nguyên theo kế của Đào Duy Từ gấp rút xây lũy Trường Dục (Lũy Thày) để phòng thủ.

Năm 1631, con Phúc Nguyên là thế tử Kỳ chết, con thứ hai là Lan được lập làm thế tử, con thứ tư là Nguyễn Anh ra thay Kỳ trấn giữ Quảng Nam. Anh bất mãn không được làm thế tử, mưu thông đồng với chúa Trịnh, bèn viết thư hẹn làm nội ứng cho Trịnh Tráng.

Năm 1633, Trịnh Tráng khởi binh nam tiến lần thứ hai, đóng ở cửa Nhật Lệ. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến làm tướng ra đánh. Trịnh Tráng đang đợi suốt hơn 10 hôm không thấy hiệu làm nội ứng của Ánh thì bị quân Nguyễn đánh úp, quân Trịnh hoảng loạn tan vỡ bỏ chạy. Trịnh Tráng rút về bắc, để lại con rể là Nguyễn Khắc Liệt trấn thủ châu Bắc Bố Chính.

Quân Nguyễn đánh ra Bố Chính

Năm 1634, Đào Duy Từ chết, năm sau Nguyễn Phúc Nguyên chết, con là Phúc Lan lên thay, tức là Thượng vương. Em Lan là Phúc Anh nổi loạn bị giết chết.

Năm 1637, Phúc Lan sai Nguyễn Đình Hùng mang quân đánh úp chiếm Nam Bố Chính, giết tướng trấn thủ là Nguyễn Tịch.

Năm 1640, tướng Trịnh là Nguyễn Khắc Liệt mang quân đánh phá Nam Bố Chính rồi rút về. Chúa Nguyễn theo kế phản gián của Nguyễn Hữu Dật, viết thư cho Trịnh Tráng nói Liệt mưu thông đồng với chúa Nguyễn nên mặt ngoài gây chiến mà bên trong muốn hàng. Mặt khác, Nguyễn Phúc Lan thúc quân đánh Khắc Liệt. Khắc Liệt thua chạy, viết thư cầu cứu. Trịnh Tráng tin lời gièm của bên Nguyễn nên khi Liệt xin viện binh, Tráng điều Trịnh Kiều mang quân vào cứu, thực ra là để thay Liệt.

Kiều theo lệnh đến nơi nhưng không cứu Liệt mà chặn đường bắt Liệt mang về nộp chúa Trịnh, do đó quân Nguyễn nhân thời cơ đánh chiếm luôn Bắc Bố Chính. Nguyễn Khắc Liệt bị Trịnh Tráng xử tử.

Cuộc chiến thứ ba 1643

Mất Bắc Bố Chính, năm 1643, Trịnh Tráng điều quân vào nam chiếm lại. Chúa Trịnh cử hai con là Tạc và Lệ đi tiên phong, cùng các tướng Phạm Công Trứ, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Quang Minh.

Quân Trịnh ồ ạt tiến công giết chết tướng Nguyễn là Bùi Công Thắng, chiếm lại Bắc Bố Chính, tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ. Sau khi hai con ra quân được một tháng, chúa Trịnh rước vua Lê Thần Tông cùng đi nam chinh. Hai bên đối trận chưa phân thắng bại, gặp lúc mùa hè, khí hậu oi bức, quân Trịnh bị bệnh nhiều nên Trịnh Tráng đành ra lệnh lui quân.

Tháng 6 năm 1643, theo đề nghị của chúa Trịnh, ba tàu chiến Hà Lan (trước gọi là Hòa Lan) là Wojdenes (De Wijdeness), Waterhondvà Vos tiến vào cửa Thuận An đánh chúa Nguyễn. Thế tử Nguyễn Phúc Tần chưa được lệnh của cha vẫn mang quân ra nghênh chiến, đánh đắm một chiếc tàu, thuyền trưởng và nhiều thủy thủ bị chết, hai chiếc tàu kia bỏ chạy

Cuộc chiến thứ tư 1648

Tháng 2 âm lịch năm 1648, Trịnh Tráng sai Lê Văn Hiểu khởi binh nam tiến lần thứ tư, dẫn bộ binh đánh Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Cha con Trương Phúc Phấn cố thủ ở lũy Trường Dục, quân Trịnh đánh không hạ được.

Thế tử Phúc Tần mang quân cứu viện ra Quảng Bình, chia quân thủy phục ở sông Cẩm La, sai Nguyễn Hữu Tiến mang quân đánh úp quân Trịnh lúc nửa đêm. Quân Trịnh thua lớn, bị thủy quân Nguyễn chặn đánh chạy đến tận sông Gianh.

Tháng 3 năm 1648, quân Nguyễn định vượt sông Gianh đánh ra Bắc Bố Chính thì nghe tin chúa Nguyễn ngã bệnh chết trên thuyền trên đường về Thuận Hóa nên phải lui binh. Con Phúc Lan là Nguyễn Phúc Tần lên thay, tức là Hiền vương.

Trịnh Tráng lui binh, sai Lê Văn Hiểu giữ Hà Trung, Lê Hữu Đức đóng ở Hoành Sơn, Phạm Tất Toàn giữ Bắc Bố Chính.

Đại chiến lần thứ năm 1655 - 1660: Giằng co ở Nghệ An

Cuộc chiến lần thứ năm là cuộc chiến dài nhất, lớn nhất trong cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn và là lần duy nhất quân Nguyễn chủ động đánh ra bắc.

Quân nam chiếm 7 huyện Nghệ An

Tháng 4 năm 1655, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật mang quân vượt sông Gianh đánh Bắc Bố Chính. Tướng Trịnh là Phạm Tất Toàn đầu hàng. Tiến và Dật thừa thắng tiến lên đánh Hoành Sơn, Lê Hữu Đức thua chạy. Tiến và Dật đánh luôn Hà Trung, Lê Văn Hiểu thua chạy nốt, cùng Đức lui về giữ An Trường (Nghệ An).

Trịnh Tráng thấy các tướng thua luôn, sai Trịnh Thượng làm thống lĩnh mang quân vào nam, triệu các tướng cũ về. Lê Văn Hiểu bị thương, nửa đường chết, còn Đức bị giáng chức.

Trịnh Thượng lãnh binh, tiến quân bộ vào huyện Kỳ Hoa, chia quân thủy tiến đến cửa Kỳ La. Hữu Tiến rút về nam sông Gianh. Trịnh Thượng thấy địch vô cớ rút, biết có mưu nhử nên không đuổi, đóng lại Lạc Xuyên, chia quân ra giữ Hà Trung. Hữu Tiến, Hữu Dật thấy địch không đuổi, liền chia quân thủy bộ đánh ra. Quân Trịnh hai cánh đều thua, quân thủy bỏ Kỳ La về Châu Nhai, quân bộ bỏ Lạc Xuyên về giữ An Trường. Thế là 7 huyện Nghệ An ở phía nam sông Lam là Kỳ HoaThạch HàThiên LộcNghi XuânLa SơnHương SơnThanh Chương về tay chúa Nguyễn.

Trịnh Toàn cầm quân

Trịnh Tráng giáng chức Thượng rồi cử con là Trịnh Tạc vào làm Thống lĩnh. Hữu Tiến thấy viện binh Trịnh bèn lui về giữ Hà Trung. Gặp lúc họ Mạc phía bắc quấy rối, Trịnh Tạc phải rút về bắc, để Đào Quang Nhiêu ở lại đóng ở An Trường, Vũ Văn Thiêm lãnh thủy quân đóng ở Khu Độc; Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên đóng ở Tiếp Vũ.

Năm 1656, Hữu Tiến đánh Tiếp Vũ, Quang và Liên bỏ chạy. Hữu Dật phá tan thủy quân của Văn Thiêm, Thiêm cũng chạy. Quân Nguyễn hợp lại đụng Đào Quang Nhiêu, Nhiêu bại trận chạy về giữ An Trường.

Trịnh Tráng bèn cử con út là Trịnh Toàn vào cứu viện. Toàn đốc quân tiến đến Thạch Hà, sai Nhiêu và Dương Hồ tiến lên đóng ở Đại Nại và Hương Bộc, Văn Thiêm tiến lên cửa Châu Nhai (cửa khẩu sông Lam). Hữu Dật sai Nguyễn Cửu Kiều một lần nữa đánh tan Văn Thiêm, Thiêm lại bỏ chạy. Dật sang bờ sông Lam hợp binh với Kiều kéo đến Đại Nại. Quân bộ của Hữu Tiến đánh Nhiêu ở Hương Bộc, Trịnh Toàn mang quân đến cứu, đánh bại quân Nguyễn. Sau đó Toàn lại sang đánh quân Nguyễn ở Đại Nại, giết chết Cửu Kiều, quân Nguyễn thua to, chạy về Hà Trung. Toàn và Nhiêu cùng đuổi đến Tam Lộng lại bị Tiến và Dật đánh bại, phải rút về An Trường.

Trịnh mô tả trận này quân Trịnh thắng lớn, ngược lại sách Đại Nam thực lục tiền biên của nhà Nguyễn Sách Việt Nam sử lược mô tả trận này hai bên có thắng có thua, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của Lê - soạn sau này lại mô tả trận này quân Nguyễn thắng. Các nhà nghiên cứu thống nhất với Việt Nam sử lược rằng hai bên có thắng có thua: sau trận thắng đầu quân Trịnh bị thua, nếu không đang đà thắng lợi phải tiến lên chứ không thể lui về giữ An Trường.

Trịnh Tráng bệnh nặng, thế tử Trịnh Tạc cầm quyền điều hành. Thấy Trịnh Toàn rất có uy tín với quân sĩ, Trịnh Tạc lo lắng. Tạc sai con là Căn mang quân vào Nghệ An, tiếng là tăng viện nhưng để kìm chế Trịnh Toàn. Tháng 4 năm 1657, Trịnh Tráng chết, Tây Định vương Trịnh Tạc lên thay. Biết anh em chúa Trịnh bất hòa, chúa Nguyễn sai người đến dụ nhưng Toàn cự tuyệt. Chúa Trịnh cử Trịnh Căn thay Toàn làm Thống lĩnh, triệu Toàn về kinh. Thủ hạ của Toàn một số người sang với Trịnh Căn, một số hàng Nguyễn. Toàn về kinh, chúa Trịnh lấy cớ trách Toàn không chịu tang cha rồi giam vào ngục và giết đi.

Trịnh Căn lãnh binh

Tháng 6 năm 1657, Trịnh Căn chia quân sai Hoàng Thể Giao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam đánh tướng Nguyễn là Tống Hữu Đại ở huyện Thanh Chương. Do có người tiết lộ, Hữu Tiến biết trước phòng bị nên quân Trịnh bị thua rút về bờ bắc sông Lam.

Hai bên tạm hưu chiến cầm cự ở sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ. Tháng 6 năm 1658, tù trưởng Lang Công Chấn ở Quỳnh Lưu theo Nguyễn, mang quân đánh Trịnh, bị quân Trịnh đánh bại bắt được giải về Thăng Long. Tháng 7, quân Nguyễn vượt sông Lam thắng được Nguyễn Hữu Tá ở huyện Hưng Nguyên nhưng bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút về. Tháng 12, quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn. Tháng 8 năm 1660, quân Trịnh lại đánh Nghi Xuân bị bại trận.

Chiến tranh hậu phương

Trong khi ngoài mặt trận diễn ra các trận đánh lẻ tẻ thì phía trong mỗi bên đều lo củng cố hậu phương. Hữu Dật nhân lúc ngưng chiến tung gián điệp ra bắc dụ Phạm Hữu Lễ trấn thủ Sơn Tây, Văn Dũ trấn thủ Hải Dương làm phản Trịnh, lại hẹn họ Vũ ở Tuyên Quang và họ Mạc ở Cao Bằng cùng nổi dậy. Tuy nhiên do lực lượng các cánh này đều yếu, nhất là hai cánh Vũ, Mạc đều có ý đồ riêng. Tất cả có ý chờ quân Nguyễn vượt sông Lam, bắc tiến thật gấp mới ra mặt. Trong khi đó, quân Nguyễn cũng không hùng hậu, đi đánh xa lâu ngày đã mệt, cũng có ý chờ miền bắc có biến mới dám đánh lớn. Hai bên dùng dằng chờ nhau. Chúa Trịnh biết Hữu Lễ thông đồng với Nguyễn bèn dụ và giết chết. Ngoài biên cương, Trịnh Căn cũng cầm quân rất nghiêm, xử tử tướng Hoàng Nghĩa Chấn vì đố kỵ không tiếp ứng cho Đào Quang Nhiêu, sau đó lại giết Nguyễn Đức Dương vì bán trộm lương cho quân Nguyễn. Bên kia, Hữu Dật cũng giết hàng tướng Phạm Tất Toàn vì có ý về bắc.

Các tướng Nguyễn nảy sinh mâu thuẫn. Hữu Tiến và thuộc tướng ghét Hữu Dật vì Dật được chúa Nguyễn tin yêu hơn. Trịnh Căn nhân đó sai người mang vàng đến dụ nhưng Dật không nghe, báo hết cho chúa Nguyễn biết.

Trịnh Căn thu hồi đất cũ

Tháng 9 năm 1660, Trịnh Căn chia quân, sai Hoàng Nghĩa Giao và Lê Thì Hiến đang đêm vượt sông Lam đánh Lận Sơn. Cánh quân của Giao đến Lận Sơn bị Nguyễn Hữu Dật vây ngặt, mấy thuộc tướng tử trận. Trịnh Căn thấy vậy mang quân bộ đến cứu Giao, lại điều quân thủy tiến lên áp sát quân Nguyễn mà bắn, đánh tan Dật, Dật thua chạy về Khu Độc. Cánh quân của Thì Hiến và Mẫn Văn Liên đụng độ Nguyễn Hữu Tiến ở Tả Ao, tuy Liên bị tử trận nhưng quân Trịnh phá được lũy, đánh bại được Hữu Tiến. Tiến phải rút về Nghi Xuân.

Nguyễn Phúc Tần mang quân tiếp ứng, đóng ở Quảng Bình. Hữu Dật muốn khoe công với chúa bèn lẻn về ra mắt Tần, thuật chuyện các chiến công vừa lập ngoài mặt trận. Tần ban cho Dật thanh bảo kiếm và sai quay lại đánh tiếp. Tiến nghe tin đó càng ghét Dật. Nhân lúc quân mới hàng ở Nghệ An bỏ trốn nhiều, tướng sĩ Nguyễn đều ngã lòng, Tiến bàn rút lui, chỉ có Dật không nghe.

Chúa Trịnh tăng viện cho Trịnh Căn. Tháng 11 năm 1660, biết bên Nguyễn các tướng bất hòa, quân lại bỏ trốn, Trịnh Căn sai Lê Thì Hiến và Lê Sĩ Triệt đánh huyện Nghi Xuân, Hoàng Nghĩa Giao và Nguyễn Năng Thiệu đánh huyện Thiên Lộc, phá tan quân Nguyễn. Quân Trịnh lấy lại 7 huyện ở Nghệ An mất từ năm 1655.

Hữu Tiến thua trận buộc phải rút quân, nhưng vì ghét Dật nên giả cách hạ lệnh đánh An Trường và bí mật rút về Nam Bố Chính mà không báo cho Dật biết. Quân Trịnh đang đà thắng, sang sông đánh Khu Độc. Dật biết tin Tiến rút rồi, bèn làm nghi binh khiến quân Trịnh không dám đuổi gắt. Về đến Hoành Sơn, Dật gặp Tiến, vừa lúc Trịnh Căn thúc quân đuổi tới, hai bên giao tranh ác liệt và cùng thiệt hại lớn.

Hai bên bèn hưu chiến, Trịnh Căn lui về giữ Kỳ Hoa, Hữu Tiến giữ Nhật Lệ, Hữu Dật giữ Đông Cao. Trịnh Căn sai Đào Quang Nhiêu trấn thủ Nghệ An kiêm Bắc Bố Chính, còn mình rút về bắc.

Sau 1 năm nghỉ binh, nhân vừa thắng quân Nguyễn, tháng 10 năm 1661, Trịnh Tạc mang vua Lê Thần Tông cử đại binh vào nam, cử Trịnh Căn làm thống lĩnh cùng các tướng Hoàng Thể Giao, Đào Quang Nhiêu, Lê Thì Hiến vượt sông Gianh.Cuộc chiến thứ sáu 1661-1662

Nguyễn Hữu Dật trấn thủ Nam Bố Chính chia quân đắp lũy thế thủ, quân Trịnh đánh mấy tháng không hạ được. Tháng 3 năm 1662, quân viễn chinh mệt mỏi, lương hết, chúa Trịnh bèn rút quân về bắc. Hữu Dật đuổi theo đến sông Gianh rồi rút về.

Cuộc chiến thứ bảy 1672

Vua Thần Tông rồi Huyền Tông mất, vua Gia Tông lên ngôi. Sau khi dứt được họ Mạc ở Cao Bằng (1667), năm 1672, chúa Trịnh lại cử binh nam tiến, sai Trịnh Căn lĩnh thủy binh, Lê Thì Hiến lĩnh bộ binh.

Bên Nguyễn năm 1666 Nguyễn Hữu Tiến chết. Chúa Nguyễn cử em là Hiệp làm chủ tướng cùng Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức ra chống cự, tự chúa Nguyễn ra tiếp ứng. Quân Trịnh hăng hái đánh lũy Trấn Ninh mấy lần suýt hạ được nhưng Hữu Dật cố sức chống đỡ. Quân Trịnh đánh mãi không thắng phải rút về Bắc Bố Chính, Trịnh Căn lại bị ốm nên Trịnh Tạc rút đại quân về kinh, cử Lê Thì Hiến, Lê Sĩ Triệt ở lại trấn thủ.

Chia đôi đất nước

Trước sau trong 46 năm ròng rã, hai bên Trịnh - Nguyễn đánh nhau lớn bảy lần và một số lần đánh nhau quy mô nhỏ hơn. Chiến trường chủ yếu ở hai bờ sông Gianh, vùng Nghệ AnHà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay.

Hai bên đều có lợi thế và yếu điểm nên không thể tiêu diệt được nhau, dù cùng mang khẩu hiệu “Phù Lê”.  Sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến, chia cắt lâu dài. Sông Gianh, sử sách hay gọi là Linh Giang, trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Họ Trịnh không thể tiến vào chiếm Thuận Hóa nên tập trung diệt tàn dư nhà Mạc ở Cao Bằng (1677), dứt họ Vũ ở Tuyên Quang (1699), củng cố địa bàn Bắc Bộ. Họ Nguyễn không thể ra Thăng Long nên dồn sức diệt Chiêm Thành, lấn sang Chân Lạp để mở mang bờ cõi vốn nhỏ hẹp về phía nam. Hai bên đều có những chúa cai trị giỏi nên ổn định được lãnh thổ suốt hơn 100 năm.

Cuộc chiến thứ 8, cuộc chiến cuối cùng

Quân Trịnh lại nam tiến

Một trăm năm sau khi đình chiến, một biến cố lớn ở Đàng Trong làm xáo trộn cả Nam Hà lẫn Bắc Hà.

Ba anh em Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa nhân lúc chính quyền họ Nguyễn lục đục rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Khi thủ lĩnh Tây Sơn là Nguyễn Nhạc làm chủ được Nam Trung Bộ thì họ Trịnh nhận thấy thời cơ tiêu diệt họ Nguyễn đã đến.

Đầu tiên dùng danh nghĩa đánh Tây Sơn giúp Nguyễn, tháng 9 âm lịch năm 1774, chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cử lão tướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc làm Bình nam thượng tướng quân, Bùi Thế Đạt làm phó tướng mang 36.000 quân nam tiến.

Quân Trịnh tiến tới địa giới Bắc Bố Chính, tướng Nguyễn là Trần Giai chạy sang đầu hàng, làm hướng đạo cho quân Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc vượt sông Gianh. Chúa Nguyễn biết ý Trịnh muốn đánh chiếm nên điều quân kháng cự.

Quận Việp đánh chiếm Phú Xuân

Được sứ giả họ Nguyễn là Kiêm Long gợi ý, Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể tiến đánh lũy Trấn Ninh. Các tướng Nguyễn làm nội ứng mở cửa đầu hàng. Quân Trịnh chiếm được Quảng Bình.

Tháng 11 năm 1774, Trịnh Sâm tự cầm thủy quân vào Nghệ An làm thanh viện cho quận Việp. Quận Việp đánh Lưu Đồn, thống suất bên Nguyễn là Tống Hữu Trường bỏ chạy. Quận Việp tiến đến Hồ Xá dùng chiêu bài khác, lấy cớ trừng phạt Trương Phúc Loan chuyên quyền để nam tiến tiếp.

Quân Nguyễn yếu thế không chống nổi, Định vương Nguyễn Phúc Thuần phải trói Trương Phúc Loan nộp quân Trịnh. Giết Loan rồi, Hoàng Ngũ Phúc lại dùng lý do giúp Nguyễn đánh Tây Sơn để tiến vào Phú Xuân hội binh. Chúa Nguyễn sai các tướng trá hàng để quấy rối Quảng Bình, Bố Chính sau lưng quân Trịnh, nhưng các cánh quân đó bị quân Trịnh nhanh chóng phá tan. Chúa Nguyễn điều Tôn Thất Chí, Nguyễn Văn Chính ra đánh đều bị quận Việp đánh bại. Quận Việp sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Nghĩa Phác theo đường núi qua thác Trầm Ma đánh tan quân Nguyễn, giết chết Nguyễn Văn Chính.

Đầu năm 1775 quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa Nguyễn không chống nổi phải bỏ chạy vào Quảng Nam. Quân Trịnh chiếm toàn bộ Thuận Hóa.

Tây Sơn hàng Trịnh

Nguyễn Nhạc nhân chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam bèn mang quân hai đường thủy bộ ra đánh. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, để lại Nguyễn Phúc Dương.

Tháng 2 năm 1775, Trịnh Sâm từ Hà Trung trở về kinh, hạ lệnh cho quận Việp đánh Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Phúc Dương. Tháng 4, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn.

Nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, tướng Nguyễn là Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang đánh ra Phú Yên, quân Tây Sơn lại thua phải co về Quy Nhơn. Tình thế của Nguyễn Nhạc rất nguy ngập, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Quân Trịnh đi xa bấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc, ấn, cờ đến phong Nguyễn Nhạc làm “Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân”.

Dù thế, quận Việp lão luyện vẫn không lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, định chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Nhân lúc Tây Sơn mang quân vào đánh Phú Yên, quận Việp liền lấn tới đóng quân ở Chu Ổ thuộc Quảng Ngãi.

Thịnh quá hóa suy, suy quá lại thịnh

Tháng 7 năm 1775, nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên, quận Việp án binh lại. Theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, quận Việp phong chức cho Nguyễn Huệ làm “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”.  Ít lâu sau, quân Trịnh bị bệnh dịch chết khá nhiều, quận Việp tuổi già sức yếu bèn bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân, sau đó giao lại thành này cho Bùi Thế Đạt, còn mình dẫn đại quân về bắc. Tháng 10 năm đó, quận Việp bị bệnh chết trên đường về.

Lần đầu tiên sau 150 năm nam chinh, họ Trịnh tiến tới Quảng Nam, mở cương thổ cho vua Lê thời trung hưng tới gần được như thời Lê Thánh Tông của Lê sơ trước đây. Cũng lần đầu tiên họ Nguyễn mất toàn bộ đất căn bản Thuận - Quảng, bị dồn vào Nam Bộ, mảnh đất họ Nguyễn đã đặt bộ máy hành chính của mình chưa đầy 100 năm.

Cuộc nam tiến lần thứ 8 năm 1774 - 1775 của quân Trịnh cũng là trận chiến Trịnh - Nguyễn cuối cùng. Từ đây hai bên bị địa bàn của Tây Sơn ngăn cách và không còn tái chiến. Sau 8 cuộc chiến vẫn không bên nào diệt được bên nào nhưng không lâu sau đó cả Trịnh và Nguyễn đều bại dưới tay Tây Sơn.

Sau trận 1774, lãnh thổ họ Trịnh quản lý phát triển đến cực thịnh. Nhưng sau khi quận Việp chết, phía Trịnh từ chúa đến quân đều có ý tận hưởng chiến thắng, lơ là phòng bị biên cương phía nam. Chỉ hơn 10 năm sau thắng lợi ở Phú Xuân, chính kinh thành Thăng Long của họ Trịnh bị thất thủ và họ Trịnh mất theo. Trong khi đó, sau khi bị đánh bật khỏi mảnh đất cuối cùng là Nam Bộ phải đi lưu vong, họ Nguyễn đã trở về và khôi phục lại lãnh thổ. Cuối cùng vì những biến cố có lợi, họ Nguyễn trở thành người cai trị cả nước. (http://vi.wikipedia.org/)

8.2. Nguyễn Cứu Kiều

Nguyễn Cứu Kiều (1599 -1657)

- Trấn Thủ phó tướng, Chưởng dinh Phò mã Nghĩa Lâm Hầu - Đặc Tấn Phủ quốc Thượng tướng quân - Tả quân Đô đốc phủ - Tả Đô đốc Nguyễn Quận Công (Thụy Liêm Cần).

- Ngài là con trưởng của Đặc Tấn phủ quốc Thượng tướng quân Quản Quận công Nguyễn Quảng, sinh ngày 18 tháng Giêng năm Kỷ Hợi đời Lê Thế Tông năm Quang hưng thứ 22.

Ban đầu ở Thanh Hóa, năm thứ 10 Hy Tông Hiếu Văn hoàng đế (Nguyễn Phúc Nguyên) ông vừa 25 tuổi. Nhận lời ký thác của bà Phi họ Trịnh là Nguyễn Thị Ngọc Tú (con gái thứ 2 của Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế) để phò ấn về Nam. Ông cải trang làm khách đi đá gà chạy đến sông Gianh, không có thuyền qua sông, phía sau quân Bắc đuổi gấp ông thầm cầu thà chết chớ không để quân kia bắt. Bỗng thấy một con trâu bên bờ bèn cỡi qua sông. Qua đến bờ nam trâu bỗng không thấy nữa. Theo truyền thuyết từ đó con cháu Nguyễn Cửu Kiều không được ăn thịt trâu.

Đến Quảng Bình, ông gặp Chiêu quận công Nguyễn Hữu Dật là người bà con cô cậu dẫn ông đến gặp Chúa. Ông lập được nhiều chiến công đã cùng các tướng Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đánh đuổi quân Trịnh, được Chúa tin dùng và gả công chúa Nguyễn Thị Ngọc Đĩnh, con thứ tư của Nguyễn Phúc Nguyên. Ông mất ngày 25/5 thọ 58 tuổi, mộ chôn tại núi Bạch Thạch (Đá Bạc) phường Sơn, huyện Phú Vinh (nay là Phú Lộc) tỉnh Thừa Thiên. Được tặng: Đặc Tấn Phủ Quốc Thượng Tướng Quân Tả Quân Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc Nghĩa Quận Công.

Theo sắc chỉ của Vua, lập nhà thờ ở xã Vân Dương lại ban cho 50 người thuộc phường Phú Long xã Bạch Thạch làm phủ thờ tự. Từ đó về sau đời đời truyền lại: Tế tự không dùng trâu, ngày sau con cháu cấm ăn thịt trâu để nhớ ơn trâu thần. Đến đời vua Tự Đức năm thứ 3 họ Nguyễn Cửu được nhà Vua tặng 4 chữ: “NHẤT MÔN TRUNG NGHĨA”.  (http://giatocnguyencuu.com).

8.3. Nguyễn Hữu Dật

Nguyễn Hữu Dật (chữ Hán: 阮有鎰, 1603-1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ hầu. Sau khi mất, ông được nhân dân ở Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá.

Theo phả hệ họ Nguyễn, Nguyễn Hữu Dật là cháu 18 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà Đinh, và là cháu 8 đời của công thần Nguyễn Trãi nhà Hậu Lê. Cũng theo phả hệ này thì chi của Nguyễn Hữu Dật và chi chúa Nguyễn (Nguyễn KimNguyễn Hoàng) đều là con cháu Nguyễn Trãi, nhưng chi của ông Dật là chi trên.

Do dòng họ Nguyễn Trãi bị tản mát sau Vụ án Lệ Chi Viên và loạn lạc thời Nam Bắc triều, nên tổ tiên Nguyễn Hữu Dật đã lưu trú ở nhiều nơi: Ninh BìnhHải DươngHà ĐôngThanh Hóa...

Nguyễn Hữu Dật sinh tại Thăng Long. Cha ông là Nguyễn Triều Văn, tước Triều Văn hầu, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1609 và chính thức định cư tại huyện Phong Lộc tỉnh Quảng Bình.

Từ nhỏ, Nguyễn Hữu Dật đã tỏ ra là người thông minh lanh lợi. Được dạy dỗ từ nhỏ, năm 16 tuổi Hữu Dật đã sớm bộc lộ tài năng cả văn lẫn võ, thi đỗ khoá thi Hoa văn do chúa Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức, rồi được bổ vào chức Tham cơ vụ. Nguyễn Hữu Dật cũng tỏ ra là người nhiều cơ mưu, đã dâng nhiều mẹo hay cho chúa Nguyễn đánh lui các đợt tấn công của quân Trịnh.

Năm 1627, chúa Trịnh Tráng mang quân nam tiến lần thứ nhất. Nguyễn Hữu Dật được làm chức Giám chiến, cùng tướng Phúc Vệ mang quân ra đóng ở nam sông Gianh. Khi hai bên đang giằng co, ông sai người phao tin phía bắc Trịnh Gia, Trịnh Nhạc sắp dấy loạn. Trịnh Tráng nghi ngờ trong họ sinh biến nên hạ lệnh rút quân về.

Năm 1631, ông theo Đào Duy Từ đắp lũy Nhật Lệ (tục gọi là lũy Thầy), một chiến lũy quan trọng giúp quân Nguyễn, vốn có lực lượng mỏng hơn, cầm cự được với quân Trịnh trong các cuộc giao tranh. Năm 1634, Đào Duy Từ mất, Nguyễn Hữu Dật tiếp tục trùng tu lũy Thầy và lũy Trường Dục. Ông tiếp tục xây dựng thêm lũy Động Cát (tức lũy Trường Sa) để củng cố tuyến phòng thủ.

Trận đánh nổi tiếng nhất của Nguyễn Hữu Dật là năm 1648, cả cha con ông cùng ra quân. Nguyễn Triều Văn lĩnh quân thủy, Hữu Dật lĩnh quân bộ, đánh thắng quân Trịnh một trận lớn. Ông được chúa Nguyễn thăng chức cai cơ, làm Ký lục dinh Bố Chính.

Tương truyền mỗi lần được chúa Nguyễn ban thưởng, ông thường chia cho cấp dưới, nhất là những người nghèo khó, hoặc xét theo hoàn cảnh mà ban thưởng. Bởi vậy ông rất được lòng tướng sĩ và nhân dân. Không những thế, đối với tù binh, ông cũng đối xử rất nhân hậu.

Năm 1650, Nguyễn Hữu Dật định dùng kế trá hàng chúa Trịnh, viết thư hẹn về hàng Bắc Hà. Tôn thất Tráng liền tâu chúa Nguyễn rằng ông muốn theo chúa Trịnh. Nguyễn Phúc Tần liền bắt giam ông. Trong ngục, ông viết tập thơ ‘‘Hoa Văn cáo thị’’, tỏ nỗi oan khuất. Chúa Nguyễn lại tha ông ra, sai làm tướng.

Năm 1661, ông được thăng làm chưởng cơ, trấn thủ dinh Bố Chính. Cuối năm đó con chúa Trịnh Tạc là Trịnh Căn mang quân vào đánh. Ông dùng kế “vườn không nhà trống” , sai dồn hết dân vào trong lũy nên ít bị tổn hại. Sang năm 1662, ông cùng Nguyễn Hữu Tiến lại đắp thêm lũy Trấn Ninh và lũy Sa Phụ, làm thế ỷ dốc cứu ứng lẫn nhau cả đường thủy và đường bộ. Năm 1664, Hữu Tiến bị bệnh, ông được cử làm Chưởng dinh kiêm Tiết chế đạo Lưu Đồn.

Năm 1672, chúa Trịnh Tạc tấn công lũy Trấn Ninh hàng tháng không hạ được, đành rút quân về bắc. Từ đó hai bên đình chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới.

Năm 1681, Nguyễn Hữu Dật mất tại đạo Lưu Đồn, thọ 78 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng ông là Chiêu quận công, thụy là Cần Tiết. Nhân dân quanh vùng cảm đức độ đã lập đền thờ ông ở Xóm Bến, Vạn Xuân (huyện Phong Lộc), gọi là đền Tĩnh Quốc công.

Nguyễn Hữu Dật có nhiều con, nổi tiếng nhất là Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Kính (tức Nguyễn Hữu Cảnh), cùng nối chí ông làm võ tướng phò chúa Nguyễn. Cả ba người đều có công mở mang đất Nam Trung Bộ và Nam Bộ nước Đại Việt. (https://vi.wikipedia.org)

Nguyễn Hữu Dật với hai lần xem thiên văn trước lúc xuất quân

Điều ít ai ngờ là Nguyễn Hữu Dật rất có tài xem thiên văn và chính biệt tài này đã khiến ông hai lần nổi danh trong thiên hạ. Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 4) chép rằng:

"Mùa thu, tháng 9 (năm Đinh Dậu, 1657 - ND), Nguyễn Hữu Dật đánh phá được lũy Đồng Hôn (nay thuộc Hưng Nguyên, Nghệ An - ND). Lúc bấy giờ, Trịnh Căn sai tướng là Thắng Nham (không rõ họ) đóng quân ở lũy Đồng Hôn. Nơi ấy, đất ẩm thấp, mùa thu (thường có lụt lội), vì thế mà chúng sợ ta đánh úp, bèn bàn nhau dời đồn đến ở phía dưới Núi Đất. Thám tử của ta biết được, báo cho Hữu Dật biết. Hữu Dật nói với Hữu Tiến (tức Nguyễn Hữu Tiến, người đang giữ chức Tiết chế quân đội của Đàng Trong đi đánh Nghệ An - ND) rằng:

- Tôi đã suy tính kĩ. Ngày 25 này là ngày Quý Hợi, ngày sao Chẩn chiếu, tất sẽ có mưa to gió lớn. Đã thế, lại có vệt khí đen chạy băng qua khu vực sao Bắc Đẩu và mây trắng che kín cung Chấn, như vậy thì ở phía Tây Bắc nhất định sẽ có lụt lội. Ta nếu biết phân đó mà đánh đồn của Thắng Nham thì sẽ chắc thắng.

Đến sau, quả đúng ngày ấy (25 tháng 9 - ND) thì mưa to gió lớn, nước sông đầy tràn. Hữu Dật đưa quân đánh thẳng vào lũy Đồng Hôn nhờ nước lụt mà thắng lớn. Thắng Nham lên Núi Đất chạy trốn. Ta thu được rất nhiều khí giới. Hữu Tiến cả mừng, nói với Hữu Dật rằng:

 - Ông tính toán cứ như thần. Hữu Dật đáp:

 - Trên nhờ uy linh của Chúa thượng, dưới thì nhờ có sức mạnh của chư tướng, chứ Hữu Dật này thì tài cán gì ?"

. …"Phạm Phượng đến chỗ đóng quân của Nguyễn Hữu Tiến và nói: - Năm ngoái (năm 1657 - ND), tướng Trịnh là Thắng Nham giữ lũy Đồng Hôn, bị Đốc chiến (tức Nguyễn Hữu Dật - ND) đánh thua, Trịnh Căn sai tướng giữ chức Tham đốc là Vân Khả (không rõ họ) đến lãnh quân thay giữ. Vân Khả là kẻ tham lam bạo ngược, vậy, xin mau định kế để đánh. (Nguyễn) Hữu Tiến sai (Phạm) Phượng đến nói với Nguyễn Hữu Dật. Hữu Dật mừng mà nói rằng:

- Ta vừa xem thiên văn, thấy mây đen che khuất sao Khôi. Đến ngày 11 tháng này (11 tháng 9 năm 1658 - ND) là ngày Mậu Thìn, ngày của lục long (ngày của sáu con rồng cùng làm việc nên mưa nhiều - ND) cho nên sẽ có mưa lũ, nếu ta nhân nước lũ mà đánh thì tất thắng. Nói rồi, ông hẹn với Hữu Tiến cùng hội quân. Đến ngày đó, quả có mưa to. Hữu Dật đem quân đến đánh lũy Đồng Hôn trước. Quân Trịnh sợ hãi tan vỡ, Vân Khả trốn về An Trường. Hữu Dật rút quân về. Trịnh Căn lại sai tướng là Miện (không rõ họ, bấy giờ thường gọi là Quận công), đến giữ lũy Đồng Hôn". (Quehuongonline.Vn 13/01/2014)

8.4. Nguyễn Hữu Tiến

Nguyễn Hữu Tiến (chữ Hán:阮有進, 1602-1666), là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Hữu Tiến sinh năm Nhâm Dần (1602) tại làng Văn Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa (nay là huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa). Sau, ông di cư vào ở huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định.

Đầu quân chúa Nguyễn

Năm Tân Mùi (1631), Nguyễn Hữu Tiến xin vào gặp Nội tán Đào Duy Từ. Nhận thấy ông là người thông minh có chí lớn, nên vị đại thần này đã tiến cử ông lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) và gả con gái cho.

Buổi đầu, Nguyễn Hữu Tiến giữ chức đội trưởng trong đội thủy quân, rồi lần trải các chức: cai đội, chưởng cơ, chưởng dinh tiết chế...

Đánh nhau với quân Trịnh

Trong bảy lần quân Trịnh và quân Nguyễn đánh nhau, theo sử liệu thì Nguyễn Hữu Tiến đã cầm quân ra trận hai lần, đó là vào năm 1648 (lần thứ tư) và năm 1655-1660 (lần thứ 5).

* Lần thứ tư (1648)

Tháng giêng năm Mậu Tý (1648), chúa Trịnh Tráng sai tướng đem quân thủy bộ vào đánh vào cửa Nhật Lệ, tiến sát dinh Quảng Bình. Chúa Nguyễn Phúc Lan (tức Chúa Thượng) liền sai con là Thế tử Nguyễn Phúc Tần đem đại binh đi chống giữ.

Sau khi họp bàn và nhận sự phân công, vào lúc canh năm (tức từ 3 giờ đến 5 giờ sáng), Nguyễn Hữu Tiến đem khoảng trăm con voi chiến xông thẳng vào dinh quân Trịnh, còn Nguyễn Phúc Tần thì chỉ huy các đạo quân bộ tiến theo sau. Hai bên giáp chiến ác liệt, cuối cùng quân Trịnh bị thua to phải tháo chạy về đất Bắc.

Ngoài số bị giết tại trận, bên chúa Trịnh còn bị bắt sống khoảng 3 vạn quân cùng mấy viên tướng. Trận này, được sử nhà Nguyễn khen là "võ công bậc nhất” của quân Nguyễn trong suốt thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh.

* Lần thứ năm (1655-1660)

Năm Ất Tỵ (1655), quân Trịnh lại kéo vào quấy phá Nam Bố Chính. Bấy giờ, chúa Nguyễn Phúc Tần (tức Chúa Hiền) mới quyết ý cho quân qua sông biên giới (tức sông Gianh) đánh đuổi quân Trịnh. Đây là lần đánh nhau lâu nhất (1655-1660) và do quân Nguyễn chủ động tấn công.

Theo sử liệu thì dưới tài chỉ huy của Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến (lúc này đã được phong tước Thuận Nghĩa hầu) và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn đã đánh thắng quân Trịnh nhiều trận ở: Hà Trung, Lạc Xuyên, Tiếp Vũ, Mẫn Tường, Nam Giới, Châu Nhai, Tam Lộng, Đại Nại...Sau các trận này, quân Nguyễn làm chủ được 7 huyện ở phía nam sông Lam.

Tháng 5 năm Đinh Sửu (1657), chúa Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo đi tấn công quân Nguyễn ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương). Nhờ hay trước, tướng Nguyễn Hữu Tiến đã lập kế đẩy lui được quân Trịnh. Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam, thỉnh thoảng đánh nhau một trận.

Nhưng đến tháng 10 năm Canh Tý (1660), thì quân Nguyễn thua to, vì sự bất hòa giữa Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật. Lược kể theo sách Việt Nam sử lược:

Sau khi Nguyễn Hữu Tiến biết việc Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, trong bụng lấy làm không bằng lòng. Bấy giờ, nhân có những sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bàn xem nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật là không chịu.

Khi các tướng Nguyễn đang bàn bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn đã cất quân tiến đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu, quân Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lệnh cho các tướng rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nửa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thám về nói mới biết quân mình đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành Sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Khi ấy, quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều...

Sau trận này, Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ, Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng Lam Giang lại thuộc về Đàng Ngoài.

Qua đời

Tháng 6 năm Giáp Thìn (1664), Nguyễn Hữu Tiến ốm nặng, đến tháng 7 năm Bính Ngọ (1666) thì qua đời tại quân thứ, được triều đình truy tặng tước Tiết chế Thuận Quận công. Đời vua Gia Long, ông được thờ trong Thái Miếu. Đến đời vua Minh Mạng, ông được truy tặng tước Anh Quốc công và được thờ trong Võ Miếu.

Trong sách Quốc triều tiền biên toát yếu có đoạn khen ngợi ông, lược trích như sau:

(Nguyễn Hữu) Tiến nhiều lần lập chiến công, được Ngài (Chúa Hiền) khen là Hổ tướng, còn người Bắc Hà thì gọi ông là Hổ Uy đại tướng. Ông cùng với (Nguyễn Hữu) Dật đều là Công thần khai quốc. (https://vi.wikipedia.org)

Theo Baobinhdinh.com.vn 17/10/2003: Nguyễn Hữu Tiến sanh năm Nhâm Dần (1602) tại huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn (huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định).

Tổ tiên ông gốc ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cha mất sớm, nhà nghèo mà có chí lớn, tính thâm trầm cương quyết. Còn mẹ già nên phải làm thuê nuôi mẹ. Tự học văn chương, tìm thầy học võ ngày đêm, chuyên chú rèn văn luyện võ.

Năm Tân Mùi (1631), ông được Đào Duy Từ tiến cử lên chúa Sãi. Cuốn Đại Nam Tiền Biên Liệt Truyện có chép việc ông đến gặp quan Nội tán:

"Ông Đào Duy Từ mộng thấy con cọp đen từ phía Nam đến, ông bảo quân lính vây bắt, con cọp ấy lại sinh ra hai cánh bay lên không trung. Sáng ngày, ông chỉnh đốn áo khăn ra ngồi giữa công đường, thấy có người từ phía Nam đến đứng dưới thềm, mình mặc đồ đen, tay cầm quạt lông, tướng mạo phi thường, ông hỏi họ tên, biết là Nguyễn Hữu Tiến, ông mời vào nói chuyện, thấy người có kiến thức, ông tiến cử lên triều".

Chúa Nguyễn dùng ông trong quân đội, lập được nhiều chiến công. Trong sách Nhân vật Bình Định của Lộc Xuyên Đặng Quí Địch có đoạn nói về chiến công của ông rất đầy đủ:

- Năm mậu Tý (1648), quân Trịnh vào xâm lấn, bộ binh đánh Nam Bố Chánh, thủy binh tiến vào cửa Nhật Lệ, cả hai đạo quân đặt dưới quyền điều khiển của Đô Đốc Lê Văn Hiểu.

Trước sức tấn công như vũ bão của Bắc quân, cha con Trương Phúc Tấn chỉ còn biết dựa vào thế kiên cố của Lũy Trường Dục, cố thủ đợi cứu binh.

Được tin cấp báo, Chúa Thượng (tức Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan, 1635-1648) vội sai con là Nguyễn Phúc Tần kéo quân ra chống giữ.

Khi quân đến Quảng Bình, Nguyễn Phúc Tần một mặt cho thủy quân phục sẵn tại sông Cẩm La để chặn đường rút của địch. Một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến dẫn 100 thớt voi đang đêm đánh thốc vào trại địch.

Nguyễn Hữu Tiến gan dạ phi thường, ông đốc thúc đội tượng quân xông xáo vào trại địch như vào chỗ không người, mở đường cho bộ binh chúa Nguyễn tiến lên công kích. Quân Trịnh chống không nổi, thua to. Tàn quân kéo chạy về Bắc lại gặp quân thủy của chúa Nguyễn đón đánh, đuổi mãi đến sông Lam Giang mới thôi. Trận ấy quân Nguyễn bắt được hơn 10 viên tướng và 30.000 quân họ Trịnh. Điểm công các tướng, Nguyễn Hữu Tiến đứng đầu.

Sau chiến thắng này, ông được chúa Hiền (tức Dũng Quận Công Nguyễn Phúc Tần, 1648-1687) phong tước Thuận Nghĩa Hầu.

Tháng 4 năm Ất Mùi (1655), chúa Hiền sai ông cùng Chiêu Vũ Hầu, Nguyễn Hữu Dật dẫn quân vượt Linh Giang đánh Bắc Bố Chánh, tướng Trịnh là Phạm Tất Toàn ra hàng.

Thừa thắng, quân Nguyễn tiến đánh đồn Hà Trung, quân Trịnh thua to, bỏ chạy về An Tường. Đô đốc Lê Văn Hiểu bị thương, bị mất binh quyền, rồi bị triệu hồi. Hiểu chết trên đường về kinh. Trịnh Trượng được cử làm Thống lĩnh Kinh Lược đất Nghệ An, thay Hiểu chỉ huy Bắc quân.

Được tin, Trượng cho bộ binh tiến vào Kỳ Hoa, thủy quân đóng ở cửa Kỳ La, ông bỏ Hà Trung rút quân về Linh Giang để dụ địch. Thấy Trượng không dám đuổi theo, ông cho quân quay trở lại đánh thẳng vào Lạc Xuyên. Còn Nguyễn Hữu Dật thì đem thủy quân đánh cửa Kỳ La, phá tan thủy trại địch, đuổi quân Trịnh chạy về cửa Châu Nhai, rồi hiệp binh cùng ông chiếm giữ đồn Lạc Xuyên. Quân Trịnh thua chạy về An Trường. Vì tội bại binh, Trịnh Trượng bị giáng chức, phải giao binh quyền cho Trịnh Tạc, con của Thanh đô Vương Trịnh Tráng.

Từ ấy, bảy huyện phía Nam sông Lam Giang (sông Cả bây giờ) là Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn và Thanh Chương đều thuộc về chúa Nguyễn. Ông cùng Nguyễn Hữu Dật chia binh đóng giữa các nơi hiểm yếu, vừa cầm cự với quân Trịnh, vừa cai trị đất mới chiếm.

Vừa bắt tay vào việc cai trị, ông đã gặp phải nhiều khó khăn, bởi ông không hội đủ hai yếu tố địa lợi và nhân hòa.

Thật vậy, ông đã đưa quân vào sâu trong đất địch, cách xa các căn cứ hậu cần, muốn gọi thêm viện binh hay tiếp tế lương thực không phải là chuyện dễ dàng. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh ư? Ông đã cho thu nạp hàng binh và cho tuyển lính địa phương, nhưng số tân binh nầy không khiển dụng được, bởi vì khi lâm trận thì họ tìm cách đào ngũ để vào làng hoặc trốn theo quân địch. Thu thuế nặng thì dân oán ghét, bất hợp tác hoặc làm nội tuyến cho địch. Thì ra quân bẩy huyện chính là dân thang mộc ấp của vua Lê, chúa Trịnh. Tuy ông khéo dùng chiêu bài "Phò Lê diệt Trịnh” để thu phục họ nhưng đã từ lâu họ chịu ơn mưa móc của triều đình lẫn Phủ Liêu thì bây giờ lòng họ hướng về Thuận Hóa sao được?

Tình thế bất lợi như vậy mà ông đã giữ vững bẩy huyện, vỗ an dân chúng, cai trị họ được những hơn sáu năm. Điều đó cho ta thấy ông chẳng những là một bậc danh tướng mà còn là một nhà chính trị có tài.

Đến mùa thu năm Canh Tý (1660), nhân việc Nguyễn Hữu Dật "vì quân nhu thiếu thốn đã hạ mộc bài thu tiền của dân, khiến nhân tình náo động” lòng người bỏ Nguyễn về Trịnh. Trịnh Căn dẫn quân vào đánh, lính Nghệ đào ngũ, quân Nguyễn thua luôn mấy trận, ông đành bỏ bảy huyện rút quân về Nam.

Năm Nhâm Dần (1662), ông cùng Nguyễn Hữu Dật đốc xuất dân binh đắp lũy Trấn Ninh ròng rã trong mấy tháng thì xong. Từ đó việc biên phòng rất vững vàng.

Năm Bính Ngọ (1666), ông mắc bệnh qua đời. Thọ 65 tuổi.

8.5. Tôn Thất Hiệp

Tôn Thất Hiệp (chữ Hán: 尊室協, 1653-1675), tên thật là Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phúc Chiểu, sau vì kỵ húy nên đổi là Hiệp; là con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, là Nguyên soái trong trận đánh nhau với quân Trịnh vào năm 1673, và là nhà sư trụ trì chùa Minh Thiện thuộc dinh Thái Khang, nước Đại Việt (nay là Việt Nam).

Thân thế và sự nghiệp

Tôn Thất Hiệp là con thứ tư của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Mẹ là bà phi Châu Thị Viên. Chưa biết ông sinh tại đâu, chỉ biết khi vừa trai tráng, ông được cử giữ chức Chưởng cơ tước Hiệp Đức hầu, nên còn được người đời gọi là công tử Hiệp Đức.

Là Nguyên soái

Vào khoảng tháng 9-10 (dương lịch) năm 1672 (Nhâm Tý), quân Trịnh đến Nam Bố Chính. Sau ba tháng dài dò xét, hăm dọa, tố cáo chúa Nguyễn không phục tùng nhà Lê; Trịnh Căn thử tấn công vào lũy Đồng Hới, rồi đưa đoàn chiến thuyền đến sông Gianh và sông Nhật Lệ để chờ đổ bộ. Biết tình thế ấy, Tôn Thất Hiệp cho đắp thêm lũy Trấn Ninh, bố trí thêm súng thần công và cấp báo với chúa Hiền.Sau khi đánh dẹp được nhà Mạc ở Cao Bằng (1667), tháng 6 dương lịch năm 1672, chúa Trịnh Tạc cử con là Trịnh Căn làm Nguyên súy cai quản thủy quân và Lê Thời Hiến (hay Lê Hiến) làm Thống suất bộ binh, đem 10 vạn quân (nhưng phao tin là 18 vạn hay hơn nữa) vào đánh chúa Nguyễn. Ngoài ra, chúa Trịnh Tạc còn hộ giá vua Lê Gia Tông khi ấy mới 12 tuổi, theo sau tiếp ứng. Khi nghe viên Trấn thủ Nam Bố Chính cấp báo, chúa Hiền liền họp triều thần chọn Nguyên soái để chỉ huy quân đội chống lại. Các tướng đồng đề nghị Tôn Thất Hiệp, vì cho rằng tuy ông còn trẻ, chưa đầy 20 tuổi, chưa từng ra trận lần nào, nhưng là người có trí dũng, đáng được giao trọng trách ấy. Chúa Hiền chấp thuận, đồng thời cử thêm Vệ úy Mai Phúc Lãnh và Ký lục Võ Phi Thừa theo giúp việc cho con.

Tháng 1 (dương lịch1673, Lê Thời Hiến xua quân tấn công lũy Trấn Ninh nhưng bị thua khiến Trịnh Tạc nổi giận, nghiêm phạt các quan quân bại trận. Được tăng cường thêm lính, Lê Thời Hiến mở cuộc tấn công thứ hai rất mãnh liệt...Chỉ trong vòng một ngày chiến đấu, lũy Trấn Ninh bị phá nhiều chỗ và đôi bên đã giằng co, chiếm qua chiếm lại từng khu vực một.

Nao lòng, tướng chúa Nguyễn tên Trương Phúc Cang (hay Cương) toan bỏ lũy, qua cố thủ bên này sông Lê Kỳ nhưng Tôn Thất Hiệp không đồng ý, và nói: "một khi quân ta rút lui, tất địch thừa thế lấn vào, vậy phải hết sức cố giữ, tôi tất đến cứu".

Sau đó, Tôn Thất Hiệp liền sai quân phi ngựa đến lũy Sa Kỳ, truyền cho lão tướng Nguyễn Hữu Dật phải tức tốc qua lũy Trấn Ninh cứu khổn. Nhận lệnh ấy, theo nhà văn Sơn Nam, thì Nguyễn Hữu Dật đã lạnh lùng trả lời rằng: "Ta chỉ lo gìn giữ lũy Sa Phụ nầy mà thôi. Ngay từ hồi đầu chiến trận, ta không được ai chia sớt trách nhiệm nào ở lũy Trấn Ninh cả. Ta không dám đi!". Câu trả lời trong giây phút bất mãn, nhưng sau đó Nguyễn Hữu Dật liền hối hận...

Nhà văn Sơn Nam kể tiếp:

Nguyễn Hữu Dật chạy nhanh lên lũy Sa Phụ, đứng quan sát thực tế của chiến trận. Bên kia sông, súng thần công nổ vang rền, khói bốc mịt trời che lấp lũy Trấn ninh. Chắc chắn Lê Thời Hiến chiếm ưu thắng và tướng sĩ Đàng Trong đang đại bại ở ngay mặt trận chánh. Ông dư hiểu: "Nếu mình không đi cứu viện thì Tôn Thất Hiệp phải đi cứu viện, và liệu vị nguyên soái quá trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm ấy có đủ sức ứng phó?"

Nghĩ vậy, Hữu Dật tức tốc lên yên, kéo quân đến Trấn Ninh, dọc đường, ông cẩn thận vạt vỏ viết vào thân cây mấy chữ tóm tắt: "Hữu Dật đã qua cứu viện lũy Trấn Ninh, xin Công tử (Tôn Thất Hiệp) đến giữ lũy Sa Phụ đang bỏ trống". Đọc tin ấy, Tôn Thất Hiệp qua giữ lũy Sa Phụ và rồi đánh tan được đội thuyền tuần tiễu trên sông Nhật Lệ của Tham đốc Thắng.

Ở mặt trận Trấn Ninh, khi lão tướng đến được nơi ấy thì trời đã tối đen như mực. Trước cảnh binh sĩ lớp chết, lớp bị thương, số còn lại chiến đấu gần như tuyệt vọng, ông ra lệnh gom nhánh cây, cỏ khô, đốt lên sáng rực. Biết có viện binh đến, quân Trịnh không dám tiến. Suốt đêm, Hữu Dật đốc suất quân sĩ tích cực sửa chữa chiến lũy, nhưng trời vừa rạng sáng, Lê Thời Hiến lại tấn công. Quân sĩ Đàng Trong chống trả quyết liệt, cho nên con số thương vong của cả hai phía đều tăng lên từng ngày. Lại gặp lúc gíó bấc thổi mạnh, mưa phùn lê thê, lạnh lẽo hơn bao giờ hết, chúa Trịnh Tạc tự xét thấy không thể thắng nổi, nên cho rút quân về....

Sử gia Trần Trọng Kim cho biết thêm:

Đến tháng Chạp, trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang (tức sông Gianh) phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh Giang mà phân giới hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long

Làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài chết trận, thả tù binh xong; tháng 4 dương lịch 1673, Tôn Thất Hiệp về đến Thạch Xá. Chúa Hiền mừng rỡ, khen ngợi, ban thưởng nhiều vàng bạc. Nhận thưởng, nhưng sau đó Tôn Thất Hiệp từ bỏ gia đình, quyết chí xuất gia, tuy mới 20 tuổi. Sách Đại Nam nhất thống chí', chép:

...Chúa thượng nghe tin thắng trận, thưởng cho 100 lạng vàng, 100 lạng bạc và 50 tấm gấm. Sau khi đem quân về, Hiệp bỏ hết nữ sắc, dựng am nhỏ thờ Phật, giảng bàn nghĩa lý huyền vi"...

Là nhà sư

Nhà văn Sơn Nam kể:

Khi chỉ huy chiến trận, ông hoàng Hiệp sống khắc khổ, ngồi trong trại, chỉ có hai vệ sĩ túc trực bên cạnh. Lần nọ, một lão già ở Quảng Bình tên Bật Nghĩa đến trại với ý định "tiến” cho ông một thiếu nữ xinh đẹp. Tuy từ chối nhưng ông không quên cấp cho lão già 10 quan tiền, vì hiểu rằng người cha nọ hành động như vậy chỉ vì quá túng thiếu cơm áo ở thời loạn.

Sách Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng kể:

Quận Hiệp Nguyễn Phước Chiểu, từ sau cuộc chiến tranh năm Nhâm Tý (1672) kéo quân về Nam (Phú Xuân), trong lòng mộ đạo Phật, đi du lãm không sót một danh lam thắng cảnh nào. Quận Hiệp dựng một tòa am nhỏ tại xã Khách Quán, ở một mình ăn chay, thường đốt hương, tụng kinh niệm Phật

Viên tịch

Ông hoàng Hiệp liễu đạo năm 22 tuổi, vào ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão, an táng ở làng Hiền Sĩ, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, có lẽ không lưu lại một bút tích, một bài thơ truyền khẩu nào. Nhưng hậu thế tưởng còn nhận được hình bóng bất diệt của ông qua nụ tười phảng phất trên môi của các tượng Bồ Tát trong chùa, giữa tiếng kệ kinh....

Sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong cho biết thêm:

Theo tài liệu của chùa Minh Thiện ở núi Bút Sơn, làng Thanh Tuyền, phía Tây dinh Thái Khang (sau chùa dời về ở xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) thì chính Tôn Thất Hiệp, là Tổ khai sơn chùa Minh Thiện và khi ấy ông có pháp danh là Giác Sanh Thiền Hòa Tử.

Sau thời gian hoằng hóa ở chùa này, ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão (ngày 6 tháng 8 năm 1675), nhà sư Giác Sanh Thiền Hòa Tử viên tịch, được chúa Hiền ban thụy hiệu là Tịnh Đức Phổ Chiếu Hòa thượng.

Theo Gia phả Nguyễn Phước tộc, thì Tôn Thất Hiệp mất vì bệnh đậu mùa. Thương tiếc, chúa Hiền phong tặng ông là: "Minh Nghĩa Tuyên Đức, Công Thần, Khai Phủ Quốc Thượng tướng Quân, Cẩm Y Vệ, Đô Đốc Phủ Sự, Thiếu úy Hiệp Quận Công", thụy là Toàn Tiết. Nhà thờ ở làng Vân Thê (Thừa Thiên), mộ táng trong khuôn viên nhà thờ.

Năm Gia Long thứ 4 (1805), ông được liệt vào hàng thượng đẳng công thần khai quốc, được thờ phụ ở Tả Vu nhà Thái Miếu (Huế). Đến năm Minh Mạng (1823) thứ 4 được tấn phong là Thành Quốc công. Theo Đại Nam nhất thống chí, nguồn đã dẫn. (https://vi.wikipedia.org)

8.6. Nguyễn Quỳnh

Nguyễn Quỳnh (1677-1748) là một danh sĩ thời Lê-Trịnh (vua Lê Hiển Tông), từng thi đỗ Hương Cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên.

Ông còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, thụy Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thân sinh ông là ông Nguyễn Bổng và bà Nguyễn Thị Hương.

Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử Giám). Năm 1696, Quỳnh thi đỗ Giải nguyên, nhưng đi thi Hội nhiều lần bị hỏng.

Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long. Năm 1718, đỗ khoa Sỹ vọng được bổ làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm.

Tuy không đỗ cao, Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Đương thời đã có câu: "Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam” (nghĩa là thiên hạ không có người thứ ba giỏi như hai ông).

Sách "Nam Thiên lịch đại tư lược sử” đã nhận xét về ông: "... Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước...".

Tác phẩm còn lại của Nguyễn Quỳnh, gồm một số bài ký, văn tế mẹ, văn khóc em (vốn tài hoa, nhưng chết yểu ở tuổi 14) và hai bài phú chép trong tập: "Lịch triều danh phú". Lịch triều danh phú là tuyển tập của các danh sĩ thời bấy giờ, tất cả đều đỗ đại khoa, chỉ có hai người đỗ Hương cống là Nguyễn Quỳnh và Đặng Trần Côn.

Tương truyền ông là bạn thơ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.

Do tính cách trào phúng nên dân gian thường đồng hóa ông vào nhân vật Trạng Quỳnh - một ông Trạng dân gian nổi tiếng với tính trào lộng.

Để tôn vinh ông, nhà nước Việt Nam đã cho xây dựng nhà lưu niệm Trạng Quỳnh tại quê hương ông. (https://vi.wikipedia.org/)

8.7. Nguyễn Nghiễm

Nguyễn Nghiễm (14 tháng 4, 1708 - 7 tháng 1, 1776) là quan chức, sử gia, nhà thơ thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công ổn định tình hình Bắc Hà và tham gia chiến dịch đánh chiếm Phú Xuân của Đàng Trong năm 1774-1775.

Nguyễn Nghiễm (阮儼) tự Hy Di(希思), tôn húy Thiều(玿), hiệu Nghi Hiên (毅軒), biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ (鴻魚居士), sinh ngày 14 tháng 3 âm lịch năm Mậu Tý, tức ngày 14 tháng 4 năm 1708 tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Quê tổ ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Vào đầu thế kỷ 17, tổ 5 đời của ông là Nguyễn Nhiệm (cháu Nguyễn Thiến nhà Mạc) vào Tiên Điền sinh cơ lập nghiệp.

Năm 1724 đời Lê Dụ Tông, Nguyễn Nghiễm đỗ thi Hương khi mới 16 tuổi. Năm 1731 đời Lê Duy Phường, ông đỗ Hoàng giáp (nhị giáp tiến sĩ). Ngoài ông, anh em họ Nguyễn Tiên Điền còn có Nguyễn Huệ đỗ tiến sĩ và Nguyễn Trọng cũng đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ như Nguyễn Nghiễm.

Tướng võ

Nguyễn Nghiễm được vào triều làm quan, làm đốc suất quân nhung, Hiệp đồng tán nhiệm với các tướng khác trong triều, có công lao.

Chúa Trịnh Giang chơi bời làm hỏng chính sự Bắc Hà. Nguyễn Nghiễm cùng các đại thần bàn nhau phế Trịnh Giang lập Trịnh Doanh làm chúa (1740). Nhờ công sách lập Trịnh Doanh, Nguyễn Nghiễm được thăng làm Tham chính Sơn Nam (1741). Ít lâu sau, ông đổi làm Tế tửu Quốc Tử Giám.

Năm 1743, ông được thăng làm Thừa chỉ Viện hàn lâm, tước Xuân Lĩnh bá. Năm 1746, nhờ có công lao, ông được phong làm Hữu thị lang bộ Công, thăng lên tước hầu và được đặc cách dự chức Bồi tụng trong tướng phủ.

Lúc đó Đàng Ngoài không yên ổn, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Năm 1748, Nguyễn Nghiễm được làm Tuyên phủ sứ tán lý quân vụ, quản cơ Trấn nội, chức Tham lĩnh, tước Lệ quận công, vào Nghệ An đánh dẹp. Thắng trận trở về, ông được thăng làm Thị lang bộ Hình. Ít lâu sau, quân nổi dậy ở vùng núi Thanh Hóa lại ra, ông được sai làm Hiệp đồng đến đánh thành lũy quân địch. Nguyễn Nghiễm đánh đâu thắng đó. Quân nổi dậy bèn đi theo đường tắt đánh vào trị sở Thanh Hoa, quân triều đình thua chạy. Nguyễn Nghiễm mang quân về cứu, chiếm lại được dinh.

Đầu năm 1750, triều đình quy cho ông trách nhiệm để thất thủ Thanh Hoa nên ông bị giáng làm Đại học sĩ đông các. Cuối năm đó, Trịnh Doanh đi đánh quân khởi nghĩa của thủ lĩnh Tương ở Sơn Tây, sai Nguyễn Nghiễm làm Tán lý giữ trách nhiệm hộ giá. Ông cùng tham gia dẹp được quân Tương, nên được thăng làm Thiêm đô ngự sử.

Đầu năm 1752, ông được lệnh ra 4 đạo Sơn Tây, Hưng Hóa đánh hoàng thân Lê Duy Mật. Thắng trận trở về, ông được khôi phục chức cũ. Sang năm 1753 ông lại có công trận, được thăng làm Phó đô ngự sử.

Cuối năm 1753, Nguyễn Nghiễm được Trịnh Doanh giao làm Đốc lĩnh ở Thanh Hoa để dẹp các lực lượng nổi dậy trong vùng núi. Nguyễn Nghiễm tiến quân đến nơi, các lực lượng nổi dậy không chống nổi, bỏ chạy sang Ai Lao. Ông chia quân tiến vào Ai Lao nhưng quân khởi nghĩa đã chạy xa, nên mang quân trở về.

Năm 1755, ông được cử làm Hiệp trấn Nghệ An. Năm 1756, ông được gọi về triều thăng làm Vực quận công đi đánh lực lượng nổi dậy ở Kinh Bắc. Nguyễn Nghiễm thắng trận.

Quan văn

Giữa năm 1754, triều đình mở thi Hội, Nguyễn Nghiễm được Trịnh Doanh cử làm Tả giám thị.

Cuối năm 1757, Nguyễn Nghiễm được thăng làm Tả thị lang bộ Hình. Đầu năm 1761, triều đình xét công đánh quân nổi dậy, Nguyễn Nghiễm được thăng làm Ngự sử, rồi Thượng thư bộ Công và vào phủ làm Tham tụng (Tể tướng), từ đó thôi không giữ việc quân mà phụ trách đội Nghiêm hữu thuộc vệ quan thị hậu.

Ít lâu sau, Nguyễn Nghiễm thêm chức Trung thư giám Quốc Tử Giám và kiêm coi Đông các, rồi làm Tổng tài Quốc sử quán.

Mùa hạ năm 1764, ông được thăng hàm Thiếu phó. Năm 1767, Trịnh Doanh chết, Trịnh Sâm lên thay thăng ông làm Thái tử thái bảo, tước Xuân quận công, Đại tư không.

Cuối năm 1771, ông đã 64 tuổi, bèn xin về hưu ở làng Tiền Điền, được thăng làm Đại tư đồ. Nhưng tháng 3 năm sau (1772), Trịnh Sâm lại mời ông ra làm Tể tướng, rồi Thượng thư bộ Hộ.

Đi nam tiến

Năm 1774, trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt hay biết tình hình nội biến Đàng Trong có anh em Tây Sơn nổi dậy, bèn viết thư về triều nói rằng Thuận Hóa có thể đánh lấy được. Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều tán thành việc này. Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm bèn quyết chí ra quân. Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả tướng, theo Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt mang 3 vạn quân đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

Quân Trịnh liên tiếp thắng trận. Sang đầu năm 1775, quân Trịnh đánh chiếm được Phú Xuân. Hoàng Ngũ Phúc cử Bùi Thế Đạt ở lại trấn thủ Phú Xuân, còn các tướng trong đó có Nguyễn Nghiễm theo Hoàng Ngũ Phúc tiếp tục đuổi theo chúa Nguyễn vào Quảng Nam.

Chúa Nguyễn bỏ chạy vào Gia Định. Quân Trịnh tiếp tục giao tranh với quân Tây Sơn của Nguyễn Nhạc và đánh bại Tây Sơn ở Cẩm Sa khiến Nguyễn Nhạc phải xin hàng.

Tuy nhiên sau trận Cẩm Sa, từ tháng 7 năm 1775, quân Trịnh bị bệnh dịch tràn lan, bản thân ông và Hoàng Ngũ Phúc đều nhiễm bệnh nặng. Quân Trịnh tiếp tục tiến đến đóng ở Chu Ổ thuộc địa đầu Quảng Ngãi thì dừng lại vì bệnh dịch ngày càng nhiều. Nguyễn Nghiễm bệnh nặng quá, viết thư xin Trịnh Sâm được về quê dưỡng bệnh. Trịnh Sâm chuẩn y.

Hoàng Ngũ Phúc chủ trương rút về Thuận Hóa, còn Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Lệnh Tân vẫn đề nghị chia quân đóng giữ Quảng Nam. Cuối cùng Trịnh Sâm nghe lời Hoàng Ngũ Phúc, rút hết quân khỏi Quảng Nam về giữ Thuận Hóa.

Tình cảnh quân Trịnh rất thê thảm: hơn 3000 người nhiễm bệnh, hơn 600 người chết. Đầu tháng 10 năm 1775, Nguyễn Nghiễm cùng Hoàng Ngũ Phúc về tới Phú Xuân. Bùi Thế Đạt ở lại cùng các tướng giữ Thuận Hóa, còn Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều trở về bắc dưỡng bệnh, nhưng bệnh cả hai người cùng nhiều đại thần, tướng sĩ ngày càng nặng.

Tháng 11 âm lịch năm 1775, Nguyễn Nghiễm về đến quê nhà ở làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân trong tình trạng rất gầy yếu. Không được bao lâu, tới ngày 17 tháng 11, tính theo dương lịch là ngày 07 tháng 1 năm 1776, ông qua đời, thọ 68 tuổi. Trịnh Sâm ban tên thụy cho ông là Trung Cần và truy phong Thượng đẳng phúc thần.

Tác phẩm

Ông cùng Ngô Thì Sĩ có làm lời chú và lời bàn trong bộ Đại Việt sử kí bản kỉ tục biên.

Ngoài ra, ông còn soạn các tác phẩm:

< >Xuân trung liên vịnhXuân Đình tạp vinhViệt sử bị lãmLạng Sơn đoàn thành đồ chíCổ lễ nhạc chương thi văn tậpKhổng Tử mộng Chu CôngCon trưởng là Nguyễn Khản làm đến Tham tụng triều Lê mạt. Đương thời Nguyễn Khản và Nguyễn Nghiễm cùng làm quan trong triều.Nguyễn Đề làm quan nhà Tây Sơn giữ chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh, đã từng đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, xướng họa thơ cùng các sứ thần Triều Tiên.Đại thi hào Nguyễn Du là con thứ 7 của ông và bà vợ ba Trần Thị Tân.Phan Huy Chú nhận định về ông như sau:

“Ông tài lược văn võ, lúc nhỏ học giỏi thi đỗ. Trải thờ 3 triều, quanh quẩn chỗ đài thự, vào làm tướng văn ra làm tướng võ, ở ngôi Tể tướng 15 năm. Ông sắp đặt gọn mọi việc bề bộn, đối xử ứng tiếp lúc nào cũng như lúc nào, Ân vương (Trịnh Doanh) thường khen là người có đức vọng tài trí. Là bậc nguyên lão trong nước, làm cột đá cho triều đình, công lao và danh vọng long trọng, đời bấy giờ ai cũng khen ngợi”.  (https://vi.wikipedia.org)

Ông là tể tướng nổi tiếng triều Lê, kiêm tài văn võ, trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Tế Tửu Quốc tử giám, Hàn Lâm viện Thừa chỉ. Đến đời Chúa Trịnh Sâm, ông được phong làm Thái tử Thiếu bảo, tước Xuân Quận công.Theo dantri.com.vn/, 04/06/2012: Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) tên chữ là Hy Tư, biệt hiệu là Hồng Ngư cư sĩ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 1741, ngay cả khi ông còn sống, ngôi đền thờ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (còn gọi là đền Đại Vương Hai) đã được xây dựng tại xã Tiên Điền. Việc xây dựng ngôi đền này đã thể hiện sự ủng ái của triều đình cũng như sự ngưỡng vọng của nhân dân ông. Tuy nhiên trải qua thời gian cũng như sự tác động của ngoại cảnh, ngôi đền hiện nay không còn giữ được vẻ uy nghiêm như trước, thay vào đó là cảnh tượng tiêu điều, lạnh lẽo. Năm 2002, bộ VH-TT đã trùng tu tôn tạo lại các hạng mục của đền, phục chế lại các bức đại tự và câu đối. Nhưng từ đó đến nay, một lần nữa ngôi đền này lại chìm vào quên lãng.

8.8. Nguyễn Huy Oánh

Nguyễn Huy Oánh (chữ Hán: 阮輝瑩, 1713 - 1789), tự: Kinh Hoa, hiệu:Lưu Trai; là đại thần và là nhà văn thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Huy Oánh sinh trưởng trong một gia đình Nho học tại làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Trường Lộc, Can LộcHà Tĩnh).

Ông sinh ngày 4 tháng 11 năm 1713.

Năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Huy Oánh đỗ đầu kỳ thi Hương tại Trường thi Nghệ An, được bổ quan, thăng dần đến chúc Tri phủ Trường Khánh.

Năm 1733, ông tham dự kỳ thi Hội nhưng không đậu.

Năm Mậu Thìn (1748), ông đỗ thi Hội, và khi vào thi Đình, ông đỗ Đình nguyên Thám hoa.

Đỗ thứ hạng cao, ông được bổ làm Hàn lâm viện đãi chế.

Năm Kỷ Tỵ (1749), ông làm tham mưu cho đạo Thanh Hoa.

Năm sau (1750), chuyển ông làm Hiệp đồng đạo Nghệ An, cùng với Phạm Đình Trọng vây phá Bào Giang (căn cứ của Nguyễn Hữu Cầu).

Năm 1753, cử ông làm Đề điệu trường thi Hương ở Hải Dương và Yên Quảng.

Năm 1756, ông làm Tán trị thừa chính sứ xứ Sơn Nam.

Năm 1757, ông được cử làm Giám khảo kỳ thi Hội, rồi thăng Đông các đại học sĩ.

Năm 1759, ông làm Nhập nội thị giảng kiêm Quốc tử giám tư nghiệp.

Năm 1761, nhà vua ban cho ông phẩm phục hàng tam phẩm, Sau đó, ông được cử lo việc tiếp đón sứ nhà Thanh (Trung Quốc).

Năm 1765, thấy ông có tài ứng đối, nhà vua cử ông làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Ông đi sứ từ Thăng Long đến Yên Kinh từ 1765 đến 1766. Về nước, ông được thăng chức Thiêm đô ngự sử ở Ngự sử đài.

Năm 1768, ông làm Hữu thị lang bộ Công. Cũng trong năm này, ông được cử làm Tán lý quân vụ, lo việc tiễu trừ hải tặc ở đạo Thanh HoaSơn Nam và Hải Dương.

Năm 1777, ông được phong Hữu thị lang bộ Lại. Gặp lúc dân miền núi nổi dậy ở Tuyên QuangHưng HóaThái Nguyên và Cao Bằng; ông lại được cử làm Tán lý quân vụ để lo việc đánh dẹp và vỗ yên. Sau khi xong việc, ông xin về trí sĩ nhưng không được chập thuận. Nhà vua phong ông làm Tả thị lang bộ Lại.

Năm 1782, ông được thăng chức Thượng thư bộ Hộ.

Năm Nhâm Dần 1783, ông viết Từ Tham Tụng Khải (Bài khải từ chối chức Tham Tụng - Tể Tướng), ông cáo lão về trí sĩ ở hẳn quê nhà.

Về lại Hà Tĩnh, Nguyễn Huy Oánh mở trường dạy học, lập Thư viện Phúc Giang (Phúc Giang tàng thư) (chứa hàng vạn quyển sách, đây là một tàng thư lớn lúc bấy giờ). Ngoài ra, ông còn trích ruộng làm "học điền” để khuyến khích việc học hành. Học trò ông có nhiều đỗ đạt.

Nguyễn Huy Oánh mất ngày 2 tháng 6 năm 1789 tức ngày 9 tháng 5 năm Kỷ Dậu, thụy là Văn Túc. Triều đình và nhân dân địa phương lập đền thờ ông, tục gọi là đền thờ cụ Thám.

Gia đình

Cha ông là Nguyễn Huy Tựu (1690 - 1750), từng làm Tham chính Thái Nguyên, sau phong hàm Công bộ Thượng thư, tước Khiết Nhạ hầu.

Thân mẫu ông người họ Phan, tên chữ Cẩm Trực là cô ruột Thám hoa Phan Kính, người cùng xã.

Em trai ông là Nguyễn Huy Quýnh (1734 - 1785) đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn (1772) và làm quan đến Đốc thị Thuận Quảng, Hàn lâm viện thị giảng.

Con ông là Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790), đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương năm 1759; đến năm 1779 được công nhận học vị tương đương với Tiến sĩ, chuyển sang ban võ nhưng vẫn sáng tác văn thơ. Nguyễn Huy Tự là tác giả truyện thơ Nôm Hoa tiên đặc sắc.

Cháu ông là Nguyễn Huy Hổ, tác giả truyện thơ Mai đình mộng ký.

Tác phẩm

Sinh thời, Nguyễn Huy Oánh cùng với anh là Nguyễn Quýnh cùng nổi tiếng thơ văn trong phái Hồng Sơn. Ông không những là tác gia mở đầu dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, mà còn là một trong các tác gia tiêu biểu của thế kỷ 18.

Nguyễn Huy Oánh giỏi thiên văn, địa lý, sử, triết và có tài về hội họa. Ông đã để lại một sự nghiệp trước tác đồ sộ có, gồm ngót 40 tập sách nhưng đã bị mất mát nhiều. Hiện chỉ còn 8 quyển, đó là:

< >Bắc dư tập lãm (Xem tập sách địa lý phong tục của phương Bắc): Được biên lược từ quyển Danh thắng toàn chí của Trung Quốc.Hoàng hoa sứ trình đồ (Bản đồ về hành trình đi sứ).Phụng sứ Yên Kinh tổng ca (Bài ca tổng quát đi sứ Yên Kinh): Gồm 472 câu lục bát chữ Hán, ghi lại cuộc hành trình từ Đại Việt sang Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), là kinh đô nhà Thanh.Sơ học chỉ nam (Sách hướng dẫn cho người mới học).'Quốc sử toản yếu (Tóm lược quốc sử): Quyển sử do ông san bổ từ khởi thủy đến nhà Hậu Trần.Huấn nữ tử ca (Bài ca giáo huấn con gái): Gồm 632 câu lục bát.Dược tính ca quát (Tổng quát những bài ca về tính dược): Gồm 234 câu lục bát.Thạc Đình di cảo (Bản thảo để lại của Thạc Đình): Tập thơ văn của ông do người cháu là Nguyễn Huy Vịnh biên soạn. Ngoài hơn 100 bài thơ, còn có khá nhiều các bài ca từ, ký, tấu, khải... (https://vi.wikipedia.org).8.9. Nguyễn Huy Cẩn

 

Nguyễn Huy Cẩn (1729-1790) là chí sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Huy Cẩn người làng Phú Thụy, huyện Gia LâmHà Nội.

Nguyễn Huy Cẩn nổi tiếng văn chương từ trẻ, học vấn sâu rộng, từng đỗ khoa Hoành từ. Năm 1760 đời Lê Hiển Tông, ông đỗ Hội nguyên lúc 32 tuổi. Khi vào thi Đình, ông đáng đỗ cập đệ, nhưng vì sai cách trình bày theo quy định nên chỉ đỗ Đồng tiến sĩ.

Khi vào triều, Nguyễn Huy Cẩn không thích làm quan, cố từ xin về. Ông định ở nhà lấy kinh sử, văn thơ làm vui, ít giao thiệp với đời. Cha ông cũng là chí sĩ về hưu, cả hai cha con cùng xướng họa bình sách với nhau, được người đời tôn trọng.

Chúa Trịnh Sâm nhiều lần triệu ông đến làm quan nhưng ông không nhận chức.

Cuối thời Lê Hiển Tông, ông làm thơ có 2 câu:

Giao long đắc thế, Kinh châu vân đế trụ chi trì

Nga áp kinh thanh Sái thành, Vũ Đường tôn chi hác

Nghĩa là:

Lưu Bị được Kinh châu như thuồng luồng gặp mây mưa đắc thế

Vua Đường phá Sài thành vì chưng tiếng vịt ngỗng gặp tuyết mà kêu vang

Mọi người cho rằng 2 câu này là cao kiến của Nguyên Huy Cẩn ứng với việc về sau: Lê Chiêu Thống cầu viện quân Thanh sang đánh Tây Sơn phục lại ngôi vị, nhưng vì kiêu căng phóng túng đến nỗi thất bại.

Năm 1790 thời Tây Sơn, Nguyễn Huy Cẩn qua đời, thọ 62 tuổi. (https://vi.wikipedia.org)

8.10. Nguyễn Khản

Nguyễn Khản (1733 - 1786). Ông là con trai đầu Nguyễn Nghiễm, nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Gia phả dòng họ chép: “Trước đó phu nhân chiêm bao thấy ở dưới mặt trời lại có một mặt trời khác, rồi bà có thai mười một tháng thì sinh ông”.  Sáu tuổi đi học, mười tuổi biết làm bài. Năm Bính Dần (1746), 13 tuổi được tập ấm là Hoàng Tín Đại phu, 14 tuổi thi Hương đậu Tam Trường (Tú Tài). Năm Quý Dậu (1753), 20 tuổi thi đậu cử nhân. Năm Quý Dậu (1753) thi Hội trúng Tam Trường (tương đương với phó bảng sau này). Vì học giỏi có tiếng nên được sung chức Thị Giảng ở Lạng Quốc Phủ (Phủ của Trịnh Sâm) dạy học cho Thế tử Trịnh Sâm. Năm Canh Thìn (1760) thi Hội đỗ Tiến sĩ. Năm Đinh Hợi (1767), Trịnh Sâm lên ngôi, nghĩ Nguyễn Khản có công dạy mình khi còn là Thế tử, nên cử ông làm Tri Bình phiên, sau thăng lên Tri Bộ phiên ở phủ Chúa, rồi Đông Các Đại học sĩ kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám. Năm Mậu Tí (1786), lại có chỉ bổ ông làm Tri Bộ phiên ở Phủ Liêu (Phủ chúa Trịnh), kiêm Quân nghiêm hữu đội (quan võ), ông là người giữ cả chức quan văn, quan võ trong phủ Chúa. Các quan trong triều hết sức trọng vọng, cho đó là phúc ấm của nhà quan Tể tướng Nguyễn Nghiễm. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền chép lại rằng: “Buổi ấy trong hồ nước nhà riêng của ông (Dinh thự của Nguyễn Nghiễm ở Bích Câu Thăng Long) có một đóa sen nở ra hai hoa. Trịnh Vương và các quan ở triều đình làm thơ khen ngợi. Có một vị quan ở Thanh Trì làm bài thơ tứ tuyệt như sau:

                             Phụ đăng khoa thế tử đăng khoa

                             Thế chưởng quân hành Nguyễn tướng gia

                             Bất tín khả khan trì thưởng nguyệt

                             Đình đình tranh xuất tịnh đầu hoa

Nghĩa là:

                             Cha đậu cao con cũng đậu cao

                             Hai triều giữ chức trọng yếu chỉ có nhà Tướng công họ Nguyễn

                             Không tin thì cứ xem điềm tốt ở mặt hồ

                             Rành ràng hiện ra một chồi nở hai hoa”.

Năm Canh Dần (1770), nhân được trông coi sửa sang lại núi Dục Thúy (Ninh Bình) để chúa Trịnh Sâm du ngoạn. Nguyễn Khản đã cho đắp đê ngăn mặn, chống lụt bão, mở rộng đất đai canh tác cho Trấn Sơn Nam Hạ. Chính con đê Vân Hải ở Ninh Bình ngày nay đã được Nguyễn Khản đắp vào năm Đinh Dậu (1777). Cũng trong năm này, xứ Nghệ An bị nạn mất mùa đói kém, ông đã làm điểu xin triều đình thực hiện việc cứu đói cho dân như:

- Dời dân Nghệ An ra Thanh Hóa khẩn ruộng.

- Mở cửa bể cho thuyền buôn từ ngoài vào bán lúa gạo cho dân

- Mở đường ở Châu Quỳ Hợp (Hương Khê) thông thương với Trấn Ninh (Lào) để lưu thông buôn bán.

- Cho thương lái Trung Hoa chở gạo vào bán

- Mở xưởng đúc tiền ở thị trấn Vinh (Vinh ngày nay) cho dân đổi tiền cũ để tiêu.

Những việc ông tấu trình đều được vua Lê và chúa Trịnh cho thực hiện. Nhờ đó dân Nghệ An thoát khỏi nạn đói năm đó.

Nguyễn Khản là bậc đại thần rất được Trịnh Sâm yêu mến. Trong các đời chúa nhà Trịnh thì Trịnh Sâm là vị chúa có học vấn, có năng khiếu về nghệ thuật, sành điệu về lễ nhạc thi ca. Vì thế Chúa rất yêu mến Nguyễn Khản, một đại thần mưu cơ, dũng lược, cầm kỳ thi họa đều thấu đáo tài hoa.

Năm 1778 ông đư­ợc gia thăng Hình bộ Tả thị lang và làm Hiệp trấn xứ Sơn Tây- Hưng Hóa kiêm chức thống lĩnh các đạo quân dẹp loạn ở ngoài vùng biên ải. Chính sự được yên ổn đem lại bình yên cho dân bản xứ. Với những việc làm của Nguyển Khản uy thế của ông ngày một lớn được Trịnh Sâm tin cậy giao nhiều trọng trách của triều đình. Ngoài quan hệ chúa thư­ợng bề tôi giữa Trịnh Sâm và Nguyễn Khản còn có mối quan hệ bạn bè thân thiết. 

Tư­ơng truyền dinh thất của Nguyễn Khản trong nhà trần thiết kế trang hoàng, mỗi bức tranh khung cảnh, tấm khảm là sự ghi chép sự tích truyền kỳ, điển cố thi vị văn chương, dinh thất có hoa viên được trồng các loại hoa thơm, cỏ lạ, có cung thưởng nguyệt, có lầu nghe nhạc, thư viện đọc sách với cách bài trí hài hoà trang nhã cho biết chủ nhân có khiếu thẩm mỹ tinh tế. Chúa Trịnh thường tự cất bước bộ hành tới đây cùng chủ nhân thưởng ngoạn bình phẩm cảnh trí, toạ đàm thơ ca. Trịnh Sâm đã tự tay đề ở ngôi nhà riêng Nguyễn Khản 3 chữ: “Tâm phúc đường” (Ngôi nhà thân thiết như ruột thịt).

Nguyễn Khản được chúa ban ân theo ngự giá đi săn, đi câu, tắm sông thưởng nguyệt, đêm hội Long Trì chỉ riêng Nguyễn Khản là người được ngồi cùng mâm với vợ chồng chúa. Mỗi khi chúa làm thơ đều đọc cho Nguyễn Khản nghe góp ý sửa chữa nếu thấy Nguyễn Khản chư­a góp ý sửa chữa thì chúa coi bài thơ chưa hoàn chỉnh.

Đến nay hầu hết tác phẩm của Nguyễn Khản bị thất lạc. Tuy nhiên qua những gì còn lại và lời truyền tụng trong dân gian thì ông là bậc thầy về thơ Quốc âm. Ông đã dịch (Chinh phụ ngâm) của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm; là danh sĩ trong nhóm Cúc Lâm cư sĩ.

Trịnh Vư­ơng rất sủng ái tuyên phi Đặng Thị Huệ khi bà sinh con trai Trịnh Vư­ơng có ý dành ngôi Thế tử của con trư­ởng Trịnh Tông cho Trịnh Cán. Đư­ợc tin Nguyễn Khản tham mưu đảo chính giúp Thế tử Trịnh Tông. Việc bại lộ Trịnh Sâm chỉ gọi ông về triều, những người cùng mưu bị hành hình nhưng Nguyễn Khản được tha tội chết.

Năm 1782 Trịnh Sâm mất, quân lính nổi dậy rước Trịnh Khải lập lên ngôi chúa thay Trịnh Cán lấy hiệu Đoan Nam Vương. Trịnh Khải liền cho gọi Nguyễn Khản về triều giao cho làm Thượng thư Bộ Lại tước Toản Quận Công. Đến năm 1783 Nguyễn Khản được phong tước chức Thiếu bảo, cùng năm đó ông được thăng Nhập thị Tham tụng (Tể tư­ớng).

Sau 2 năm, Trịnh V­ương lên ngôi các quân lính cậy thế có công phù lập Trịnh  Vương nên rất kiêu hãnh kéo nhau vào phủ chúa đòi phong chức. Nguyễn Khản cùng dự mưu xin chúa bắt chém 7 tên cầm đầu nên bị kiêu binh kéo đến đốt phá nhà riêng. Nguyễn Khản cùng em là Nguyễn Điều trốn lên Sơn Tây gửi mật th­ư cho Trịnh Vương xin hội binh các Trấn để trừ hoạ kiêu binh như­ng việc bị tiết lộ ông cùng Nguyễn Điều xin nghỉ trở về quê nhà. Trịnh Vương thường viết thư thăm hỏi và ban thuốc men tiền bạc, cho lấy thuế 2 chiếc tàu buôn người Bắc Quốc để chi dùng. Đó là những đặc ân chúa dành cho Nguyễn Khản. Đến năm 1787 quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Nguyễn Khản trở về Kinh Đô tập hợp triều thần bàn chuyện chống lại quân Tây Sơn, mọi việc đều được Trịnh Vương nghe theo nhưng việc chư­a thành thì ông bị cảm bệnh và mất tại Thăng Long. Khi mất ông được ban cho thuỵ là Hoành Mẫn, phong làm Thượng Đẳng phúc thần. Ông là người đầu tiên được làm Trấn thủ và được phong công thần.

Như vậy, trong số những ng­ười con thành đạt của Nguyễn Nghiễm,  Nguyễn Khản là người có tài năng trên nhiều lĩnh vực  và đã có ảnh hưởng rất lớn đến gia đình, dòng họ. Chính ông là chỗ dựa cho một đại gia đình quý tộc - Người đã có công nuôi dưỡng và dìu dắt các em khôn lớn trưởng thành trong đó có nhà thơ Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa Thế giới. (https://vi.wikipedia.org)

Theo www.vanhoanghean.com.vn , 05 Tháng 12 2015; http://mobile.coviet.vn/: Cuộc đời Thượng Thư Nguyễn Khản, một cuộc đời sóng gió, trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Tiếc là phần lớn tác phẩm đã bị mất mát, hủy hoại năm 1790 và năm 1954. Họ Nguyễn Tiên Điền đời nào cũng có người làm quan lớn. Đời Lê Trịnh có quan Tư Đồ (Tể Tướng) Nguyễn Nghiễm, thượng thư Bộ Lại kiêm Tham Tụng (Thủ Tướng) Nguyễn Khản, Nguyễn Điều Trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Trứ Tri phủ Hưng Hóa.. Thời Tây Sơn có Nguyễn Nể, Hữu Trung Thư (Quân sư) và hai lần đi sứ. Đời Nguyễn có Nguyễn Du Hữu Tham Tri Bộ Lễ, Chánh sứ, Nguyễn Ức Thiêm sự Bộ Công, Nguyễn Toản Tả Thị Lang và cuối cùng là cụ Nguyễn Mai Tiến sĩ Khoa Canh Tí 1900.., chưa kể các bậc đỗ Cử nhân, làm quan tri phủ, tri huyện khác.. Hà Tĩnh có câu:Bao giờ Ngàn Hống hết mây, sông Lam hết nước họ này hết quan

Theo http://www.nguyendu.com.vn/, ngày 27-1-2018: Dinh thự Nguyễn Khản ở phường Bích Câu Kinh thành Thăng Long hồi đó là nơi lui tới của Chúa Trịnh Sâm, Chúa thường thích đến đây thưởng ngoạn cảnh trí hoa lệ của dinh thự, và so tài, thi thơ với các bậc đại thần trong triều. Chúa Trịnh Sâm đã tự tay đề ba chữ “Tâm phúc đường” (ngôi nhà thân như lòng ruột) và tặng tấm biển đại tự “Ô y hạng” (Chốn ra vào của những người mặc áo thụng đen - chỉ các bậc quân vương đại thần) treo trước cửa phủ. Chúa tin dùng Nguyễn Khản đến nỗi tất cả các việc trong phủ, ngoài điện đều đem bàn bạc với ông. Những đêm hội Long trì, những buổi yến tiệc chúa đều mời ông tham dự. Đã có lúc do được chúa quá tin yêu, Nguyễn Khản bỏ chầu cả buổi đi câu, chúa làm thơ trách cứ:

Giai thoại về câu chuyện này như sau

Tính ông hào hoa phong nhã, rất sành sỏi trong việc ăn chơi. Việc bày biện núi non bộ cùng các chậu hoa, cây cảnh ở trong cung đều phải qua tay Khản thì mới vừa ý nhà chúa. Khản lại thích hát xướng, thạo âm luật, trong nhà không mấy khi dứt tiếng ca; thường dựa vào nhạc phủ để đặt ra các điệu hát mới, hễ làm được bài nào là các nghệ nhân ngoài giáo phường lại tranh nhau truyền tụng. Nhân dân đương thời có câu: “Án phách tân truyền Lại bộ ca”.  (Gõ phách truyền tụng bài hát mới của quan Lại bộ) chính là chỉ việc ấy. Trong những lúc vui chơi hàng ngày, Khản và chúa Trịnh Sâm còn hay làm thơ Nôm để xướng hoạ với nhau.

Tương truyền, có một hôm Khản mệt không vào chầu, và không theo Trịnh Sâm đi câu được. Trịnh Sâm bèn gửi cho Khản bài thơ sau:

Đã phạt năm đồng bỏ buổi chầu,

Lại phạt năm đồng bỏ buổi câu.

Nhắn bảo ông bay về nghĩ đấy,

Hãy còn phạt nữa chửa tha đâu!

Nhà chúa trách yêu thế thôi, chứ khi nào nỡ phạt Khản. Khản cũng biết vậy, liền làm thơ trả lời một cách rất khôn khéo rằng:

Váng vất cho nên phải cáo chầu.

Phiên chầu còn cáo nữa phiên câu.

Trông ơn phạt đến là thương đến,

Ấy của nhà vua chớ của đâu!

Chúa xem thơ hoạ, rất hài lòng, lại sai người mang quà đến để tặng Khản.

Năm Đinh Mùi (1787), quân Tây Sơn tiến đánh ra Bắc, Nguyễn Khản đang nghỉ ở Tiên Điền vội vàng trở về Kinh Đô tập hợp triều thần bàn chuyện chống lại. Việc không thành, ông cảm bệnh và mất tại Thăng Long. Bốn năm sau thi hài của ông được cải táng về quê nhà.

Trong số những người thành đạt của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, ngoài tài văn võ, Nguyễn Khản còn nổi tiếng về các lĩnh vực khác: Thú chơi phong cảnh, đồ họa, nhã nhạc, hát xướng nhất là thú ngâm thơ Nôm. Sách Vũ trung tùy bút chép về Nguyễn Khản: “Nguyễn Khản thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở cũng cho nó tiền bắt hát, không khi nào bỏ tiếng trúc tiếng tơ. Khi có tang quan Tư Đồ (Nguyễn Nghiễm) ngày rỗi sai con hát đồ khúc gọi là ngâm thơ Nôm. Bọn quý thích bắt chước chơi bời hầu như thành thói quen”.

Theo http://www.vusta.vn/, 10/11/2009: Nguyễn Khản có 6 con trai, 5 con gái. Hai người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Thái đều thông minh, giỏi thơ ca quốc âm. Tương truyền Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều đều đưa cho cháu xem, góp ý sửa chữa các câu chữ. Về sau cả hai chị em đều lấy Nguyễn Huy Tự. Nguyễn Thị Thái sinh ra Nguyễn Huy Hồ (Tác giả Mai Đình Mộng ký) và Nguyễn Huy Vịnh đều là những nhà thơ nổi tiếng về sau này. (http://nguyendu.vn/; http://mobile.coviet.vn/).

8.11. Nguyễn Huy Quýnh

Nguyễn Huy Quýnh (1734 - 1786) thuộc thế hệ thứ 10 của họ Nguyễn Huy Trường Lưu (NHTL), sinh ngày 19 tháng Hai năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức năm thứ 3 (1734) đời vua Lê Thuần Tông, húy là Nham, khi làm quan đổi là Trị, tên chữ là Duy Nham, hiệu Dần Phong, tại làng Trường Lưu nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình nhiều đời khoa bảng.

Cha ông là Nguyễn Huy Tựu (1690 - 1750) đỗ Hương giải năm 28 tuổi, dự thi Hội và trúng Tam trường năm 32 tuổi, làm quan đến Tham chính, được tặng hàm Thượng thư. Mẹ ông là bà Trần Thị Cung (1703-1781), người làng Trường Lưu là vợ thứ của Nguyễn Huy Tựu.

Gia đình ông có sáu anh em trai. Người anh cả là Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789), đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn (1748) từng đi sứ nhà Thanh, cũng làm quan tới Thượng thư, đồng thời là một tác gia lớn của thế kỷ XVIII. Người anh thứ hai là Nguyễn Huy Cự (1717 - 1775) đỗ Hương giải năm Mậu Ngọ (1738), Tam trường thi Hội năm 1748, chuyển sang ngạch võ và làm đến Khanh thông Tướng quân, được phong tặng tước vương. Người anh thứ ba là Nguyễn Huy Kiên (1735 - ?), đỗ Hương cống năm 1759, khoa Kỷ Mão, làm quan đến Lại bộ Thiêm sự. Người em dưới ông là Nguyễn Huy Khản đỗ Sinh đồ. Cuối cùng, người em út là Nguyễn Huy Đại làm Phó sứ đồn điền.

Nguyễn Huy Quýnh đi học từ khi lên 5 tuổi, 8 tuổi đã biết làm thơ văn, thuở nhỏ vừa đi học, ông vừa cùng tham gia dạy học từ năm 17 tuổi, và có đóng góp trong công việc soạn sách, in ấn tài liệu cho Phúc Giang thư viện(1).

Năm 1756, 23 tuổi, Nguyễn Huy Quýnh đi thi từ Huyện khảo đến thi Hương đều đỗ đầu và dự kỳ thi Hội năm 1757, chỉ đỗ Tam trường. Sau hai khóa thi Hội năm Tân Tỵ (1761) ông được bổ một chức quan nhỏ là Thừa ty Tả mịch xứ Nghệ An, tới năm 1769 vì có 4 lần thi Hội trúng Tam trường (từ 1757 tới 1769 có 5 khoa thi Hội, trong đó 4 khoa ông trúng Tam trường), được bổ làm Tri huyện huyện Chân Phúc và ít lâu sau ông từ quan; có lẽ là do bực và phẫn chí là nổi tiếng học giỏi mà thi không đỗ cao chăng? Ông giao du rộng rãi với các danh sĩ thời ấy như Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn v.v... quyết tâm học thêm.

Năm Nhân Thìn (1772), ba mươi chín tuổi, Nguyễn Huy Quýnh đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ đồng xuất thân thứ 5 và bắt đầu tham gia quan trường với chức Cấp sự trung Hộ khoa, rồi Giám sát Ngự sử xứ Sơn Nam.

Năm Giáp Ngọ (1774), ông cùng nhiều người thân trong nhà như anh là Nguyễn Huy Oánh, cháu là Nguyễn Huy Tự, tham gia cuộc Nam chinh, giữ chức vụ Kiêm lí lương hướng Nhung vụ. Đầu năm Ất Mùi (1775) sách Cương mục chép rằng, chúa Trịnh sau lúc đóng quân ở Kỳ Anh sai ông mang vàng bạc vào tặng cho Hoàng Ngũ Phúc và quân sĩ đóng ở Thuận Hóa. Cùng năm đó ngày 12 tháng Hai, mẹ đích ông là bà Phan Thị Trừu mất, ông xin về cư tang và tham gia dạy học ở Trường Lưu.

Năm Đinh Dậu (1777) hết tang phục, ông được ban chức Nhập thị nội giảng, sau khi dâng lên Chúa bài thơ nghìn chữ được thăng chức Hàn lâm viện Hiệu thảo, và năm sau 1778, thăng làm Đốc đồng xứ Sơn Nam. Thời gian này ông tham gia đánh dẹp “giặc bể”.  Năm 1779, ông được cử làm Giám khảo trường thi Thanh Hoa.

Năm Tân Sửu (1781), Nguyễn Huy Quýnh được bổ làm quan Trực giảng ở Quốc tử giám, tháng 6 đi khảo sát tình hình ở Sơn Tây và Hưng Hóa, ngày 2 tháng 10, mẹ đẻ ông là bà Trần Thị Cung mất, ông về cư tang ở Trường Lưu. Thời gian này Trường Lưu với Phúc Giang thư viện là nơi nhiều danh sĩ qua lại, nhiều sĩ tử ở các nơi về học, và Nguyễn Huy Quýnh tham gia giảng dạy ở đây.

Tháng 10 năm Giáp Thìn (1784) hết tang phục, Nguyễn Huy Quýnh lại được cử làm quan Trực giảng ở Quốc tử giám, năm sau thăng Hàn lâm Đãi chế, hành Đốc thị Thuận Quảng, Đề đốc học chính, Kiêm lí lương hướng ở Thuận Hóa.

Khoảng một năm, ngày 10 tháng Sáu năm Ất Tỵ (1785) ông mất ở nhiệm sở, thi hài đưa về an táng ở cánh đồng thuộc thôn Đông Tây, xã Bạt Trạc, sau con cháu chuyển về xã Đức Dũng (huyện Đức Thọ), rồi lại chuyển về núi Phượng Lĩnh trong lăng Thám hoa Nguyễn Huy Oánh.

Cuộc đời Nguyễn Huy Quýnh chủ yếu là học hành thi cử, dạy học, làm quan, trong đó từ năm lên năm tuổi đến 23 tuổi thi Hương và tiếp đó là 16 năm với 6 khoa thi Hội (trong đó có ít thời gian làm quan nhỏ ở Nghệ An và Tri huyện huyện Chân Phúc). Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Huy Quýnh chỉ tham gia hoạt động quan trường 13 năm trong đó có gần 5 năm cư tang mẹ đích và mẹ đẻ. Thời gian làm quan của ông chỉ được khoảng hơn tám năm chủ yếu là lo việc giáo dục.

Ở làng Trường Lưu, tại xóm Phúc Trường hiện nay (trước là xóm Độ), trước đây còn khu vườn của Nguyễn Huy Quýnh liền kề với vườn của anh là Nguyễn Huy Kiên và vườn của em là Nguyễn Huy Khản. Đến đời thứ 6 tính từ ông, vườn này nay chỉ còn một nửa, một nửa con cháu đã bán cho họ khác. Tại vườn này trước đây có nhà thờ của Nguyễn Huy Quýnh nhưng đã bị bom của quân đội Pháp ném hỏng năm 1953, năm 2010 con cháu ngoại ở Trường Lưu, Nga Lộc, Thị trấn Nghèn mới xây lại nhà thờ nhỏ.

Tại cánh đồng Dinh, nằm giữa làng Trường Lưu và làng Hốt thuộc xã Phú Lộc, trước kia nghe nói là Dinh thự của Nguyễn Huy Quýnh được xây dựng sau khi ông đỗ Tiến sĩ - Dinh quan Nghè. Thời trước đây khi làm ruộng, đào mương, dân Trường Lưu vẫn hay đào được gạch ngói, v.v…

Tại xã Đức Dũng, huyện Đức Thọ cũng có nhà thờ của ông, đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa tỉnh Hà Tĩnh năm 2005.

Nguyễn Huy Quýnh là một người có thể nói hội tụ và phát huy được một số đặc điểm sau của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu:

Một tấm gương học hành, thi cử; một thầy giáo gương mẫu

Nguyễn Huy Quýnh đi học từ năm lên 5 tuổi và nổi tiếng là học giỏi, đương thời, ai cũng dự đoán là họ Nguyễn sẽ có thêm “khôi khoa” , ý nói sẽ có thêm người đỗ Đình nguyên. Theo bản Hành trạng Nguyễn công do con trai ông là Nguyễn Huy Hào thuật, Nguyễn Huy Quýnh đã học với các thầy sau:

1. Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736), tức Nguyễn Thế Giai (1709-?) người xã Nhân Lý huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương). Ông giữ các chức quan, như Hữu Thị lang Bộ Hình, Hiệp thống lĩnh, Hàn lâm Hiệu lý, tước hầu và được cử làm Trấn thủ Thanh Hoa, nhưng bị mất trên đường đi. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Thế Khải.

2. Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731), Tham tụng Nguyễn Nghiễm. Nguyễn Nghiễm (1708-1775) hiệu là Nghi Hiên, biệt hiệu là Hồng Ngư Cư sĩ và tự là Hy Tư, người xã Tiên Điền huyện Nghi Xuân (nay là xã Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh). Ông là thân phụ của Nguyễn Khản, Nguyễn Du. Sinh thời, Nguyễn Nghiễm là một nhà chính trị, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học nổi tiếng.

3. Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731) Nguyễn Hoãn. Nguyễn Hoãn (1713-1792) người xã Lan Khê huyện Nông Cống (nay thuộc xã Nông Trường huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông là con của Nguyễn Hiệu và giữ các chức quan, như Nhập thị Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm Hữu Tư giảng bộ Lễ, Tri Quốc tử giám, Tri Trung thư giám, Tri Đông các, Tri Hàn lâm viện sự kiêm Quốc sử tổng tài, sau thăng hàm Thái phó, tước Việp Quận công và được tôn làm Quốc lão. Có tài liệu đọc là Nguyễn Hoàn.

4. Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), họ Nguyễn, tức Nguyễn Bá (sau đổi là Thưởng). Nguyễn Thưởng (1727-?) người xã Vân Điềm huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Vân Hà huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm viện Thị giảng, Hữu Thị lang Bộ Binh, Đốc thị đạo Thuận Quảng, tước Khánh Xuyên hầu.

5. Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), họ Dương, Đông các Học sĩ, tức Dương Trọng Khiêm (1727-1787) (Dương Trọng Tế), quê làng Lạc Đạo xã Dương Xá huyện Gia Lâm trấn Kinh Bắc tỉnh Bắc Ninh, nay là làng Lạc Đạo xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm Hiệu lý, Thiêm đô Ngự sử. Sau ông đổi tên là Dương Trọng Tế.

Trong quá trình đi học, ông giao du với nhiều danh sĩ đương thời và khá nổi tiếng trong họ. Thầy hay, bạn tốt và với ý chí học không mỏi, về việc học hành của ông, bạn thân là Phạm Nguyễn Du ghi trong bài Mã thượng cẩm ký (Bài trướng mừng Duy Nham thi đỗ) rằng: “Duy Nham lúc này đã nổi tên khắp kinh thành làng nước” , “Sách không rời tay” con ông là Nguyễn Huy Hào đã ghi ở bài Hành trạng cũng kể rằng, ông “âm thầm nghiên cứu, bền bỉ rũa mài, kiến thức ngày càng rộng mở”.  Ông sáu lần dự kỳ thi Hội với mong ước đậu cao hơn anh mình là thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Việc ông chỉ đỗ ở hạng thứ 5 theo lời của bạn ông là Phạm Nguyễn Du là “một việc mừng” nhưng xem là “danh chưa xứng với thực” , “đã không chiếm được bảng cao, Duy Nham cùng tiếc, cần gì phải mừng”.  Quá trình đi học để thi liên tục 6 khoa suốt 18 năm trời trong lịch sử thi cử Việt Nam thời xưa có lẽ trường hợp của Nguyễn Huy Quýnh cũng là một trường hợp đáng chú ý.

Cũng như anh mình, cố gắng học hành để sau này có điều kiện lập thân, giúp đời, ông cũng quan niệm học để hành “từ nhỏ theo con đường khoa cử, xuất thân từ đấy mà ra” , lấy việc học để có kiến thức mà làm việc không kể chức quan to nhỏ. Bạn bè và những người cùng làm quan đều có nhận xét như vậy, năm 1784, khi tiễn Nguyễn Huy Quýnh đi nhận chức ở Thuận Hóa, Tể tướng Bùi Huy Bích nói “ông có thể tận tâm thì làm chức Đốc thị Thuận Hóa cũng đủ để thi thố sở học của mình”.

Thời xưa, thường vừa đi học vừa đi dạy, Nguyễn Huy Quýnh, như ông thường bảo với con trai là, từ năm 17 tuổi “đã dạy học để tự chu cấp”.  Trong thời gian ở quê và hai dịp về cư tang mẹ đích (từ 1775 đến 1777) và mẹ đẻ (từ 1781 đến 1783), ông tham gia nhiều vào việc đào tạo học trò ở Phúc Giang thư viện. Sách Nguyễn thị gia tàng và tư liệu dòng họchép ông dạy học trò nhiều người đỗ Tiến sĩ, cùng làm quan tại triều, tiếc là ở đây không ghi rõ họ tên các học trò của Nguyễn Huy Quýnh.

Chính thức từ năm 1777, ông nhận chức Nhập thị Nội giảng tham gia việc giảng dạy ở phủ chúa. Hai lần ông giữ chức Trực giảng ở Quốc tử giám, lần đầu từ năm 1781 “học trò bốn phương đều quy phục” , lần sau từ tháng 2 năm 1874, khi ông “giảng luận kinh nghĩa, các triều sĩ đều khen ông là ‘Hòm sách của Lai Thạch’” và khi ông được cử đi làm quan ngoài, “Học sinh nhà Thái học họp lại kể mấy trăm người xin giữ người ở lại”.

Dạy học đã vậy, đối với việc thi cử để tuyển chọn người tài ông lại càng nghiêm minh. Hành trạng ông cho biết, năm Kỷ Hợi (1779), khi ông làm Giám khảo trường thi Thanh Hoa, ông rất công tâm lấy đỗ đúng thực chất, chỉ trích quan Đồng khảo và quan lưu thủ ở đây là Mãn Quận công, nhờ đó trường thi nghiêm túc trở lại. Việc ông được cử đi Thuận Hóa làm Đốc thị và cũng kiêm luôn Đề đốc học chính, lo việc học tập, cũng làm rõ ông là một người có uy tín trong giới học quan thời bấy giờ.

Một vị quan tận tụy, khảng khái

Như ở phần tiểu sử đã ghi, Nguyễn Huy Quýnh trước lúc đỗ Tiến sĩ chỉ làm chức quan nhỏ ở xứ Nghệ An rồi làm Tri huyện một thời gian ngắn, phẩm hàm chỉ là quan tòng thất phẩm (theo Việt sử thông giám cương mục, quyển 22, tờ 21b). Trong thời gian này chưa rõ ông lập được công gì mà nhờ đó cha ông là Nguyễn Huy Tựu được phong tặng chức Thượng thư Bộ Công tước là Khiết Nhã hầu.

Thời làm quan chính thức của ông là sau khi đỗ Tiến sĩ, khởi đầu với chức Cấp sự trung khoa Hộ rồi Giám sát Ngự sử Sơn Nam cho đến lúc mất 1785, giữ chức Đốc thị, được tặng Hàn lâm viện Thị giảng, quãng thời gian từ năm 1772 đến năm 1775, từ năm 1777 đến năm 1781 và hai năm 1784, 1785 gần 9 năm, ông trải qua các chức vụ:

- Hộ khoa Cấp sự trung.

- Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam (nay thuộc các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên…) sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép “xét hỏi các vụ kiện do Ngự sử đài duyệt lại để trình lên quan bản đài xét xử, về cuối năm trình bày về chính sự kiện thời”.  Làm ở Ngự sử đài thường là những người cương trực, giám can gián, hạch tội các quan. Quan hàm chỉ ở Chánh thất phẩm.

- Năm 1774, trong cuộc Nam chinh, ông giữ chức Kiêm lí lương hướng Nhung vụ, lo việc quân lương.

- Năm 1778, giữ chức Đốc đồng, và năm 1785 giữ chức Đốc thị Thuận Quảng về hai chức này, Lịch triều hiến chương loại chí cho biết “chức Đốc đồng, Đốc thị đặt ra từ đầu thời Lê Trung hưng. Ở các trấn đặt chức Đốc đồng, khám xét việc kiện cáo, ở trấn Nghệ An đặt chức Đốc thị coi việc biên cương. Chức Đốc đồng thì dùng quan tứ phẩm, ngũ phẩm trở xuống, chức Đốc thị dùng quan tam phẩm, tứ phẩm. Cũng có khi lâm thời chọn người cho làm, không cứ phẩm hàm” , như vậy Nguyễn Huy Quýnh được cử đi làm Đốc thị Thuận Quảng lại kiêm quản việc học, việc quân lương là “chọn người cho làm”.

- Ở Hàn lâm viện, Nguyễn Huy Quýnh trải qua các chức vụ: Hàn lâm viện Hiệu thảo (năm 1777), sau thăng Hàn lâm viện Đãi chế (năm 1784), quan hàm ở mức Tòng lục phẩm, sau lúc mất được tặng Hàn lâm viện Thị giảng, hàm quan cũng chỉ ở mức ngũ phẩm. Về Hàn lâm viện, Phan Huy Chú cho biết “đặt các chức Thừa chỉ, Thị độc, Thị giảng, Thị thư, Đãi chế, phẩm trật ở hàng Chánh tứ trở xuống” nhưng quan trọng là những người làm ở Hàn lâm viện đều là “nhà nho nổi tiếng về văn học” , “những phẩm giá ngọc đường ấy thực là những người kén chọn vẻ vang trong một thời”.

Điểm qua một số chức mà Nguyễn Huy Quýnh đảm nhận, để hiểu quá trình hoạt động của ông, tiếc rằng thời gian làm quan của ông quá ít, chưa được 9 năm. Nhưng những gì ông làm được, qua các đánh giá của bạn bè, các danh sĩ, như những điều ông trình, làm, đã ghi trong Hành trạng thì thật đáng khâm phục.

Bạn ông Phạm Nguyễn Du nhận xét “một chức quan nhỏ ở biên cương không đủ để trổ hết tài kinh luân của ông” (Văn tế Nguyễn Huy Quýnh). Hành trạng cho biết trong quãng thời gian làm quan, năm 1778 (Mậu Tuất) khi làm Tham hiệp Nhung vụ, ông đã làm tờ khải nêu lên việc cần chấn chỉnh hào mục và “hoạch định, sắp đặt, chấn chỉnh lại mọi việc, cả một vùng được nhờ cậy”.  Lúc làm Giám sát ngự sử ông dâng sớ nói về việc giữ gìn khi có giặc bể vào cướp phá, từ việc nhỏ đến việc lớn nhưng chung lại vẫn cốt làm sao cho dân được lợi. Trong suốt thời gian làm quan ông “không tiếp ai ở nhà riêng” , thường “cùng với dân chuyện trò, bàn bạc suốt ngày”.  Vào thời gian này, thế lực của các hoạn quan rất lớn, lúc được cử đi thăm dò tình hình ở xứ Sơn Tây, Hưng Hóa, nhận được “kêu kiện” của dân về việc hoạn quan Phường quận công ép vét của cải của dân, Nguyễn Huy Quýnh đã “lập tức nhận đơn làm khải trình lên. Tên hoạn quan này hai ba lần sai người nhà đến xin” , nhưng ông đều không chấp nhận. Lúc vào Thuận Hóa ông chủ trương “nắm chính quyền phải luôn luôn lấy việc thu phục được lòng người, củng cố vùng biên cương làm châm ngôn” , việc làm của ông ở vùng này đó được Trần Chánh Kỷ - mưu sĩ của vua Quang Trung sau này - làm thơ ca ngợi và tiếc là Nguyễn Huy Quýnh đến vùng này muộn.

Nguyễn Huy Quýnh tham gia quan trường quá ngắn, chưa đầy chín năm và với phẩm hàm bé, nhưng đó để lại một tấm gương cho đương thời.

Một tác giả Hán Nôm đáng chú ý

Theo Hành trạng Nguyễn công do con trai ông là Nguyễn Huy Hào viết, cháu (con bác) là Nguyễn Huy Vinh nhuận chính, tác phẩm của Nguyễn Huy Quýnh có Dần Phong thi sao (4 quyển), Dần phong văn sao (3 quyển), Quảng Thuận đạo sử tập, Tây Hưng đạo sử. Nhưng những tập như Dần Phong thi sao, Dần Phong văn sao, Tây Hưng đạo sử tập hiện vẫn chưa tìm thấy. Về Tây Hưng đạo sử, theo Thái Kim Đỉnh, đây có thể là của Nguyễn Huy Tự, cho đến khi ta tìm ra sách Lai Thạch tân khoa ký.

Riêng quyển Quảng thuận đạo sử tập là vẫn còn. Sách hiện đang được tàng trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm do Nguyễn Huy Chương (thường gọi là ông Đề Chương) thuộc thế hệ thứ 15 họ NHTL sao chép lại. Theo ghi chép của các bác trong họ, ông còn có tập Nam phương dư địa chí. Có thể các ông lầm quyển Quảng Thuận đạo sử tập với Nam Phương dư địa chí là một chăng?

Qua bài Mã thượng cẩm ký của Thạch Động Phạm Nguyễn Du, ta còn biết ông khi làm Tri huyện có gửi cho Phạm Nguyễn Du “vài mươi bài sáng tác”.  Ngoài ra, trong một số bức thư Phạm Nguyễn Du gửi Nguyễn Huy Quýnh cũng nói Nguyễn Huy Quýnh sáng tác nhiều thơ văn gửi cho ông(12). Tương truyền, Nguyễn Huy Quýnh còn có bài thơ khá dài kể lại quá trình 6 lần dự thi “Lục thứ đình thi”.  Nhưng cho đến nay, những tác phẩm như thế vẫn chưa tìm thấy.

Như vậy, gần như những tập sách gốc của Nguyễn Huy Quýnh theo ghi chép của Hành trạng Nguyễn công hiện đã thất truyền. May mắn là, theo thời gian, các tác phẩm của Nguyễn Huy Quýnh và các thông tin có liên quan được tìm thấy ngày một nhiều thêm, dày dặn thêm, góp phần làm hiện rõ lên gương mặt Nguyễn Huy Quýnh như một tác giả Hán Nôm thế kỉ XVIII đáng chú ý.

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, các cụ Lê Thước, Phan Sĩ Bàng đã công bố bài Thác lời gái phường vải phiên âm Nôm gồm 20 câu lục bát và xem Nguyễn Huy Quýnh là tác giả của bài này làm khi trao đổi thơ văn với Nguyễn Du qua bài Thác lời trai phường nón. Hơn 20 năm sau, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn đều có về Trường Lưu khảo sát, có nhắc đến Nguyễn Huy Quýnh với bài Thác lời gái phường vải. Năm 1995, Thái Kim Đỉnh cũng cho in lại bài Thác lời gái phường vải trong sách Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ dưới tiêu đề Thác lời người con gái phường vải Trường Lưu gửi người con trai phường nón Tiên Điền với lời khẳng định khá chắc chắn rằng tác phẩm này là của Nguyễn Huy Quýnh. Bản thân chúng tôi, cùng với Nguyễn Thạch Giang cũng đã có những khảo cứu để khẳng định thêm điều này.

Năm 1981, trong cuốn Từ trong di sản, Hoàng Lê đã giới thiệu một trích đoạn bài Tựa Tây hỗ mạn hứng do Nguyễn Huy Quýnh đề tựa. Năm 1984, ông lại cho công bố bài tựa này trong cuốn Thơ văn Ninh Tốn(18). Kể từ đó, bài tựa được khá nhiều công trình trích dẫn khi nghiên cứu về quan niệm thơ văn cổ trung đại Việt Nam.

Đến năm 1994, trong cuốn Phan Kính con người và sự nghiệp do Vũ Ngọc Khánh và Chương Thâu biên soạn(19), có tư liệu liên quan đến Nguyễn Huy Quýnh: Ông là tác giả 2 bài thơ đề được Phan Kính (1715 - 1761) họa lại.

Tiếp đó, Lại Văn Hùng trong luận án Tiến sĩ Ngữ văn Khảo sát văn nghiệp dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu (sau công bố thành sách chuyên khảo Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu) [1998, 2000] và bài Tác giả Nguyễn Huy Quýnh với mười bài thơ họa thập cảnh Quan Lan sào (2003), rồi Tìm hiểu quan niệm và sự hình thành dòng văn trong văn học Việt Nam (thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX) (2005) đã lần lượt trình ra danh mục các tác phẩm hiện còn của Nguyễn Huy Quýnh gồm: Quảng Thuận đạo sử tập, Thác lời người con gái phường vải, 10 bài thơ họa cảnh Quan Lan sào, một vài đoạn trích tấu, khải. Lại Văn Hùng cũng tỏ ra nghi ngờ việc Phan Kính có họa thơ Nguyễn Huy Quýnh vì: Phan Kính mất năm 1761, trong khi Nguyễn Huy Quýnh được cử làm Giám khảo ở Thanh Hoa năm 1779. Nhưng theo chúng tôi, việc Phan Kính họa thơ Nguyễn Huy Quýnh vẫn có thể xảy ra, bởi lẽ, trong đời, có thể Nguyễn Huy Quýnh không chỉ làm Giám khảo một lần, ở một nơi. Ngay cả khi chưa đỗ đạt, ông vẫn có thể được cử đi làm Giám khảo ở các nơi khác. Trường hợp bạn ông là Thạch Động Phạm Nguyễn Du, chưa đỗ đạt nhưng vẫn được nhà chúa tin cậy, giao cho việc ra đề và chấm thi. Dẫu sao, thông tin này cũng cho thấy Nguyễn Huy Quýnh có sáng tác thơ để có người họa lại.

Đến năm 2010, Nguyễn Thanh Tùng qua khảo sát các thư tịch Hán Nôm đã phát hiện thêm một số tác phẩm của Nguyễn Huy Quýnh, gồm: 4 bài thơ (hoặc nguyên vẹn hoặc trích đoạn) trong Nguyễn thị gia tàng, 2 bài thơ trong gia phả dòng họ Nguyễn Huy; 18 lời bình thơ trong Tây hỗ mạn hứng của Ninh Tốn; 1 bài trướng; 1 bài văn thi Hội (Nguyễn Huy Quýnh đỗ thứ 5); 3 đoạn “khải” chép trong bản Hành trạng (Nguyễn thị gia tàng). Ngoài ra, Nguyễn Thanh Tùng cũng phát hiện thêm bài tựa Tây Hưng đạo sử tập do Thạch Động Phạm Nguyễn Du đề. Bài tựa cho thấy rõ tác giả Tây Hưng đạo sử tập là Nguyễn Huy Quýnh. Qua bài tựa này, chúng ta cũng biết đại khái, Tây Hưng đạo sử là một tập ghi chép về địa dư, phong tục, nhân vật và thơ văn.

Tổng hợp lại, tác phẩm Nguyễn Huy Quýnh hiện còn bao gồm:

1. Thơ: Về thơ chữ Hán, Nguyễn Huy Quýnh còn 16 bài thơ, cụ thể là: Mười bài họa Quan Lan thập vịnh của Ngô Thì Sĩ, 2 bài thơ tặng anh là Nguyễn Huy Cự và cháu Nguyễn Huy Tiêu, 2 bài cảm tác chép trong Hành trạng, hai bài thơ mừng anh là Nguyễn Huy Oánh về trí sĩ và thượng thọ. Về thơ chữ Nôm, ông hiện còn bài Thác lời người con gái phường vải Trường Lưu gửi người con trai phường nón Tiền Điền.

2. Văn: Nguyễn Huy Quýnh có các tác phẩm: Bài văn sách thi Hội năm Nhâm Thìn (1772), bài tựa Tây hỗ mạn hứng (Ninh Tốn), 18 lời bình các bài thơ trong Tây hỗ mạn hứng (Ninh Tốn), bài trướng mừng Nguyễn Huy Oánh sang tuổi 71 và 3 đoạn trích các bài khải trong Hành trạng.

3. Địa dư: Quảng Thuận đạo sử tập, tác phẩm này đã được Trịnh Khắc Mạnh giới thiệu(24), Tây Hưng đạo sử tập (hiện chưa tìm thấy chỉ còn bài tựa của Phạm Nguyễn Du).

Như vậy, với chừng đó thơ, văn, tác phẩm đã sưu tầm được, Nguyễn Huy Quýnh xứng đáng được coi là một trong các tác giả Hán Nôm lớn thế kỷ XVIII. Giá trị một số tác phẩm đã được các nhà nghiên cứu uy tín, như: Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Thái Kim Đỉnh, Lại Văn Hùng, Trịnh Khắc Mạnh, v.v… khẳng định. Giá trị các tác phẩm mới được phát hiện cũng như tổng thể văn nghiệp của Nguyễn Huy Quýnh đến đâu, chúng tôi rất trông đợi ở các nhà nghiên cứu quan tâm. Đặc biệt trong Quảng Thuận đạo sử tập Nguyễn Huy Quýnh có nhiều lần nói về các đội thuyền của ngư dân đảo Lý Sơn ra tìm kiếm sản vật ở Hoàng Sa. (http://www.hannom.org.vn, ngày 06/12/2013)

Theo https://baomoi.com, 02/12/2012: Nguyễn Huy Quýnh (1734-1786) thuộc thế hệ thứ 10 của họ Nguyễn Huy Trường Lưu. Cuộc đời của Nguyễn Huy Quýnh chủ yếu gắn với học hành thi cử, dạy học, làm quan. Nguyễn Huy Quýnh được biết đến là một tấm gương học hành; một thầy giáo gương mẫu; một vị quan tận tụy, khẳng khái; một tác giả Hán Nôm đáng chú ý.

Tài năng và nhân cách của Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh được hình thành và phát triển gắn với sự sinh thành và dưỡng dục trong một gia đình có truyền thống văn chương lừng lẫy, giữa một miền đất đã cống hiến cho dân tộc những tài năng trác việt.

Chặng hành trình xuyên suốt đất Việt và những năm tháng phục vụ trong triều, ngoài quận đã giúp ông có một cái nhìn vượt qua lũy thành của những định kiến gò bó, thấu hiểu cuộc sống của dân thường, khẳng định và củng cố trong ông một niềm thương nước, yêu nòi.

Thơ, văn Nguyễn Huy Quýnh vừa phảng phất chất chính luận vừa mang tính trữ tình truyền thống của “Trường Lưu văn phái”.  Vượt qua khỏi thú ngâm vịnh thường tình trong cổ thi, thơ của Nguyễn Huy Quýnh bao giờ cũng bám rễ, gắn chặt với mảnh đất cuộc sống. Những bài thơ của ông nói về nhân tình thế thái, về “quan tham, lại nhũng” , về mối nguy của xã tắc, giang sơn, khiến chúng ta có cảm tưởng như ông vừa mới viết. Phần bình thơ của ông thể hiện sự tinh tế, mẫn cảm và nghiêm ngặt của một nhà thơ có tài. Văn của ông lại rắn rỏi, chắc nịch và thể hiện nhiều hoài bão của ông trước thời cuộc. Chính vì vậy, có thể nói rằng, tác phẩm của Nguyễn Huy Quýnh không hề có tuổi, đi cùng những thăng trầm của dòng chảy thời gian.

Nguyễn Huy Quýnh-nhà bác học đa tài, đa nghệ

QĐND Online-Trong số những danh nhân văn hóa, những nhà thơ dân tộc của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, tạm gọi là Trường Lưu văn phái, Nguyễn Huy Quýnh nổi lên như một “nhà bác học” đa tài, đa nghệ.

Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây và Nhà xuất bản Lao Động vừa cho phát hành rộng rãi cuốn sách “Nguyễn Huy Quýnh-Cuộc đời và thơ văn” khái quát lại những thành tựu chính trong cuộc đời của danh nhân văn hóa thế kỷ XVIII này.

Nguyễn Huy Quýnh (1734-1786) thuộc thế hệ thứ 10 của họ Nguyễn Huy Trường Lưu. Cuộc đời của Nguyễn Huy Quýnh chủ yếu gắn với học hành thi cử, dạy học, làm quan. Nguyễn Huy Quýnh được biết đến là một tấm gương học hành; một thầy giáo gương mẫu; một vị quan tận tụy, khẳng khái; một tác giả Hán Nôm đáng chú ý.

Bìa cuốn sách: “Nguyễn Huy Quýnh-Cuộc đời và thơ văn”.

Tài năng và nhân cách của Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh được hình thành và phát triển gắn với sự sinh thành và dưỡng dục trong một gia đình có truyền thống văn chương lừng lẫy, giữa một miền đất đã cống hiến cho dân tộc những tài năng trác việt.

Chặng hành trình xuyên suốt đất Việt và những năm tháng phục vụ trong triều, ngoài quận đã giúp ông có một cái nhìn vượt qua lũy thành của những định kiến gò bó, thấu hiểu cuộc sống của dân thường, khẳng định và củng cố trong ông một niềm thương nước, yêu nòi.

Thơ, văn Nguyễn Huy Quýnh vừa phảng phất chất chính luận vừa mang tính trữ tình truyền thống của “Trường Lưu văn phái”.  Vượt qua khỏi thú ngâm vịnh thường tình trong cổ thi, thơ của Nguyễn Huy Quýnh bao giờ cũng bám rễ, gắn chặt với mảnh đất cuộc sống. Những bài thơ của ông nói về nhân tình thế thái, về “quan tham, lại nhũng” , về mối nguy của xã tắc, giang sơn, khiến chúng ta có cảm tưởng như ông vừa mới viết. Phần bình thơ của ông thể hiện sự tinh tế, mẫn cảm và nghiêm ngặt của một nhà thơ có tài. Văn của ông lại rắn rỏi, chắc nịch và thể hiện nhiều hoài bão của ông trước thời cuộc. Chính vì vậy, có thể nói rằng, tác phẩm của Nguyễn Huy Quýnh không hề có tuổi, đi cùng những thăng trầm của dòng chảy thời gian. (QĐND02/12/2012)

8.12. Nguyễn Gia Thiều

Nguyễn Gia Thiều (阮嘉韶, 1741-1798), tức Ôn Như Hầu là một nhà thơ thời Lê Hiển Tông. Ông là tác giả Cung oán ngâm khúc, tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam.

Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu, tức ngày 22 tháng 3 năm 1741, cuối thời vua Lê chúa Trịnh, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là làng Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình.

Ông nội Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Cha của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước hầu. Mẹ của ông là quận chúa Quỳnh Liên, con gái chúa Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ của Nguyễn Gia Thiều là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.

Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm, sáu tuổi Nguyễn Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng. Vì có công nên ông được phong tước hầu - Ôn Như Hầu. Các em của ông cũng lần lượt được phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ Bá; Nguyễn Gia Xuyên là Du Lãnh Hầu.

Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng, Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ và cùng bạn bè bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt hiệu là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không còn tin ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết điều đó, nên ông chán nản bỏ về.

Năm 1786, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên miền núi xứ Hưng Hóa. Năm1789Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh, lập ra triều Tây Sơn. Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chối. Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy cho tới khi mất vào ngày 9 tháng 5 Mậu Ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm1798, thọ 57 tuổi.

Sự nghiệp văn học

Nguyễn Gia Thiều là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn họcsử học và triết học. Ông còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạchội họakiến trúctrang trí. Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán, ông là tác giả các bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Về hội họa, ông có bức tranh lớn Tống sơn đồ, dâng vua xem được khen thưởng. Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn được lưu lại.

Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ Hán là Ôn Như thi tập, khoảng một nghìn bài, nhưng đã thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc, ông còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập, hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập Tạp ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.

Nguyễn Gia Thiều tuy thuộc tầng lớp quý tộc, nhưng sống trong một thời kỳ nhiều biến động, loạn lạc. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của ông nói lên tâm trạng ai oán của một cung phi sống trong hoàng cung. Nhiều nhà phê bình đánh giá Cung oán ngâm khúc chịu ảnh hưởng bởi Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm, từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến cách phát triển chủ đề cũng như bút pháp nghệ thuật.

Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai - Nguyễn Gia Chu.

Theo http://quehuongonline.vn, 13/04/2012: Nguyễn Gia Thiều sinh năm Tân Dậu (1741) ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là thôn Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình quý tộc.Tên của ông được đặt cho một phố yên tĩnh, có nhiều biệt thự kiến trúc Pháp ở thủ đô Hà Nội, gần hồ Thiền Quang (trước kia phố này có tên Ôn Như Hầu, sau năm 1954 đổi lại là Nguyễn Gia Thiều) và ở nhiều thành phố khác của Việt Nam. Ở Hà Nội, có một ngôi trường trung học phổ thông khá nổi tiếng được vinh dự mang tên danh nhân Nguyễn Gia Thiều, nơi này Tổng bí thư đương nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã từng học tập. Ngoài ra, ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một trường Trung học cơ sở mang tên Nguyễn Gia Thiều. Đây cũng là một trường khá nổi tiếng về học lực của học sinh. (https://vi.wikipedia.org).

Dòng họ của ông gốc ở làng Tống Sơn, huyện Gia Miêu, tỉnh Thanh Hóa, có cụ tổ là Nguyễn Bặc, làm quan đến chức Thái tể, tước Định Quốc công. Về sau, trong hàng con cháu có người tên là Nguyễn Viết Hựu đã lấy vợ ở xã Liễu Chữ (tức là xã Liễu Ngạn) và rồi con cháu đã dời nhà từ Thanh Hóa về quê ngoại. Để nhớ lấy quê tổ, dòng họ ấy đã đổi tên đệm của mình là Viết sang Gia (gốc ở chữ Gia Miêu) và từ đó họ Nguyễn của Nguyễn Gia Thiều có tên đệm là Gia.

Nguyễn Gia Thiều là một nhà thơ trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của dân tộc. Thơ ông là sự kết đọng đẹp nhất của một tâm hồn thẩm mỹ. Tài năng của ông trong âm nhạc, trong hội hoạ, trong kiến trúc kết hợp với bộ óc vô cùng uyên bác đã giúp ông tạo nên những lời thơ như hoa, như ngọc.

8.13. Nguyễn Huy Tự

Nguyễn Huy Tự (阮輝嗣, 1743-1790): còn có tên là Yên, tự Hữu Chi, hiệu Uẩn Trai; là danh sĩ và là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Huy Tự sinh tháng 7 năm Quý Hợi (tháng 8 năm 1743) trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).

Ông là con trai trưởng của danh sĩ Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh, và là con rể của Tiến sĩ Nguyễn Khản (anh Nguyễn Du) ở xã Tiên Điền, huyện Nghi XuânHà Tĩnh.

Năm 17 tuổi, Nguyễn Huy Tự đỗ thứ 5 kỳ thi Hương tại trường Nghệ An. Buổi đầu, ông được bổ chức Thị nội văn chức tùy giảng ở phủ Lượng vương (phủ của Trịnh Sâm khi còn là thế tử). Ít lâu sau, đổi ông làm Binh phiên câu kê (một chức quan thanh tra) ở phủ chúa Trịnh Doanh.

Năm 1767, ông nhậm chức Hồng lô tự thừa. Năm sau (1768), cử ông làm Tri phủ Quốc Oai.

Năm 1770, ông thi Hội trúng Tam trường, được bổ làm Hiến sát phó sứ xứ Sơn Nam.

Năm 1774, Nguyễn Huy Tự xin cải bổ sang võ ban, được cử làm Quản binh. Năm 1778, thăng ông làm Trấn thủ Hưng Hóa, trực tiếp giữ đồn Bách Lẫm.

Năm 1779, ông được đặc cách làm Tiến triều ứng vụ, tiếp đó là Hiệp lý lương hướng Sơn-Hưng-Tuyên, rồi Đốc đồng Hưng Hóa. Ở đây, ông cùng với cha vợ là Nguyễn Khản, và chú vợ là Nguyễn Điều đánh dẹp được cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở vùng mỏ Tụ Long. Vì có quân công, ông được Tổng đốc Quảng Tây (nhà Thanh) tặng 4 chữ "Võ khố hùng lược".

Năm 1781, ông được phái làm Khâm sai Giám đằng kiêm ấn quyển ở khoa thi Hội. Năm 1782, đổi ông làm Thanh hình hiến sát sứ Sơn Tây, rồi Đốc đồng Sơn Tây, Hàn lâm viện hiệu lý, tước Uẩn Đình hầu. Cũng trong năm này, ở kinh đô Thăng Long có loạn kiêu binh. Vương triều và đất nước cùng lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc. Nhân có tang mẹ, Nguyễn Huy Tự xin về chịu tang (1784) và ở hẳn ở nhà không ra làm quan nữa. Về lại Trường Lưu, ông giúp cha (Nguyễn Huy Oánh) chăm lo cho Phúc Giang thư viện.

Năm 1790, ông được vua Quang Trung triệu tới Phú Xuân. Ông nhận lời làm Hữu thị lang cho nhà Tây Sơn. Nhưng liền sau đó, ông mắc trọng bệnh và mất ngày 27 tháng 7 năm 1790 tại Phú Xuân, lúc 47 tuổi, thụy là Thông Mẫn.

Tác phẩm của Nguyễn Huy Tự có truyện thơ Hoa tiên (còn có tên là Hoa tiên ký) bằng chữ Nôm, được viết vào khoảng giữa thế kỷ 18.

Vợ con

Nguyễn Huy Tự cưới Nguyễn Thị Bành (1750 - 1773), con gái của Nguyễn Khản làm vợ. Năm 1773, vợ mất. Sau đó, ông tục huyền cùng em gái vợ là Nguyễn Thị Đài (1752 - 1819), được 9 trai, 4 gái.

Một số người con như Nguyễn Huy Phó, Nguyễn Huy Vinh và Nguyễn Huy Hổ đều tiếp nối truyền thống tốt đẹp của gia đình và đều là những văn nhân có tiếng, trong số đó có người con trai út là Nguyễn Huy Hổ (1783 - 1841), là người tinh thông thiên văn, y học, lý số, giỏi sáng tác văn chương, và là tác giả tập thơ Nôm Mai đình mộng ký viết năm 1809. (https://vi.wikipedia.org/)

8.14. Nguyễn Đề

Nguyễn Đề (阮提, 1761-1805), húy là Nễ, tự Nhất Quế, hiệu Quế Hiên (桂軒, Gia phả ghi là Quế Hiên công); sau đổi tên là Đề, tự Tiến Phủ, hiệu Tỉnh Kiên, biệt hiệu Văn Thôn Cư Sĩ, là nhà thơ Việt Nam ở cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19.

Thân thế

Nguyễn Đề sinh ngày 13 tháng 2 năm Tân Tỵ (1761) tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Ông là con thứ sáu của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1708-1755) và Trần Thị Tần (1740-1778), và là anh cùng mẹ với Nguyễn Du.

Nhờ cha làm quan lớn (Tể tướng), nên những năm tháng thiếu thời, ông sống khá yên vui cùng các anh em trong một cơ ngơi bề thế ở phường Bích Câu, trong kinh thành Thăng Long.

Sự nghiệp

Năm 1768, mới 7 tuổi, ông đã được tập ấm: Hoằng tín đại phu, Trung thành môn vệ úy, Khuê Nhạc bá.

Năm 1780, nhờ thông minh và chăm chỉ, ông đỗ đầu kỳ khảo khóa ở Quốc tử giám.

Năm 1783, ông đỗ đầu kỳ thi ở huyện Thọ Xương và ở huyện Đông Ngàn. Tháng 10 cùng năm, ông đỗ Giải nguyên lúc 23 tuổi khoa thi Hương trường thi Phụng Thiên.

Năm 1786, ông được vua Lê Hiển Tông bổ làm Thị nội văn chức, giữ việc thường trực tại nhà học của con chúa Trịnh; rồi kiêm Phó Tri Thị nội Thư tả Lại phiên ở phủ chúa. Sau nữa, ông thăng Xu mật viện sự Đức Phái hầu. Cùng năm, quân Tây Sơn ra Bắc, ông được giao giữ chức Hiệp tán quân cơ đạo quân Sơn Tây.

Năm Kỷ Dậu (1789), vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, ông theo không kịp phải lánh về quê mẹ ở Bắc Ninh.

Năm Quang Trung thứ 3 (1790), nhờ người quen đề cử, ông được nhà Tây Sơn mời ra giúp việc từ hàn, tiếp đến là Hàn lâm viện thị thư, rồi được cử làm Phó sứ (do Nguyễn Quang Hiển dẫn đầu) đi đến Yên Kinh tuế cống triều Thanh.

Về nước, ông được thăng Đông các đại học sĩ, gia tăng Thái sử, Thự Tả thị lang Nghi Thành hầu.

Năm 1794, thời Cảnh Thịnh, ông được thăng Tả phụng nghi bộ Binh, vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ, cai quản tinh binh.

Năm 1795, ông được cử sang Trung Quốc lần hai, để chúc mừng vua Thanh là Càn Long làm lễ nhường ngôi cho con là Gia Khánh.

Tháng 2 năm 1796, ông về nước, được phong chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.

Năm 1802, nhà Tây Sơn sụp đổ, vua mới là Gia Long lệnh cho ông theo xe vua ra Bắc Hà và làm việc tại Bắc Thành, dưới quyền quan Tổng trấn.

Năm 1805, trong lần về chịu tang người thiếp, ông bị một viên Tri phủ truy bức nhân có một vụ việc tại làng. Rồi vì quá uất ức, ông đã qua đời lúc 54 tuổi.

Gia quyến

Ông có hai người vợ:

< >Vợ chính thất họ Trịnh, không có con;Vợ thứ sinh ba con trai là Giai, Lịch và Vĩ.chữ Hán, đó là:

< >Quế Hiên giáp, ất tập (Tập thơ Quế Hiên, I và II).Hoa trình tiêu khiển tập (Tập thơ tiêu khiển trên đường đi sứ).Gia Long chiếm thành Phú Xuân, ông có soạn một bài quốc âm và làm biểu dâng lên, được Gia Long khen ngợi.

 

Hiện nay ở Thư viện Hán Nôm (Hà Nội) đang lưu giữ tập thơ mang tên Hoa Trình tiêu khiển hứng tiền hậu tập, mang ký hiệu A. 1361 và VHv.149. Ở Thư viện Viện văn học (Hà Nội) có bản mang tên Hoa trình thi tập, mang ký hiệu HN.360. Đây là những bản sao của Quế Hiên giáp, ất tập và Hoa trình tiêu khiển tập.

Nhận xét

Có thể nói, Nguyễn Đề làm quan với Tây Sơn và nhà Nguyễn khá tự nguyện và hăm hở, không mặc cảm, ít vướng bận nghĩa "trung quân", thậm chí có lúc ông còn chỉ trích những người bảo thủ, lánh đời. Vì chuyện này, ông phải chịu không ít lời gièm pha. Trên ba trăm bài thơ của ông đều là những bài thơ vịnh cảnh, ngụ hứng, cảm hoài, thù tạc...Trong số đó có gần chục bài thơ viết cho em trai là Tố Như (tức Nguyễn Du)...Tuy viết bằng chữ Hán, nhưng thơ ông có giọng điệu bình dị, ít triết lý và được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ tinh tế mà không cầu kỳ và kiểu cách.

Nguyễn Đề là nhà thơ có tấm lòng nhân nghĩa, vị tha; có tâm hồn sâu lắng và nhiều trăn trở...Ngòi bút của ông bình dị, nhưng có nhiều bài hay, câu hay. Đặc biệt, ông có hàng chục bài thơ viết cho Nguyễn Du với tất cả tình cảm yêu thương của một người anh dành cho một đứa em trai có số phận khá vất vả, long đong. Lần Nguyễn Du nuôi chí chống Tây sơn, việc bại lộ bị bắt giam. Nhờ ông có thân quen với viên tướng Tây Sơn là Nguyễn Thận mà người em (Nguyễn Du) được thả. Tuy hai anh em sống cách xa nhau, và mỗi người một số phận; song họ luôn nhớ nhau, đặc biệt là tình cảm của ông đối với Nguyễn Du (và ngược lại) vô cùng sâu sắc. Đây thật là một thứ tình anh em hiếm thấy trong lịch sử Văn học Việt Nam.