Video
Công đức
Sách: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM (NXB Hồng Đức XB 2018)

CHƯƠNG V: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ HẬU LÊ - LÊ SƠ (1428-1527)

5.1. Thời nhà Hậu Lê

Nhà Hậu Lê (Hán-Nôm: 家後黎・後黎朝, nhà Hậu Lê • Hậu Lê triều; 1428-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam, tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với nhà Mạc, nhà Tây Sơn trong một thời gian, trước nhà Nguyễn.

Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Hoàn lập ra cuối thế kỷ 10. Nhà Hậu Lê gồm có 2 giai đoạn:

Nhà Lê sơ (1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn Trần Cảo, lên làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.

Nhà Lê trung hưng (1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi tướng Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh làm vua Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê; kết thúc khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông.

Cách gọi nhà Hậu Lê bao gồm cả 2 giai đoạn Lê sơ và Lê trung hưng. Đặc biệt, thời Lê trung hưng tuy kéo dài nhưng các vua Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt. Khi nhà Mạc bị đánh bại phải chạy lên Cao Bằng (1592, tới năm 1677) thì công thần có công đánh Mạc là họ Trịnh đã nắm hết quyền hành. Công thần họ Nguyễn không thần phục họ Trịnh, ly khai ở phía nam, do đó phần lớn hậu kỳ thời Lê trung hưng, nước Đại Việt lại bị chia cắt bởi chúa Trịnh và chúa Nguyễn, gọi là Trịnh Nguyễn phân tranh.

Nhà Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh (Trung Quốc) do Lê Lợi lãnh đạo.

Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân danh "Phù Trần diệt Hồ", nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê Lợi đã tìm Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối năm1426.

Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.

Ít lâu sau Trần Cảo chết. Lê Lợi lên ngôi vua, rồi sai sứ sang tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng giêng năm 1428 âm lịch. Từ đó Lê Lợi có danh chính để làm vua Đại Việt. Minh Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.

Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, được sử gọi là Lê sơ.

Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh.

Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam và đã mở mang được bờ cõi.

Quân đội nhà Lê thời Lê Thánh Tông đã được xây dựng rất hùng mạnh. Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh Tông sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh và thân chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành.

Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn, 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.

Bấy giờ một tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.

Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, vua nhà Minh sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.

Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.

Bồn Man, lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, tỉnh Hủa Phăn (Lào) và tỉnh Sơn La ngày nay, trước đây đã xin nội thuộc Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm, sau đó đổi thành phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, bèn đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.

Vua Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua thì rút về và cử Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm Công cũng tử trận.

Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công và Cầm Đông làm Tuyên Úy Đại Sứ và đặt lại quan cai trị như trước, đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.

Năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu miền tây Đại Việt.

Lê Thánh Tông sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ Nghệ An, Thanh Hóa và Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới sông Kim Sa giáp với Miến Điện. Quân Đại Việt toàn thắng.

Dù phát triển thịnh trị nhưng bên trong cung đình nhà Hậu Lê từ buổi đầu thành lập và sau này vẫn hay xảy ra xung đột.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Cung Hoàng lên ngôi, lập ra nhà Mạc. Nhà Lê sơ truyền đúng 100 năm và mất chỉ 30 năm sau cái chết của vua Lê Thánh Tông.

Dù sao, nhà Lê sơ cũng có công rất lớn đối với dân tộc và là một triều đại có thể nói là “được lòng dân” nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam. (https://vi.wikipedia.org)

5.2. Nguyễn Nhữ Lãm

Nguyễn Nhữ Lãm (1378-1437) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam

Trong khởi nghĩa Lam Sơn

Nguyễn Nhữ Lãm quê ở xã Văn Xá huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam (nay là xã Thiên Liệu, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Cụ nội là Nguyễn Nhữ Quỳ lấy Trần Nguyễn Đoan Hà sinh 3 con trai: Nguyễn Nhữ Biện, Nguyễn Nhữ Kỷ, Nguyễn Nhữ Đề. Nguyễn Nhữ Kỷ là anh hai lấy cô Trần Nguyễn Thị Trắc sinh 4 con trai: Nguyễn Khắc Bình, Nguyễn Khắc Châu, Nguyễn Khắc Hàn, Nguyễn Khắc Vi. Nguyễn Khắc Vi là em út lấy Trần Biền Loan sinh 5 con trai: Nguyễn Thạnh Dương, Nguyễn Thạnh Của, Nguyễn Thạnh Dụng, Nguyễn Thạnh Cán, Nguyễn Thạnh Quang. Trong đó Nguyễn Thạnh Dụng lấy Hồ Xương Thị Yến sinh 2 con trai: Nguyễn Nhữ Lãm và Nguyễn Nhữ Thông.

Trong hoàn cảnh nước Đại Ngu bị quân Minh chiếm đóng, ông gia nhập lực lượng của Lê Lợi và dự hội thề Lũng Nhai năm 1416. Năm 1418, ông trong số những người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng Lê Lợi từ những ngày đầu, phụ trách việc rèn vũ khí và quân lương của nghĩa quân.

Ngày mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng riêng năm mậu tuất (1418) Hoàng đế Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong những người được phong chức đại tướng và thừa tướng chia nhau đốc xuất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh.

Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm từng làm sứ giả tới các nước Ai Lao (Lào), Chiêm Thành vận động vua nước láng giềng giúp voi ngựa và lương thực. Nhờ tài ngoại giao của ông, các nước đã đồng tình giúp đỡ.

Thời Hậu Lê

Tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ. Năm 1429, Lê Thái Tổ xét công ban thưởng cho các tướng lĩnh có công. Nguyễn Nhữ Lãm được ban quốc tính (mang dòng họ của vua) là Lê Nhữ Lãm, Vinh thăng Suy trung phụ quốc công thần nhập nội thượng thư lệnh, Kiểm giáo Thái bảo Đình thượng hầu.

Tháng giêng năm Thuận Thiên thứ tư (1431), vua Lê Thái Tổ cử Nguyễn Nhữ Lãm làm chánh sứ cùng phó chánh sứ là lại bộ thượng thư Hà Lật và Lê Bính sang Trung Quốc để đàm phán. Trong mặt trận ngoại giao này, nhờ tài hùng biện khôn khéo tạo được tình hoà hiếu của Nguyễn Nhữ Lãm, vua Minh Tuyên Tông đã bỏ ý định khôi phục nhà Trần, công nhận vương triều nhà Lê, phong cho Lê Lợi làm "Quyền thư An Nam quốc sự"

Nhờ những công lao, ngày 14 tháng 8 năm Thuận Thiên thứ sáu (1433), vua phong cho Nguyễn Nhữ Lãm chữ "Mậu” (có nghĩa là xanh, tốt). Từ đó con cái ông mang dòng họ Nguyễn Mậu.

Ngày 21 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ băng hà, con là Lê Long Nguyên mới 11 tuổi lên nối ngôi, tức vua Lê Thái Tông. Lúc này, Nguyễn Nhữ Lãm đang giữ chức hữu bộc xã (một chức chính trị của các quan đại thần tương đương tể tướng). Tháng 9 năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), Nguyễn Nhữ Lãm được vua Thái Tông giao thiết kế xây dựng lăng thái miếu thờ thái hậu

Nguyễn Nhữ Lãm mất ngày 23 tháng 5 năm Đinh Tỵ (1437) hưởng thọ 60 tuổi. Mộ lúc mất đặt tại làng Ngọc Lịch (nay là xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa).

Đến năm Cảnh Hưng thứ 10 năm Kỷ Tỵ (1749), tháng 8 năm đó lụt ở sông Lương Giang lở đất. Vua Lê Hiển Tông sai Nguyễn Khâm Thuận tìm đất cát táng tại gò Mã Lăng, làng Trung Lập huyện Thiệu Nguyên phủ Thiệu Hóa (nay là xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân). Phần mộ hai ông bà hợp táng làm một ngôi.

Các con

Nguyễn Nhữ Lãm sinh hạ được 3 người con trai và 1 con gái:

1. Nguyễn Lỗi là con trai đầu, tứ quốc tính là Lê Lỗi, nay là dòng trưởng tại Thọ Xuân Thanh Hóa. Đời vua Thiệu Bình phong: sĩ chí suy trung tán tri kiêm cung tuyên lực công thần, đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, bình chương quân quốc trạng sư, nhập nội từ đồ phò mã, đô uý thái phó thanh quận công, Nguyễn tướng công, tứ thuỵ giản tinh; Mất ngày 25 tháng 2. Vợ Nguyễn Lỗi là con đầu của vua Lê Thái Tông, hiệu là Yên Quốc, quốc trưởng công chúa, tên uý là Minh Tú, mất ngày mồng 6 tháng giêng.

2. Nguyễn Quang Phục: con trai thứ 2, chức đô chỉ huy đồng tri, trấn nam đại tướng quân, tước thái bảo bổng lộc quận công, quản lĩnh Hoan Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh), tục hiệu là Hộ Ngoại lang. ông sinh được 3 người con trai:

Nguyễn Đình Liên

Nguyễn Đình Triều.

Nguyễn Đình Kiêm (tức Nguyễn Mậu Tâm)

3. Nguyễn Quang Lộc (con trai thứ 3) chức An Lạc đại tướng quân, đô đốc thủy bộ chư dinh, trấn đông tướng quân, tước Thái Bảo lương quân công, con cháu nay ở xã Quảng Lộc, Quảng Xương, Thanh Hóa.

4. Nguyễn Thị Ngọc Chi, gả cho con trai thứ hai của Định Quốc Công.

Hiện nay, tên của ông được đặt cho một con đường ở quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. (https://vi.wikipedia.org)

Theo http://ditichlamkinh.vn/,  Nguyễn Nhữ Lãm sinh năm 1378 chính quán xã Văn Xá, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam. Theo gia phả họ Nguyễn thì thân sinh của Nguyễn Nhữ Lãm tên là Công Thân làm quan cuối thời Trần, vì cảnh đời nhiễu nhương nên ông đã từ quan về quê, mẹ là Lê Thị Lịch một người phụ nữ hiền thục được nhiều người quý mến. Khi Lãm lớn lên dáng người cao đen, học giỏi, có tài biện luận, gặp lúc vận suy, quân Minh xâm lược đất nước, muốn tìm nơi ẩn thân dấu tiếng, Nhữ Lãm bí mật đem cả gia quyến đến dựng nhà, mở trại tại Thịnh Mỹ, huyện Cổ Lôi. Ông xin nhập tịch làm dân địa phương và bỏ tiền giúp đỡ dân nghèo, những người gặp cảnh khó khăn, cơ nhỡ vùng Lương Giang không kể dân cày hay chài lưới đều được nương nhờ họ Nguyễn Nhữ. Được ít lâu, Nhữ Lãm mới tìm đến Lam Sơn cầu thân Lê Lợi, ông  gia nhập lực lượng nghĩa quân và dự hội thề Lũng Nhai. Năm 1418, ông trong số những người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng Lê Lợi từ những ngày đầu, phụ trách việc rèn vũ khí và quân lương cho nghĩa quân.

   Ngày mùng 2 tháng giêng năm Mậu Tuất (1428) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong những người được phong chức đại tướng và thừa tướng chia nhau đốc xuất quân Thiết Đột ra đối địch với quân Minh. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm từng làm sứ giả tới các nước Ai Lao, Chiêm Thành vận động vua nước làng giềng giúp voi, ngựa và lương thực. Nhờ tài ngoại giao của ông, các  nước đã đồng tình giúp đỡ.

  Lê Thái Tổ lên ngôi lấy niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ nhất (1428). Ngày mùng 3 tháng 5 năm Thuận Thiện thứ hai (1429) Lê Lợi xét công, ban thưởng cho các tướng lĩnh. Nguyễn Nhữ Lãm, được ban quốc tính lấy họ vua (Lê Nhữ Lãm) Vinh thăng Suy trung phụ quốc công thần nhập nội thượng thư lệnh, Kiểm giáo Thái bảo Đình thượng hầu.

Năm Thuận Thiên thứ 4 (1431) vì có công lớn trong chuyến đi sứ nhà Minh nên ông được phong chức Hữu Bộc Xạ.

 Tháng 9 năm Thiệu Bình thứ nhất (1434) ông được vua Lê Thái Tông sai về trông coi việc dựng miếu thờ Thái mẫu ở Lam Sơn (tức Trần Thị Ngọc Trần - mẹ vua Lê Thái Tông).

Năm Thiệu Bình thứ hai (1435) ông được phong chức: Thượng thư lệnh, tham tri chính sự, tri bắc đạo quân dân bạ tịch sự, tước Đình thượng hầu.

 Ngày 25 tháng 5 niên hiệu Thiệu Bình thứ 4 (1437) Nguyễn Nhữ Lãm mất và được truy tặng: Nhập nội Thái bảo, thuỵ Trung Tĩnh (ĐVSKTT).

Năm Hồng Đức thứ 15 được tặng Khang tế hầu, con trai là Lê Lỗi được tặng là Thái phó Thanh quận công.

5.3. Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 - 19 tháng 9 năm 1442), quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán.

Lên sáu tuổi, mẹ mất, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây), nơi cha dạy học.

Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông.

Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giới

Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Mối lương duyên của thân phụ và thân mẫu Nguyễn Trãi là một ngoại lệ đối với những qui định hôn nhân khắt khe của tôn thất nhà Trần, Trần Nghệ Tông đã không cho Nguyễn Phi Khanh làm quan khi ông đỗ Thái học sinh vì ông là kẻ thứ dân mà lấy vợ giàu sang, cho rằng như vậy là phạm thượng.

Đôi vợ chồng trẻ có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng. Nhưng chưa được bao lâu thì bà Trần Thị Thái qua đời, anh em Nguyễn Trãi lại nương nhờ ông ngoại là Trần Nguyên Đán nhưng đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con ăn học.

Ở Nhị Khê, Nguyễn Phi Khanh đã ra công rèn cặp các con theo khuôn khổ Nho giáo mà có lẽ là Nho giáo Khổng Mạnh chứ không học Tống Nho vì Hồ Quý Ly đã bài bác Tống Nho là không thiết thực. Tuy còn ít tuổi nhưng Nguyễn Trãi rất ham học. Điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc:

Cố viên loạn hậu hữu tiên lư

Lục tuế nhi đồng phả ái thư

Nghĩa là:

Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ

Sáu tuổi con thơ rất thích sách

Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét “Ông [Nguyễn Trãi] tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả”

Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.

Làm quan thời nhà Hồ

Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, nhà Hồ thành lập. Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư, được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc, trong số đó có Nguyễn Phi Khanh. Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc.

Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà.

Mười năm phiêu dạt

Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể. Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển (mười năm phiêu dạt) lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối.

* Theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi đâu. Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa.

* Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận xét: Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có đi đâu không ? 

* Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa.

* Ngoài ra, còn có một số người đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng sang Trung Quốc ở thời kì này, dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình Nam dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam), Ngô ChâuGiang TâyThiều Châu Văn Hiến miếu (Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu), Đồ trung kí hữu (Trên đường gửi bạn)...

Tổng kết về giai đoạn này của cuộc đời Nguyễn Trãi, Nguyễn Lương Bích khẳng định:

“Những tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược”

Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn

Yết kiến ở Lỗi Giang

Thời điểm Nguyễn Trãi lên Lỗi Giang yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện nay các tài liệu chưa được thống nhất.

* Một số học giả cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ hội thề Lũng Nhai vào năm 1416.

* Có người khẳng định Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420 hoặc 1421 hay sau đó một chút

* Với một số phát hiện mới, đặc biệt là bản Đinh tộc ngọc phả của dòng họ Đinh Liệt thì Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn và Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ, đến Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân vào mùa xuân năm 1423. Đinh tộc ngọc phả cũng ghi chép một câu chuyện về sự ra mắt của Nguyễn Trãi. Khi ấy, quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba, lương thực thiếu thốn, quân sĩ mỏi mệt. Về phía quân Minh cũng lúng túng với việc đánh dẹp quân khởi nghĩa, có ý muốn giảng hoà. Ngày 6 tháng 4 năm 1423 (tức ngày 26 tháng 2 âm lịch năm Quý Mão), Bình Định Vương cùng các tướng lĩnh hội bàn phương lược khởi nghĩa. Lê SátLê ThụĐinh BồPhạm Vấn kiên quyết muốn đánh nhưng Đinh Liệt chủ trương hoà hoãn để xây dựng lực lượng. Nguyễn Trãi theo Nguyễn Nhữ Lãm đẩy cửa bước vào, ung dung phân tích phải trái, khuyên Bình Định Vương nên giảng hoà với quân Minh làm thượng sách. Ý kiến ấy của Nguyễn Trãi nhanh chóng được chấp thuận.

Ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn trao cho vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh mà chủ yếu là tâm công (心 攻), đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng

Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân.

Trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịch

Tháng 6 năm 1423, Lê Vận và Lê Trăn được Bình Định Vương cử làm sứ giả, mang lễ vật là năm đôi ngà voi cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hoà. Lời lẽ trong thư rất mềm dẻo, khôn khéo, Tổng binh nhà Minh là Trần Trí chấp thuận ngay. Từ đây, mọi thư từ giao thiệp giữa quân Lam Sơn và quân Minh cũng như văn thư hiểu dụ các thành trì đều do một tay Nguyễn Trãi soạn thảo.

Nguyễn Trãi cũng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật (hoặc mỡ) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (黎利為君, 阮廌為臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi thả lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê SátPhạm VấnLê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.

Tranh thủ thời gian hoà hoãn hiếm hoi, Lê Lợi dẫn quân về Lam Sơn, nhanh chóng củng cố lực lượng. Năm 1424, Trần Trí biết rằng không thể chiêu dụ Lam Sơn đầu hàng, bèn bắt giữ sứ giả Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa bước vào một giai đoạn mới.

Chấp thuận ý kiến của Nguyễn Chích, tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào nam, tấn công đồn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An. Kết hợp với các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho Phương Chính để khiêu chiến với tướng này, hòng khiến quân Minh sơ hở. Tuy nhiên, thành Nghệ An vẫn cố thủ không chịu đầu hàng. Tháng 8 năm 1425, Bình Định Vương mở cuộc tấn công vào Tân Bình, Thuận Hóa và liên tiếp giành được thắng lợi. Cho đến cuối năm 1425, không chỉ Nghệ An mà cả miền đất từ dãy Tam Điệp trở vào đèo Hải Vân đều thuộc địa bàn quản lí của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh chỉ còn cố thủ trong năm thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa chờ cứu viện.

Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn làm ba hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Bình Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi trở ra bắc. Đầu năm 1427Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đồng thời, ông cũng sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép nguyên văn như sau:

“Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô (Khi ấy, có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề), cao bằng tháp Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại” - Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ

Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hóa và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan: các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa ra hàng đầu năm 1427. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần. Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô... mà thôi.

Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng - Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn toàn. Quân Minh ở Đại Việt lâm vào tình thế khốn quẫn hoàn toàn, buộc phải đề nghị giảng hoà. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử kí Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rõ rằng:

“Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói "Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được", nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra” - Đại Việt sử ký toàn thư

Lê Lợi nghe theo cho quân giải vây rút ra. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Nguyễn Trãi can nên tha cho những người cùng đường Lê Lợi đồng ý ý kiến của Nguyễn Trãi, quân Minh rút về nước an toàn. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình thành. (https://vi.wikipedia.org/)

Phong thưởng

Chức quan của Nguyễn Trãi được Toàn thư ghi lại lần đầu tiên vào năm 1427, qua đoạn văn sau đây: “Lấy Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm hành Khu mật viện sự”.  Như vậy là thời kì đầu đến với khởi nghĩa Lam Sơn (khoảng 1416 - 1418), dâng Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi đã được phong chức Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ.

Chức quan Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ của Nguyễn Trãi ở thời kì đầu nhà Lê là theo chế độ thời Trần. Có vị thế rất lớn trong triều đình, như một quan đầu triều. Với cương vị này, Nguyễn Trãi đã mang hết tài năng, góp sức với Lê Lợi chỉ huy kháng chiến thắng lợi và đấu tranh ngoại giao với nhà Minh. Thực tế, chính Nguyễn Trãi được giao soạn thảo và trao đổi các công văn, thư từ với nhà Minh.

Khi kháng chiến đang tiến dần đến thắng lợi hoàn toàn, Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi được phong làm “Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm hành Khu mật viện sự”.

Nguyễn Trãi trong suốt cuộc kháng chiến, luôn ở bên cạnh vua trù tính mọi việc từ việc quân cơ đến việc ngoại giao: “Bấy giờ vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề. Hàng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc; cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ đi lại”.  Nhập nội hành khiển tuy là chức á tướng, nhưng trong giai đoạn này, khi mà có rất nhiều chức quan đại thần khác như “Tả hữu tướng quốc, Thái phó, Thái bảo vẫn còn chưa đặt” , thì vai trò của Nguyễn Trãi càng vô cùng quan trọng.

Sau chiến thắng ban thưởng công danh, năm 1428 Nguyễn Trãi được phong tước “Quan phục hầu” , và các chức danh đầy đủ của ông là “Tuyên phụng đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ Hữu gián nghị đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, tứ Kim tử ngư đại, Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, tứ tính Lê Trãi”.

“Tuyên phụng đại phu” là hàm tản quan, nhưng cũng có ý nghĩa của quan đại phu phụng mệnh vua tuyên đọc các chiếu chỉ. 

Tứ tính Lê Trãi là Nguyễn Trãi được đặc ân ban quốc tính, tức được đổi theo họ của nhà vua.

Với những chức tước nêu trên ở thời điểm ngay sau chiến thắng ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã có một vị thế lớn trong triều đình nhà Lê, như một trong những vị khai quốc công thần. (https://nghiencuulichsu.com Tháng Hai 17, 2017)

Vào tháng 3, năm 1428, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Đại hội các tướng và các quan văn võ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà định thứ bậc. Lấy thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu; tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái Bảo; đều được ban quốc tính. (https://vi.wikipedia.org/)

Văn thần triều Lê

Triều vua Lê Thái Tổ

Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính (họ Lê) và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thần. Ngày 29 tháng 4 năm 1428Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh.

Bình Ngô đại cáo (Ngô Tất Tố dịch) (http://vi.wikisource.org/)

Phiên âm Hán Việt

Bản dịch

Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định,
ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.

Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

 

Sau khi thành lập, triều đình bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn phe cánh, dẫn đến một loạt vụ án phản nghịch liên quan đến các công thần. Đầu năm 1429, Trần Nguyên Hãn tự tử sau khi Lê Thái Tổ ban chiếu bắt giam ông nhân việc một số quan lại như Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá dâng sớ tố cáo Hãn mưu phản. Hai năm sau, Lê Lợi tiếp tục sai giết Phạm Văn Xảo khi bọn Lê Quốc Khí tố cáo ông ngầm làm phản. Những người mà bọn Lê Quốc Khí không bằng lòng đều bị vu cho là bè đảng của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, bị xử tử và tù giam rất nhiều

Không rõ Nguyễn Trãi có bị vu cáo như vậy không, nhưng theo phỏng đoán của một số sử gia hiện đại thì thời gian này Nguyễn Trãi đã bị bắt và hạ ngục. Dựa vào thơ văn của ông như bài “Oán thán“kể lại tâm sự của Nguyễn Trãi khi bị tù đày vào hồi ông khoảng năm mươi tuổi (tức năm 1429) hoặc những lời trần tình xúc động trong bài biểu mà ông dâng lên vua Lê Thái Tông để tạ ơn được ban chức Gián nghị đại phu, rất có thể Nguyễn Trãi đã bị nghi ngờ có liên quan đến Trần Nguyên Hãn nên bị bắt, sau lại được tha. Lê Thái Tổ tha cho Nguyễn Trãi, nhưng tước bỏ quốc tính của ông và không trọng dụng ông nữa. Suốt thời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi không được làm một việc chính sự quan trọng nào cả, ngoại trừ việc thảo các chiếu biểu thay vua theo đúng chức phận của một vị quan Học sĩ ở Hàn Lâm viện. Cuộc sống riêng của Nguyễn Trãi ở Thăng Long cũng rất nghèo túng, thiếu thốn như trong bài: Thủ vĩ ngâm

“Góc thành nam lều một gian

No nước uống thiếu cơm ăn

[..]

Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải

Góc thành nam lều một gian.

Năm 1433Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi

Lê Thái Tông được chỉ định nối ngôi vua chỉ hơn một tháng trước khi Lê Thái Tổ qua đời. Điều này được một số nhà sử học hiện đại cho là kết quả của cuộc tranh giành quyền lực gay gắt giữa ông và anh trai là Quận Ai Vương Lê Tư Tề, người sau này bị phế làm dân thường và chết một cách bí ẩn. Lê SátPhạm Vấn và Lê Ngân trở thành phụ chính đại thần, nhận di mệnh của Lê Thái Tổ để phò giúp vị vua trẻ tuổi.

Nhưng, Lê Thái Tổ cũng có một cố mệnh khác. Lê Quý Đôn cho biết rằng: “Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính” (Lê Quý Đôn - Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi)

Trần Huy Liệu phỏng đoán rằng, trước khi chết, Lê Lợi đã suy nghĩ lại và dặn dò Thái tử Nguyên Long phải đặt Nguyễn Trãi vào một chức vị khác trong triều đình.

Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi. Sau đó, ông lại được tiến cử vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó

Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với hoạn quan Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế lễ nghi trong triều đình. Đây vốn là công việc mà Nguyễn Trãi được Lê Thái Tổ sai làm từ trước, nhưng chưa kịp thi hành. Ngay tháng ấy, Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu rằng:

“Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể thi hành. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hoà. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cỗi gốc của nhạc vậy”

Tuy nhiên, vì bất đồng ý kiến gay gắt với Lương Đăng, chỉ bốn tháng sau, Nguyễn Trãi xin rút lui khỏi công việc này. Tháng 12 năm1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cầm đầu một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối. Kết quả, Nguyễn Liễu bị đày ra viễn châu do có lời phỉ báng hoạn quan trước mặt vua

Không chỉ thất bại trong công tác chế định nhã nhạc, Nguyễn Trãi còn chịu nhiều định kiến từ các nhân vật nắm giữ quyền hành thời bấy giờ như Lê SátPhạm Vấn... Năm 1434, triều đình bận rộn với chuyến đi sứ sang nhà Minh, xin cầu phong cho vua Lê Thái Tông. Tờ biểu văn cầu phong do Nguyễn Trãi soạn, quan ở Nội mật viện là Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn sửa đối vài chữ. Nguyễn Trãi không cho, giận dữ mắng hai viên quan ấy là tham lam vơ vét, dẫn đến nạn hạn hán đang hoành hành lúc bấy giờ. Nguyễn Thúc Huệ đem nói việc đó với Lê Sát và Phạm Vấn, khiến hai người tức tối, trách mắng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi từ tạ nhưng Lê Sát vẫn giận không nguôi. Mâu thuẫn rắc rối đến độ, trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, các quan đại thần đá việc và mắng xéo lẫn nhau. Số là bảy tên tội phạm này đều còn ít tuổi, đi ăn trộm chiếu luật đáng xử trảm, nhưng các quan còn ngần ngại vì phải giết nhiều người quá. Khi được vua Lê Thái Tông hỏi về cách xử lý, Nguyễn Trãi đã khuyên vua nên thi hành nhân nghĩa. Nhân lời tâu của Nguyễn Trãi, Lê SátLê Ngân mỉa mai ông là có nhân nghĩa, có thể cảm hóa được kẻ ác thành người thiện, rồi yêu cầu Nguyễn Trãi nhận và giải quyết mấy tên tù ấy. Nguyễn Trãi bối rối từ chối, tự nhận rằng "Những kẻ ấy là hạng trẻ con ranh mãnh, ương ngạnh, pháp luật của triều đình còn không thể trừng giới được, huống chi bọn tôi ít đức thì cảm hóa thế nào được?". Hồi lâu sau mới quyết định trảm hai tên, còn thì xử lưu đày.

Vì vậy, khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn- nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua. Nguyễn Mộng Tuân từng đến chơi nhà ông và có câu thơ rằng:

一 條 水 冷 知 三 館

四 壁 家 貧 冨 六 經

Nhất điều thủy lãnh tri Tam quán

Tứ bích gia bần phú lục kinh

Nghĩa là

Nhà quan Tri Tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước

Bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở

Những năm Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn cũng là những năm mà Lê Thái Tông, tuy chỉ là một vị vua thiếu niên, nhưng đã nắm lấy quyền hành cũng như thẳng tay trừng trị Lê SátLê Ngân và nhiều người trong phe cánh của họ. Nhà vua cũng có những động thái tỏ ý trọng dụng lại vị lão thần Nguyễn Trãi.

Năm 1439Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự. Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo. Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực. (http://vi.wikisource.org/)

Vụ án Lệ Chi Viên:

Có 3 nguồn chính sử đề cập đến vụ án Lệ Chi Viên là Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Lịch triều hiến chương loại chí.

- Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư:

Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất.

Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngay sau khi thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt Nguyễn Trãi tru di tam tộc vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này.

- Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục:

Tháng 7 âm lịch, Lê Thái Tông tuần hành phía đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi đón mời, nhà vua đến chơi chùa núi Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi.

Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ Nguyễn Trãi, người đẹp mà lại hay chữ. Nhà vua nghe tiếng, trước đây từng mời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó. Trong đợt đi tuần phía đông, Thái Tông quay về đến trại Vải làng Đại Lại, huyện Gia Định, thì mắc chứng sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm, nhà vua mất.

Trăm quan giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự giá về kinh đô mới phát tang. Người ta đều nói Thị Lộ giết vua, bèn bắt giết Thị Lộ. Ngay sau khi thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt và giết Nguyễn Trãi, tru di tam tộc. Người ta đều cho là oan.

- Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí:

Năm 1442, Nguyễn Trãi 63 tuổi, vợ Nguyễn Trãi là Thị Lộ, vào hầu vua, dùng chất độc giết vua, triều đình kết án phải giết ba họ.

Trong 3 sách chính sử nêu trên, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng thống nhất xác nhận Lê Thái Tông bị bạo bệnh mà qua đời, và sau khi thi hài Lê Thái Tông được đưa về kinh đô thì Nguyễn Thị Lộ bị mọi người đồng loạt buộc tội giết vua. Riêng Lịch triều hiến chương loại chí xác nhận Nguyễn Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua.

Giai thoại: Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí:

Đời truyền rằng trong gò lớn ở làng ông có con rắn lớn. Chỗ ấy cây cối um tùm; người làng không dám chặt. Người ông nội của ông thích về phong thủy, mới dựng nhà học trên đó, sai người nhà chặt cây dọn dẹp, nhỡ giết phải con rắn ấy. Con rắn thành tinh ngầm mang thù oán, mới đầu thai vào Nguyễn Thị Lộ. Nàng sinh ra dưới sườn có vảy.

Ông lúc nhỏ đi đường gặp nàng ở Vũ Lăng, yêu về tài sắc mới lấy làm vợ. Khi ông lo việc nước, những chiếu thư, từ mệnh nàng đều được dự nhuận sắc. Thái Tông nghe tiếng, vời nàng vào hầu cho làm Lễ nghi học sĩ.

Bấy giờ ông đã già, muốn về dưỡng nhàn ở Côn Sơn, mấy lần xin không được. Mới lưu nàng ở lại hầu vua, vua mới cho. Ngày vua đi đông tuần, nàng hầu đêm, bỗng vua chết một cách bất ngờ. Kịp khi kết tội, lâm hình, Thị Lộ chạy gieo mình xuống nước, người ta cho là rắn báo oán. (http://vi.wikisource.org/)

Truyền thuyết rắn báo oán:

Một hôm ông Nguyễn Phi Khanh (cha của Nguyễn Trãi) cho học trò phát cỏ trong vườn để cất lớp học. Đến đêm, ông nằm mộng thấy 1 người đàn bà dẫn bầy con nhỏ đến xin ông thư thả ít hôm, vì bận con mọn nên chưa kịp dời nhà, ông nhận lời. Đến khi học trò của ông phát cỏ đập chết 1 bầy rắn con, lúc ấy ông mới hiểu ra ý nghĩa của giấc mộng, nhưng muộn rồi . Đêm đó khi ông ngồi đọc sách thì có con rắn bò trên xà nhà, nhỏ xuống 1 giọt máu thấm ngay chữ “tộc” qua 3 lớp giấy, ứng với việc gia tộc của ông bị hại đến 3 họ. Ngày sau con rắn mẹ hóa kiếp là nàng Thị Lộ để làm hại 3 họ nhà ông. Đến đời Nguyễn, trong Lịch triều hiến chương loại chí lại có thêm chi tiết: Con rắn thành tinh ngầm mang thù oán, mới đầu thai thành Thị Lộ, nàng sinh ra dưới sườn có vảy … Mặc dù câu chuyện được truyền tụng, nhưng nhiều người tin rằng nó chỉ nhằm đổ tội cho Nguyễn Thị Lộ, giải thích  nguyên nhân tiền định về cái chết của vua Thái Tông và Nguyễn Trãi (theo Bùi Thụy Đào Nguyên). (http://trannhuong.net).

Được phục hồi danh dự: Sau khi Nguyễn Trãi mất, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy năm 1447. Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thưNgọc đường di cảoGiao tự đại lễ,... Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù - một người con của Nguyễn Trãi - chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.

Thời điểm Nguyễn Trãi mất cũng gần thời điểm vua Lê Nhân Tông lên ngôi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. Ngày 18 tháng 10 năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân đảo chính, giết Lê Nhân Tông và Thái hậu, lên ngôi vua bốn ngày sau đó và trở thành vị vua thứ tư của nhà Hậu Lê. Thế nhưng, thời gian trị vì của vị vua này kết thúc vào ngày 24 tháng 6 năm 1460 khi các quan đại thần như Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Lê Lăng,... tổ chức cuộc binh biến lần thứ hai, phế truất và giết Lê Nghi Dân. Gia Vương Lê Tư Thành được tôn lên ngôi vào ngày 26 tháng 6 năm ấy, trở thành vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê - Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là con trai của Lê Thái Tông với bà Quang Thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, người từng chịu ơn cứu mạng của vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ trong những ngày bà mang nặng đẻ đau vua Lê Thánh Tông năm 1442. Có lẽ vì thế, dù chưa từng và không thể gặp mặt Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông hẳn có sự chú ý đặc biệt với vị lão thần quá cố.

Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm oan khuất, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, rồi lại truy tặng tước hiệu Thái Sư Tuệ Quốc Công, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện

Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu:

“Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên

Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế

Dịch là:

Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ

Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau”

Trong giới sử học hiện nay, có ý kiến của các nhà chuyên môn như Vũ KhiêuPhan Huy Lê, Hoàng Đạo Chúc, Phan Văn Các, Đinh Xuân Lâm cho rằng: còn một người nữa chịu oan khuất chưa từng được minh oan là Nguyễn Thị Lộ. Trong hội thảo khoa học về Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Thị Lộ đã bị triều đình nhà Lê đương thời (do thái hậu Nguyễn Thị Anh chấp chính cho vua nhỏ Lê Nhân Tông mới lên 2 tuổi) vu khống.

Nhóm tác giả nghiên cứu lịch sử đương đại Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ trong tác phẩm "Nhìn lại lịch sử, xuất bản năm 2003, cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh, vợ thứ vua Lê Thái Tôn

Gia đình: Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai

Vợ

  • Bà Phạm Đỗ Minh Hiển
  • Bà Phùng Thị
  • Bà Nguyễn Thị Lộ
  • Bà Phạm Thị Mẫn
  • Bà Trần Anh Minh.

Con

  • Nguyễn Khuê (con bà Trần Thị)
  • Nguyễn Ứng (con bà Trần Thị)
  • Nguyễn Phù (con bà Trần Thị)
  • Nguyễn Bảng (con bà Phùng Thị)
  • Nguyễn Tích (con bà Phùng Thị)
  • Nguyễn Anh Vũ (con bà Phạm Thị)
  • Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương (con bà Lê Thị).

Tư tưởng Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ thống hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo (trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu), có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó.

Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi

Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Mạnh. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê.

- Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học - chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở: xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng.

- Mệnh trời: Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào thân.

- Tư tưởng nhân dân: Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hưng vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam

- Quan điểm sống: Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo: sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung.

Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng: “Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó”

Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi

Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lý. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình. Tư tưởng Lão - Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên.

Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý - Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hóa Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một văn hóa Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hóa Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hóa giữa cung đình và dân gian. Sức sống của nền văn hóa dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hóa dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng - văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian.

Sự nghiệp văn chương

Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi... song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn.

Văn chính luận

- Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh.

- Bình Ngô đại cáo

- Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông (1433 - 1442)

Lịch sử

- Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác phẩm này vẫn còn chưa rõ ràng, dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán.

- Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ.

Địa lý

- Dư địa chí là bộ sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam.

Thơ phú

- Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng.

- Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục: Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Đây là tập thơ nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam

- Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422.

- Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán.

Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảoThạch khánh đồLuật thưGiao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay.

Nhận định

- Sách Khâm định việt sử thông giám cương mục có những nhận định về Nguyễn Trãi như sau: Theo nhận định của sử quan: Ông Trãi giúp Lê Thái Tổ khai quốc, rồi lại giúp Lê Thái Tông, tài trí, phép tắc, mưu mô, đạo đức, đều vượt hơn hết mọi người lúc bấy giờ.

- Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Lê Thánh Tông chú thích rằng: Ức Trai tiên sinh, đương lúc Thái Tổ mới sáng nghiệp theo về Lỗi Giang, trong thì bàn kế hoạch nơi màn trướng, ngoài thì thảo văn thư dụ các thành; văn chương tiên sinh làm vẻ vang cho nước, lại được vua yêu tin quí trọng.

- Theo Dương Bá Cung:công lao của ông trùm khắp trên đời 

- Theo Nguyễn Năng Tĩnh: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm

- Theo một tác giả hiện đại Nguyễn Lương Bích: Công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. Tố chất thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học. (https://vi.wikipedia.org/)

Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, toàn tài, một nhà văn lớn (http://thpt-chuyennguyenquangdieu.dongthap.edu.vn)

 Về phẩm chất công lao của ông đã đựơc nhiều đời ghi nhận:

Người thế kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về công lao sự nghiệp của ông:

Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi

Danh ghi thanh sử sáng bằng gương 

- Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy.

- Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời 

- Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: "đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc” thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được".

- Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi mất, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm

- Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao... Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta”.

Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học. (https://vi.wikipedia.org/)

Về văn chương

Nguyễn Trãi được đánh giá là một nhà văn chính luận kiệt xuất. Đời sau có nhiều người ca ngợi văn chương của ông:

  • Nguyễn Mộng Tuân xem ông là "bậc văn bá"
  • Lê Quý Đôn đánh giá ông là "văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời"
  • Tô Thế Nghi ca ngợi ông là "sông Giang sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao"
  • Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông "có khí lực dồi dào... đọc không chán miệng"
  • Theo Dương Bá Cung, văn Nguyễn Trãi "rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất"
  • Theo Phan Huy Chú: "văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế"
  • Phạm Văn Đồng nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi "đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường"
  • Riêng những tác phẩm văn chính luận của ông mang tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội, thể hiện lý tưởng chính trị - xã hội cao nhất trong thời phong kiến Việt Nam. Ngoài ra, các tác phẩm này còn phản ánh tinh thần dân tộc đã trưởng thành, điều này được đánh giá là một thành tựu lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học Việt Nam.

Ảnh hưởng

Ảnh hưởng trong văn hóa

 Năm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông. Sau đó, vào các năm 19621967, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962. Năm 1980, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm 1964.

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn SơnHải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003.

Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi Viên,  thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh).

Năm 1980UNESCO công nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới. (http://vi.wikipedia.org/)

Ảnh hưởng trong nghệ thuật

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật.

< >Bí Mật Vườn Lệ Chi (kịch, tác giả:Hoàng Hữu Đản, đạo diễn:Nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc)Nguyễn Trãi ở Đông Quan (Kịch, Nguyễn Đình Thi)Đêm của bóng tối (Kịch, Lê Chí Trung)Vạn xuân (tiểu thuyết, Yveline Feray)Đêm Côn Sơn (thơ, Trần Đăng Khoa)Nguyễn Trãi (tiểu thuyết, Bùi Anh Tấn)Thiên mệnh anh hùng (phim dựa theo tiểu thuyết Nguyễn Trãi - quyển 2, Bức huyết thư - đạo diễn Victor Vũ).Tại thành phố Hà Nội tên của ông được đặt cho tuyến quốc lộ 6 đoạn từ Ngã Tư Sở đến vùng giáp ranh thị xã Hà Đông.Tại đô thành phố Hồ Chí Minh đường Nguyễn Trãi hiện nay dài khoảng 6 km nằm trong khu vực thành phố Chợ Lớn cũTại thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ cũ (nay là thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương), đoạn từ cầu Cái Khế tới vòng xoay Ngã tư bến xe  là đường Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó từ trước năm 1975 tại thị trấn Cái Răng cũ (nay là phường Lê Bình, quận Cái Răng) cũng có một con đường quan trọng mang tên đường Nguyễn Trãi. (http://vi.wikipedia.org/)

5.4. Nguyễn Lý

Nguyễn Lý (阮理, ? - 1445) là tướng quân Lam Sơn, công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.

Theo các tài liệu lịch sử, Nguyễn Lý sinh năm nào chưa rõ. Ông là người thôn Dao Xá, huyện Thủy Nguyên - nay là xã Xuân Lamhuyện Thọ XuânThanh HóaViệt Nam.

Nguyễn Lý là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu. Từ năm 1416, ông đã cùng dự Hội thề Lũng Nhai với Lê Lợi và 16 người khác.

Trong những ngày đầu khởi nghĩa năm 1418, quân Lam Sơn còn yếu và hay bị quân Minh đánh bại. Tháng 5 năm 1418, Lê Lợi phải lui toàn quân về Lạc Thủy. Tướng Minh là Mã Kỳ mang quân đuổi đánh. Nguyễn Lý cùng Lê Thạch, Đinh Bồ, Lê Ngân được lệnh mang quân mai phục đánh địch. Ngày 18 tháng 5 năm 1418, quân Minh tiến đến Lạc Thủy bị mai phục. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trận đó Nguyễn Lý chém 3000 quân địch và thu được nhiều quân khí.

Năm 1420, ông cùng các tướng Lam Sơn chống lại một đợt tấn công mạnh của quân Minh vào Mường Thôi. Đại Việt thông sử chép, khi đó tướng Minh là Lý Bân, Phương Chính có 10 vạn quân, được thủ lĩnh địa phương là Cầm Lạn ở Quỳ châu dẫn đường tiến vào chỗ Lê Lợi đóng quân. Nguyễn Lý cùng Lý Triện, Phạm Vấn được lệnh mang quân mai phục ở xứ Bồ Mộng, đánh cho quân Minh bị tổn thất nhiều. Tuy nhiên do lực lượng còn đông, Lý Bân vẫn tiến quân lại gặp quân mai phục của Lê Lợi ở Thi Lang, bị thua phải rút về.

Sau đó trong các trận đánh ở Khả Lưu, Nghệ An, Nguyễn Lý đều tham gia lập công và được Lê Lợi phong làm Thái úy.

Cuối năm 1426, ông cùng Lê Sát mang quân đi vây thành Xương Giang. Đầu năm 1427, khi thành chưa hạ được, ông được lệnh về cầm quân vây cửa nam thành Đông Quan.

Tháng 8 năm 1427, ông theo Trần Nguyên Hãn trở lại công phá Xương Giang và đến tháng 9 âm lịch thì phá được thành đó, làm viện binh của Liễu Thăng mất đi điểm tựa khi tràn qua biên giới.

Cũng trong tháng 9 năm 1427, Lê Sát đã chém được Liễu Thăng ở Chi Lăng nhưng quân Minh vẫn đông và mạnh. Nguyễn Lý được lệnh cùng Lê Văn An mang 3 vạn quân lên tiếp ứng cho Lê Sát, giết được tướng Minh là Lương Minh.

Quân Minh dưới quyền chỉ huy của Thôi Tụ và Hoàng Phúc cố tiếp tục tiến về Đông Quan, nhưng đến Xương Giang mới biết thành bị quân Lam Sơn hạ rồi, phải đóng quân ở giữa đồng không.

Tháng 10 âm lịch, ông cùng các tướng Lam Sơn tổng tấn công giết và bắt sống toàn bộ số quân Minh còn lại của đạo viện binh dưới quyền Thôi Tụ. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi.

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ. Nguyễn Lý được phong làm nhập nội tư mã, Suy trung tán trị Hiệp mưu công thần. Ông được cải sang họ Lê của vua.

Năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc bảng tên 93 công thần, tên ông đứng hàng thứ 6, được phong làm Hương thượng hầu.

Năm 1430, ông được phong làm Nhập nội kiểm hiệu tư không.

Năm 1433, Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên thay, Lê Sát làm phụ chính.

Do bị Lê Sát ghét, năm 1434, ông bị đưa đi làm Tổng đốc Thanh Hóa. Đến tháng 6 năm đó lại đổi làm đồng Tổng quản lộ Bắc Giang hạ.

Năm 1437, Lê Sát lộng quyền bị Lê Thái Tông giết, ông được gọi về làm Nhập nội hiệu úy, tham tri việc quân ở các vệ thuộc Tây đạo.

Năm 1443, đời Lê Nhân Tông, ông mất, không rõ bao nhiêu tuổi. Năm 1484, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm thái bảo, Phúc quốc công. (http://vi.wikipedia.org/).

5.5. Nguyễn Chích

Theo Văn bia quốc triều tả mệnh công thần, Nguyễn Chích mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Ông là người ít nói, ít cười, hiền lành, trung thực, có chí lớn.Nguyễn Chích (阮隻) hay Nguyễn Chính (1382-1448) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.

Năm Nguyễn Chích 25 tuổi, nước Đại Ngu của nhà Hồ mất do cuộc xâm lược của nhà Minh. Ông nuôi chí đánh đuổi người Minh để cứu nước.

Sử sách không chép rõ thời điểm Nguyễn Chích nổi dậy chống quân Minh, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì ông khởi nghĩa khoảng sau khi nhà Hậu Trần mất (1413) cho tới trước khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (1418). Căn cứ ban đầu mà ông xây dựng là tại Vạn Lộc. Từ Vạn Lộc, Nguyễn Chích đánh ra các vùng xung quanh, cả huyện Đông Sơn quân Minh không dám đến cướp phá.

Sau đó Nguyễn Chích tiến quân đánh chiếm núi Hoàng và núi Nghiêu là vùng giáp 3 huyện Đông Sơn, Nông Cống và Triệu Sơn, xây dựng khu vực này thành căn cứ lớn. Căn cứ này có vách núi dựng đứng và sông Hoàng chảy qua là chiến hào tự nhiên, thuận lợi cho việc phòng thủ lẫn tiến công.

Từ Hoàng Nghiêu, Nguyễn Chích mở rộng phạm vi hoạt động ra vùng lân cận ở Thanh Hóa và bắc Nghệ An. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Hiệu lệnh của ông được thi hành ở các huyện Đông Sơn, Nông Cống và Ngọc Sơn".

Quân Minh lo lắng. Tướng người Việt theo quân Minh là Lương Nhữ Hốt tìm cách dụ hàng Nguyễn Chích nhưng thất bại.

Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Nghe tin thanh thế của Nguyễn Chích, Lê Lợi sai người mang thư đến mời ông về cùng tham gia quân Lam Sơn. Nguyễn Chích đồng ý theo Lê Lợi, nhưng thời gian đầu ông vẫn ở căn cứ Hoàng Nghiêu. Từ Hoàng Nghiêu, ông mang quân ra đánh Lương Nhữ Hốt ở đồn Cổ Vô, được Lê Lợi phong chức Vinh lộc đại phu Lân hổ vệ tướng quân. Sau đó Lê Lợi lại phong ông làm Đô đốc đạo phủ quản tổng đô đốc quân dân, tước Quan nội hầu.

Cuối năm 1420, ông mang toàn bộ lực lượng gia nhập với Lê Lợi - lúc đó đóng ở Mường Nanh. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết đột hữu vệ Đồng tổng đốc chủ quân sự.

Từ năm 1421 đến 1423, ông tham gia nhiều trận đánh với quân Lam Sơn như trận Ba Lẫm (tháng 12 năm 1421) và trận Sách Khôi (tháng 2 năm 1422) đánh bại 10 vạn quân Minh của Trần Trí. Ông được Lê Lợi thăng lên chức thiếu uý.

Từ năm 1418 đến 1423, quân Lam Sơn chỉ hoạt động quanh quẩn ở vùng núi Thanh Hóa, bị quân Minh nhiều lần đánh bại. Trong tình thế khó khăn, Lê Lợi đã phải giảng hoà với quân Minh để củng cố thực lực. Cuối năm 1424, khi sứ giả quân Lam Sơn là Lê Trăn bị quân Minh bắt giữ, Lê Lợi bèn cắt đứt giảng hoà với địch.

Vào thời điểm đó, Nguyễn Chích đã hiến kế với Lê Lợi:

“Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay hãy đánh trước lấy Trà Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”.

Chấp thuận kế sách của ông, Lê Lợi quyết định tiến vào Nghệ An. Đầu tiên quân Lam Sơn tập kích đồn Đa Căng (nay thuộc xã Vạn Hòa - Nông Cống, Thanh Hóa). Tháng 11 năm 1424 quân Lam Sơn liên tiếp giành thắng lợi, hạ thành Trà Lân và tiến vào Nghệ An, sau đó đánh bại quân Minh ở Khả Lưu, Bồ Ải (tháng 5 năm 1425).

Thành Nghệ An bị bao vây cô lập, quân Lam Sơn tiến ra đánh Diễn Châu và Tây Đô (tháng 6 năm 1425). Nhân đà thắng lợi, tháng 8 năm 1425, Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn mang quân vào đánh chiếm đất Tân Bình và Thuận Hóa. Hai thành này cũng bị vây.

Các nhà sử học đánh giá rất cao về kế vào Nghệ An của Nguyễn Chích. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm kể từ khi thực hiện kế hoạch của ông, quân Lam Sơn làm chủ 1 vùng rộng lớn từ Thanh Hóa và Thuận Hóa, bao vây các thành địch. Nếu so sánh với thời gian 6 năm 1418 - 1423 chỉ quanh quẩn mấy huyện ở Thanh Hóa thì thấy hiệu quả của việc thay đổi chiến thuật này rất lớn.

Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi kéo đại quân ra bắc, quân Lam Sơn liên tiếp thắng trận, đánh tan các đạo viện binh của Vương An Lão và Vương Thông, đẩy quân Minh vào thế phòng thủ ở Đông Quan và các thành ở Bắc Bộ. Trong thời gian đó, Nguyễn Chích được giao việc vây thành Nghệ An. Sau đó ông được Lê Lợi điều ra bắc, giữ chức tổng tri Hồng châu và Tân Hưng.

Đầu năm 1427, ông cùng tướng Bùi Quốc Hưng mang quân bao vây, hạ thành Tiêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội) và Thị Cầu (Bắc Ninh), quân Minh trong hai thành này phải mở cửa ra hàng.

Sau khi các tướng vây thành Đông Quan là Đinh Lễ, Lý Triện tử trận và Nguyễn Xí cùng Đỗ Bí bị bắt khi quân Minh đánh úp từ trong ra, Lê Lợi điều ông về vây mặt nam thành này.

Cuối năm 1427, viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh lại sang cứu Vương Thông. Nguyễn Chích cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lê Khuyển lên trấn ải Lê Hoa để chặn Mộc Thạnh. Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, Mộc Thạnh rút quân về nước. Quân Lam Sơn đuổi theo truy kích một trận nữa.

Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, lập ra nhà Hậu Lê. Năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình thượng hầu, ban cho họ Lê của vua. Từ đó ông được gọi là Lê Chích.

Thời gian đầu, Lê Chích được tham gia triều chính nhưng sau đó ông bị Lê Lợi cách chức. Sử không chép rõ về tội lỗi của ông, các nhà nghiên cứu cho rằng, việc ông bị cách chức do sự nghi ngại công thần của Lê Lợi.

Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, con là Lê Thái Tông lên thay. Lê Chích được phục chức làm Đồng tổng quản châu Hóa, trấn thủ Thát Ải.

Quân Chiêm Thành hai lần cướp phá, ông đều chặn đánh tan, giữ yên biên giới phía nam. Sau đó, Lê Chích còn lập công trong 2 lần đi đánh Chiêm Thành, được phong tước Đình hầu.

Tháng chạp năm 1448, Nguyễn Chích mất, thọ 67 tuổi. Lê Nhân Tông truy tặng ông làm Nhập nội tư không bình chương sự, Hiến quốc công, thuỵ hiệu là Trinh Vũ.

Thời Nguyễn, Gia Long liệt ông vào bậc thứ nhì công thần khai quốc nhà Lê (năm 1802).

Trong sách Kiến văn tiểu lụcLê Quý Đôn ca ngợi ông như sau:

“Bầy tôi có ông khai quốc, kể về bậc tài trí cần lao không phải là hiếm nhưng sở dĩ [vua Lê Thái Tổ] đã bình định được cả nước là do mưu chước của Lê Chích… Không cần phải đánh mà được thành Đông Đô, lấy hoà hiếu để kết thúc chiến tranh, tuy là mưu kế của Nguyễn Trãi, nhưng trước hết làm cho căn bản mạnh để thu thắng lợi hoàn toàn thực chất là bắt đầu từ Lê Chích”

Tại xã Đông Ninh hiện có đền thờ và văn bia Tướng quân Nguyễn Chích .

Tại phố Thống Nhất 1, phường Trường Thi có đền thờ Tướng quân Nguyễn Chích.

Hiện nay, tên của ông (Nguyễn Chích) đã được đặt cho một đường phố của thành phố Thanh Hóa (tại phường Nam Ngạn) và một trường trung học cơ sở của huyện Đông Sơn (tên cũ là trường Năng khiếu Đông Sơn). Tại quận Liên Chiểu (Đà Nẵng) có phố Nguyễn Chích và tại quận Hoàng Mai (Hà Nội) có phố Nguyễn Chính. (http://vi.wikipedia.org/).

5.6. Nguyễn Xí

Nguyễn Xí (chữ Hán: 阮熾; 1396-1465) là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Việt Nam, tên của ông còn được đặt cho một số con đường ở thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác.

Ông nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp, cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Tại đây Nguyễn Hợp đã cùng Nguyễn Hội khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai: Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hóa - Thanh Hóa, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam Sơn.

Năm lên 9 tuổi (1405), Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Nguyễn Xí đã tỏ ra vũ dũng hơn người, được Lê Lợi quý như con cháu trong nhà.

Lê Lợi sai ông nuôi một đàn chó săn 100 con. Ông chia cơm, dùng hiệu chuông dạy chó rất tài, cả đàn răm rắp nghe theo lệnh. Lê Lợi cho rằng ông có tài làm tướng nên sai ông quản đội Thiết đột thứ nhất.

Năm 1418, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí cùng tham gia, lúc đó ông 22 tuổi. Ông thường theo hầu hạ bên Lê Lợi những lúc hiểm nghèo ở núi Chí Linh.

Tháng 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.

Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan (Thăng Long, Hà Nội).

Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang. Vua Minh lại sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.

Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, ông biết Thông định chia đường, hẹn nhau khi pháo nổ thì quân mặt trước mặt sau cùng đánh úp Lê Triện. Ông và Đinh Lễ bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động, rồi đốt pháo giả làm hiệu cho quân Minh tiến vào. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Lê Lợi được tin thắng trận liền tiến đại quân ra bắc, vây thành Đông Quan. Nguyễn Xí được lệnh cùng Đinh Lễ mang quân vây phía nam thành.

Tháng 2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính đánh úp Lê Triện ở Từ Liêm, Triện bị tử trận. Tháng 3 Vương Thông đánh trại quân Lam Sơn ở Tây Phù Liệt. Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ mang 500 quân thiết đột tiếp viện, đánh đuổi quân Minh đến My Động. Hậu quân Lam Sơn không theo kịp, Vương Thông bèn quay lại đánh, hai tướng cưỡi voi bị sa xuống đầm lầy, bị quân Minh bắt mang về thành. Đinh Lễ không chịu hàng bị giết, còn Nguyễn Xí nhân một đêm mưa gió dùng mưu lừa quân gác ngục trốn thoát trở về. Lê Lợi thấy ông về mừng rỡ.

Sau đó ông lại cầm quân tham gia trận chiến Xương Giang tiếp ứng cho Lê Sát bắt được Hoàng Phúc, Thôi Tụ là đạo viện binh sót lại sau khi Liễu Thăng bị chém. Đó là trận thắng lợi kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn.

Ông là công thần 4 đời vua:

Năm 1428, Nguyễn Xí được phong chức Long hổ tướng quân Suy trung bảo chính công thần.

Năm 1429, khi khắc biển công thần, Nguyễn Xí được xếp hàng thứ 5, được phong làm huyện hầu.

Năm 1437 đời Lê Thái Tông, ông làm chức quan chính sự kiêm Tri từ tụng.

Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò vua Lê Nhân Tông.

Năm 1445, vua Nhân Tông còn nhỏ, Nguyễn Thái hậu nhiếp chính, ông làm Nhập nội đô đốc, nhận lệnh cùng Lê Thận mang quân đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi thì bị quyền thần tố cáo tội lỗi nên bị bãi chức. Năm 1448 Nguyễn Xí được phục hồi chức thiếu bảo.

Tháng 10 năm 1459, anh Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết vua lên ngôi, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng bị bại lộ đều bị giết. Nguyễn Xí bàn mưu với Lê Lăng (con Lê Triện), Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) lật đổ Nghi Dân lần nữa.

Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460 Nguyễn Xí phát động binh biến, chém bầy tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở nghị sự đường, nắm lấy cấm binh, đóng chặt cửa thành, sai Lê Ninh Thuận bắt vây cánh và phế vua Thiên Hưng làm Lệ Đức hầu, rước con út của Thái Tông là Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Tháng 6 năm 1460, Nguyễn Xí được phong làm khai phủ nghi đồng tam ty, Nhập nội kiểm hiệu thái phó Bình chương quân quốc trọng sự Á quận hầu, giúp việc chính sự. Tháng 10 năm đó ông được phong làm Sái quận công.

Năm 1462, con Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi không hợp cánh với một số đại thần nên làm thơ vứt ra đường để vu cho họ làm loạn nhưng việc bị phát giác. Vua Thánh Tông nể công lao của ông nên không trị tội Sư Hồi.

Năm đó ông được phong chức Nhập nội hữu tướng quốc. Năm 1463 lại được phong chức thái uý.

Năm 1465, Nguyễn Xí qua đời, thọ 69 tuổi, được truy tặng làm thái sư, thuỵ là Nghĩa Vũ.

Theo Đại Việt thông sử, ông có 16 người con trai và 8 người con gái. Con cháu Nguyễn Xí về sau theo giúp nhà Lê trung hưng.

Đền Nguyễn Xí được xây dựng dưới thời Nhà Lê, niên hiệu Quang Thuận thứ 8, năm Đinh Hợi 1467, theo lệnh của nhà vua “Quốc tế, quốc tạo”.  (http://vi.wikipedia.org/)

Thái Sư Nguyễn Xí và biến cố tháng 10 niên hiệu Diên niên thứ 16 (1459)

Nguyễn Xí là người có công đầu trong công cuộc dẹp loạn, đưa Lê Thánh Tông lên ngôi báu mà đã phải trả giá một cách bi tráng có một không hai trong lịch sử. Sử sách đã chép rõ như thế:

Tháng 10 niên hiệu Diên niên thứ 16 (1459), Lạng sơn vương Lê Nghi Dân dùng bọn tay sai Phan Ban, Phạm Đồn, Trần Lăng, ban đêm trèo tường vào cung điện giết vua Lê Nhân Tông, sáng hôm sau, giết nốt Thái hậu, lên ngôi vua, đặt niên hiệu Thiên Hưng,  gây nên cảnh “các quan văn võ phải nuốt hận ngậm đau, nhân dân bốn phương như mất cha mẹ” (Đại Việt sử ký toàn thư). Những bậc quần thần trung thành với triều đại Lê sơ và trên hết là với cơ đồ của giang sơn Đại Việt đã mưu toan công cuộc phản đảo chính. Ngoài những nhân vật chính là Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Niệm, Lê Lăng, còn là: Lê Nhân Thuận,Trịnh Đạc, Nguyễn Đức Trung, Lê Yên, Lê Vĩnh Trường, Lê Bô, Lê Giải, Lê Bảo, Lê Quyết Trung, Lê Nhân Qúi, Lê Lật, Nguyễn Trợ, Nguyễn Ngân, Lê Sư Lộ…và Nguyễn Sư Hồi, trưởng nam của Nguyễn Xí. Nhưng lãnh xướng của công cuộc phản đảo chính này, không ai khác là Nguyễn Xí. Lời dụ của vua Lê Thánh Tông, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Việt sử tổng vịnh của Tự Đức… đều cho thấy như thế. Lúc có sự cố, Nguyễn Xí đang dự  chức Thái Bảo trong triều, đã lấy cớ mắt bị mù, xin  nghỉ việc triều chính về nhà. Bọn phản nghịch đã dùng các phép thử. Chúng cho tay sai chọc ghẹo tỳ thiếp của Ngài. Ngài biết và hỏi: “Mần (làm) chi đó?”.  Chúng nói: “giã chè”.  Ngài nói: “Giã mau lên đun nước ta uống”.  Tiếp theo, chúng đã dùng một phép thử vô cùng ác độc là nhằm lúc Ngài sắp ra sân, chúng đặt người con thứ mười sáu là Duy Tân ở ngay bộc cửa. Biết vậy nhưng Ngài đã cầm lòng vậy đành lòng vậy đạp chết người con măng sữa chưa đầy tuổi tôi trong nỗi đau xé ruột xé lòng. Bọn phản nghịch đã tin nhưng chưa tin trọn. Nhân một bữa yến tiệc, chúng mời Ngài tới dự và biết Ngài là người giỏi về cốt tướng, xem tướng bằng cách sờ nắn xương cốt, đã nhờ xem hộ. Dĩ nhiên cũng là một dịp để chúng dò thêm thái độ của vị Thái Bảo đầu triều này. Ngài đã xem, xem đến đâu khen đến đó. Nhưng đến ót thì tóm lấy cổ, trợn mắt lên, rút dao đã nhét sẵn dưới hài đâm chết Phạm Đồn, hô lực lượng tiếp ứng xông vào giết sạch bè lũ phản nghịch. Sau đó, hạ bệ Lê Nghi Dân; Dẹp xong loạn Lê Nghi Dân, một vấn đề đặt ra là chọn ai lên ngôi vua? Quả là một bài toán khó. Đã có sự tranh chấp trong lời giải. Lê Lăng và một số người chọn Cung vương Khắc Xương   “người đứng đầu trong các con thứ” mà theo Lê Quí Đôn là người sống “phong nhã đạm bạc…chất phác như một nho sinh”.  Nhưng Nguyễn Xí không bằng lòng, bèn rước lập Thánh Tông tức Lê Tư Thành vốn là một phiên vương sống ở ngoại ô mà theo Ngô Sĩ Liên là người có “dáng điệu đứng đắn, thông minh hơn người thường  lại càng che dấu, không lộ anh khí ra ngoài, chỉ vui với sách vở đời xưa, nghĩa lý của thánh hiền …ưa điều thiện, thích người hiền”.  Quả thật trong việc chọn Lê Tư Thành lên ngôi báu để thành Lê Thánh Tông đệ nhất minh quân như thế, rõ ràng Nguyễn Xí đã có cặp mắt thần, có khả năng dự báo siêu đẳng. Sau này có người cho rằng sao Ngài lại đạp chết con. Phải chăng chữ TRUNG NGHĨA đã được Ngài thể hiện một cách tuyệt đối. Đây là một hành động cao cả mang tính chất bi tráng có một không hai trong lịch sử trung đại. Bởi nhìn vào hậu quả của hành động là đưa được Lê Thánh Tông lên ngôi báu, một vị đệ nhất minh quân trị vị 38 năm, đã đưa đất nước lên mức hùng cường ngang độ hùng cường của một số nước trong khu vực. Đã biết tận dụng hơn mặt tích cực của Nho giáo để làm nền tảng tinh thần cho đất nước. Đã mở mang phát triển và bước đầu dân chủ hóa nền giáo dục của nước nhà, biến giáo dục thành quốc sách hàng đầu thực sự. Đã sản sinh cho đất nước nhiều bậc hiền tài đúng với nguyên lý hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Đã chớm có tư tưởng pháp quyền một khi nhà vua đã tuyên bố trước quần thần: Pháp luật là phép công của Nhà nước, ta cùng  các ngươi phải tuân theo. Đã có mầm mống tư tưởng bình đẳng cho phái nữ một khi mà bộ luật Hồng Đức qui định: Con gái đã hứa gả chồng mà chưa cưới, dù đã nhận sính lễ, nếu người chồng bị ác tật hoặc phạm tội, hoặc cửa nhà tan nát thì cho phép người con gái kêu quan để từ hôn và trả đồ lễ. Ngược lại , đã nộp sính lễ mà phía trai vì một lý do không chính đáng mà hủy hôn thì bị phạt 80 trượng và chịu mất sính lễ. Cưới hỏi xong mà năm tháng chồng không ăn nằm với vợ thì vợ có quyền ly hôn. Trường hợp vợ đã có con thì cho hạn một năm. Về tài sản, có ba bộ phận. Của riêng do nhà trai cho chồng. Của riêng do nhà gái cho vợ. Của chung do hai vợ chồng làm ra. Nhưng khi bán tài sản nào phải có chữ ký của cả chồng và vợ. Nhà có con trai trưởng thì ruộng hương hỏa là cho trai trưởng. Phần còn lại chia đều cho con trai và con gái. Trường hợp không có trai trưởng thì trai thứ hưởng hương hỏa hoặc nữ trưởng được hưởng  hương hỏa đó nhưng chỉ hết đời mình. Vợ có quyền hưởng một phần tài sản của chồng. Trường hợp vợ chồng chưa có con, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ hoặc một khi người chồng chết, người vợ ngoài quyền sở hữu tài sản riêng của mình còn được chia một nửa  tài sản riêng của chồng, nếu chết hoặc tái giá thì tài sản này sẽ giao lại cho nhà chồng…Từ sự hy sinh một người con để có một vương triều sán lạn.

Đương thời, trước hành động cao cả mang tính chất bi tráng của Nguyễn Xí, đã xuất hiện bài thơ: “Thiên hạ vĩ bình công mục manh / Thiên hạ dĩ bình công mục minh / Hành khan thế sự chuyển như bình / Như hà bất thính đáo trà thanh”.  (Dịch là: Thiên hạ chưa bình yên thì mắt ông mù /Thiên hạ bình yên rồi thì mắt ông sáng/ Hãy xem cuộc thế như  xoay chuyển cái bình / Lẽ nào lại không nghe tiếng giã trà).

Nguyễn Xí được hoàng đế Lê Thánh Tông hết sức nể vì, tưởng thưởng. Trong tháng sáu năm 1460, từ vị trí là Thái bảo, Nguyễn Xí đã được lên hàng Thái phó đứng thứ hai trong “Tam Thái” , kèm hai chữ tin cẩn: “Nhập nội” và giữ chức Bình chương quân quốc trọng sự (tức Tể tướng), với tước phong Á quận hầu. Đến tháng Mười năm ấy chính thức luận công khen thưởng, tước hiệu của Nguyễn Xí đã được vinh thăng thành Quỳ Quận công (tức: Quận công phủ Quỳ Châu). Ngự chế của nhà vua ban cho Nguyễn Xí, dệt gấm thêu hoa chẳng những công lao mà còn cả tính cách người lập công: “Xướng đại nghĩa để trừ kẻ hung tàn, ngươi đã có công như công yên được nhà Hán; lấy ngôi thượng công mà ban phong thưởng ngươi đáng được cái vinh dự cắt đất phân phong... Giữ mình có đạo, hồn nhiên như viên ngọc không lộ sáng; nghiêm sắc mặt ở triều, lẫm liệt như thanh kiếm mới tuốt... Lúc nước có biến phi thường, chỉ mình ngươi lo cứu vãn. Ngươi thực là bề tôi trung ái của ta...”.

Được thừa nhận là “bề tôi trung ái” , không chỉ của Lê Thánh Tông, mà còn trải liền bốn đời hoàng đế triều đại Lê sơ: từ Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông đến Thánh Tông, trong vòng hơn 30 năm làm người Đông Kinh, như Nguyễn Xí, quả là không dễ dàng. Những danh thần cũng từng là “bề tôi trung ái” và “bằng vai phải lứa” với Nguyễn Xí, thì chẳng hạn như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú... ngay từ đời Thái Tổ đã phải “ngậm cười nơi chín suối”.  Các Đại tư đồ, Đại đô đốc như Lê Sát, Lê Ngân cũng đã mất mạng trong đời Thái Tông. Đến như thiên tài Nguyễn Trãi mà cũng bị nạn “tru di tam tộc” trong buổi giao thời Thái Tông - Nhân Tông. Và chỉ mới đây thôi, không khéo trong việc mưu đồ trừ diệt phe cánh Lê Nghi Dân, nhóm các đại thần Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ, cũng đã bị sát hại!

Vì thế ở vào tuổi 68, vinh hoa phú quý đã đến tột đỉnh ở giữa đô thành Đông Kinh, với chức vụ Hữu tướng quốc. Khi lâm bệnh nặng vào năm Giáp Thân (1464), Nguyễn Xí chắc cũng đã tự biết thanh thản phận mình, nhất là lại còn được cả lời hạ cố dỗ dành chí tâm chí tình của hoàng đế Thánh Tông: “Công người trẫm chưa chút báo, bệnh ngươi sao lại liên miên? Ngươi nghĩ đến nước, thì hãy cơm cháo cố mà điều dưỡng. Ngươi lo đến trẫm, thì hãy thuốc men, dù tê đắng cũng gắng mà uống...” “(Đại Việt sử ký toàn thư). (http://www.vanhoanghean.com.vn; http://www.baoquangngai.vn.)

Nguyễn Xí với ông Hoàng Mười

Đền ông Hoàng Mười hay còn gọi là Mỏ Hạc Linh Từ ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền ông Hoàng Mười là ngôi đền nổi tiếng ở Nghệ An thờ đạo Mẫu Tứ phủ, vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười.

Đền được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê. Hàng năm vào ngày 10 tháng 10 âm lịch là ngày giỗ của ông Hoàng Mười

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà) (http://lichvansu.wap.vn/).

5.7. Nguyễn Tuấn Thiện

Nguyễn Tuấn Thiện (1401-1445) hay Lê Thiện là một danh tướng, khai quốc công thần triều Lê sơ.

Ông là người làng Phúc Đậu, xã Phúc Dương nay là xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khởi nghĩa Lam Sơn, ông được vua ban quốc tính họ Lê nên gọi là Lê Thiện.

Ông là thủ lĩnh, tổ chức nên đội quân "Cốc Sơn” chống quân xâm lược nhà Minh, làm chủ toàn bộ huyện Hương Sơn. Khi nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Đỗ Gia (Hương Sơn ngày nay) ông đã chỉ huy đội quân "Cốc Sơn” phối hợp cùng nghĩa quân Lê Lợi. Lê Lợi đã thu nạp đội quân Cốc Sơn thành nghĩa quân kháng chiến và cùng Nguyễn Tuấn Thiện kết nghĩa anh em cắt tóc, giết ngựa trắng ăn thề, nguyện một lòng giết giặc cứu nước.

Ông được giao chức Thị thần, rồi giữ chức Thống lĩnh quân đội của Châu Hoan và Châu Ái.

Sau khi quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) ông được phong làm Tĩnh nạn Tuyên lực Trung liệt Minh nghĩa Khai quốc Công thần Đô Tổng quản phó Nguyên soái, Trung lãng Đại phu Tá phụng Thánh vệ Đại Tướng quân, tước Đại Trí Tự.

Khi xây dựng triều chính, củng cố quyền lực nhà Hậu Lê, Lê Lợi đã nghi kị và giết hại một số công thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Nguyễn Tuấn Thiện bèn treo ấn từ quan xin về quê ẩn dật. Ông mất năm 1445 thời Lê Nhân Tông, thọ 45 tuổi.

Đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện ở xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. (http://vi.wikipedia.org/)

5.8. Nguyễn Lỗi

Nguyễn Lỗi, một vị tướng tham gia nhiều trận đánh lớn trên đất huyện Đỗ Gia - Hương Sơn, lập căn cứ đánh giặc Minh vùng Nghệ Tĩnh, là 1 trong 18 chiến hữu cận thần của Lê Lợi có mặt trong hội thề Lũng Nhai.

Nguyễn Lỗi là con trai đầu của Tướng quốc Nguyễn Nhữ Lãm, là tứ quốc tính là Lê Lỗi, nay là dòng trưởng tại Thọ Xuân Thanh Hóa. Đời vua Thiệu Bình phong: sĩ chí suy trung tán tri kiêm cung tuyên lực công thần, đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, bình chương quân quốc trạng sư, nhập nội từ đồ phò mã, đô uý thái phó thanh quận công, Nguyễn tướng công, tứ thuỵ giản tinh; Mất ngày 25 tháng 2. Vợ Nguyễn Lỗi là con đầu của vua Lê Thái Tông, hiệu là Yên Quốc, quốc trưởng công chúa, tên uý là Minh Tú, mất ngày mồng 6 tháng giêng.

Ông là một vị tướng tham gia nhiều trận đánh lớn trên đất huyện Đỗ Gia - Hương Sơn, lập căn cứ đánh giặc Minh ở vùng Nghệ Tĩnh. Ông là một trong 18 người chiến hữu cận thần của Lê Lợi có mặt trong hội thề Lũng Nhai ở đất Lam Sơn vào năm 1417. Sau ngày chiến thắng quân Minh xâm lược, ngày 5/3/1428 Lê Lợi ban biển ngạch công thần cho 93 người, Nguyễn Lỗi được xếp thứ 17 trong số 93 vị khai quốc công thần triều Lê, được ban quốc tính họ Lê. Ngày7 /11/1434 Đình thượng hầu, Thượng tướng quân Nguyễn Lỗi mất khi ông đang giữ chức vụ Tây đạo hành khiển - tả bộc xạ. Xét công lao của ông đối với sự nghiệp giúp dân cứu nước, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông vào hàng ngũ các công thần tiết nghĩa. (http://vi.wikipedia.org/)

Đền thờ Nguyễn Lỗi nằm nép mình dưới chân núi Bạch Mã thuộc làng Bảo Thịnh xã Dương Trai huyện Hương Sơn, nay là xã Sơn Bình huyện Hương Sơn.

Đền thờ Nguyễn Lỗi được cấu trúc theo kiểu chữ Nhị (=) bao gồm 2 bộ phận chính là hạ điện và thượng điện. Hạ điện có kết cấu kiến trúc ngang kiểu chữ nhất, gồm 3 gian 2 hồi xây tường bít đốc. Mái được lợp ngói âm dương, trên nóc mái có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Kết cấu nội thất nhà được kiến trúc theo kiểu tứ trụ “nội kẻ cầu, ngoại kẻ mái” rất phổ biến trong các làng quê Nghệ Tĩnh. Thượng điện kết cấu gồm 3 gian 2 hồi, xung quanh xây tường bít đốc, mái lợp ngói âm dương, trên đỉnh nóc mái ở chính giữa được đắp nổi hình hổ phù đội mặt trời, 2 đầu là hình đầu rồng được đắp nổi bằng vôi vữa và các mảnh sành sứ cố ghép lại. Nội thất có các bàn thờ Nguyễn Lỗi và hậu duệ của ông, có đầy đủ các đồ thờ theo truyền thống. (https://vietnamtourism.com.vn/). Đây là di tích danh nhân lịch sử, niên đại TK 15, được xếp hạng 28/12/2001.

5.9. Nguyễn Đức Trung

Nguyễn Đức Trung (1407-1477), hay 'Nguyễn Văn Thường, danh thần thời Hậu Lê, người được xem là cao tổ của Nguyễn Đức. Ông là Thụy Quận công có tên húy là Nguyễn Đức Trung, tự Phấn Cường, thụy Đức Nhân, quê ở xã Quế Ổ, tổng Đại Toán, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Đức Trung là con thứ năm của Hào Quận công, thuộc đời thứ 9 của họ Nguyễn Đức - một gia tộc lớn, có truyền thống thượng võ nổi tiếng ở xứ Kinh Bắc. Sách “Lê Quý Kỷ sự” ca ngợi: “Họ Nguyễn Đức ở Quế Ổ từ khi Lê Trung Hưng về sau nối đời làm tướng, trong họ có tới 18 người được phong tước quận công, họ hàng to và mạnh nhất ở Kinh Bắc”.

 Ông có tài chỉ huy quận đội, trong những năm niên hiệu Thịnh Đức đời Lê, phụng mệnh thảo phạt giặc ở Cao Bằng, Hoa Sơn, Thất Nguyên, không bọn nào mà không đánh thắng. Được tiến phong Đô Đốc Thụy Quận công”

 Trong thời gian nhậm chức, Quận công Nguyễn Đức Trung không chỉ có lòng công đức tiền của lớn cho chùa Mộ Đạo mà còn công đức lớn cho đình Trại Kê, thôn Xuân An, xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Nhân dân địa phương đã thờ Thụy Quận công ở đình này. Hiện nay trên thượng cung đình làng vẫn còn một ngai thờ có bài vị. Cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh đã phối hợp với đại diện họ Nguyễn Đức ở xã Chi Lăng cùng chính quyền thôn Xuân An, xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng và cán bộ Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, đến nghiên cứu xác định rõ: Thụy Quận công Nguyễn Đức Trung thuộc gia tộc có truyền thống thượng võ ở Bắc Ninh. Ông không những được gia tộc xây dựng nhà thờ riêng tại địa phương, được thờ hậu ở chùa Phúc Thánh, xã Mộ Đạo - mà còn được thờ ở di tích đình Trại Kê, thôn Xuân An, xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

 Bên cạnh đó, gia tộc Nguyễn Đức và Bảo tàng tỉnh thực hiện việc phục chế ngai thờ - bài vị ở đình Trại Kê (Bắc Giang) để gia tộc thờ tại địa phương và Bảo tàng tỉnh lưu trữ làm minh chứng sâu sắc hơn về Thụy Quận công Nguyễn Đức Trung - nhân vật được thờ ở di tích hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. (http://www.bacninh.gov.vn/).

5.10. Nguyễn Trực

Nguyễn Trực (chữ Hán: 阮直, 1417 - 1474), hiệu là Hu Liêu, tự là Công Dĩnh, quê xã Bối Khê huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Ông đỗ đầu trong số đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (tức trạng nguyên) năm 1442 đời vua Lê Thái Tông.

Nguyễn Trực sinh ngày 16 tháng 5 năm Đinh Dậu (1417), trong một gia đình nho học. Ông nội là tiến sĩ Nguyễn Bính, giữ chức Nho học huấn đạo giáo quan Quốc Tử Giám, thời vua Trần Hiến Tông. Bố của Nguyễn Trực là tiến sĩ Nguyễn Thời Trung

Nguyễn Trực lên 12 tuổi đã giỏi văn. Năm 1434, Nguyễn Trực đi thi Hương và đỗ đầu.

Năm Nhâm Tuất (1442), ông dự kỳ thi Đình và đỗ Trạng nguyên, trở thành trạng nguyên đầu tiên nhà Hậu Lê.

Ông được vua Lê Thái Tông ban sắc Quốc tử giám thi thư thưởng hàm Á Liệt khanh, đứng đầu trong danh sách 33 tiến sĩ cùng khóa được lưu danh ở bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Khoa thi nho học năm 1442 là khóa đầu tiên được lưu vào văn bia, và khoa thi này doNguyễn Trãi làm chủ khảo.

Năm 1444, đời vua Lê Nhân Tông, ông được bổ làm Trực học sĩ Viện hàn lâm, kiêm Vũ kỵ úy. Ít lâu sau ông được thăng làm An phủ sứ Nam Sách. Khi trở về triều, Nguyễn Trực được bổ nhiệm làm Thị giảng, kiêm Ngự tiền học sinh cục thứ hai Viện Hàn lâm. Sau đó ông được thăng tới chức Trung thư thị lang ở sảnh Trung thư.

Năm 1445, ông được phong Thiếu trung khanh đại phu Ngự sử đài Ngự sử thị Đô úy, ông từ chối, vua Lê Nhân Tông phải ra sắc dụ tới 3 lần ông mới chịu nhận.

Ngoài ra, trong sự nghiệp của mình, Nguyễn Trực còn từng giữ các chức: Thự trung thư lệnh, Tri tam quán sự, đặc thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc tử giám Thăng Long.

Nhà thờ Trạng nguyên Nguyễn Trực tại xã Tam Hưng, Thanh Oai (Hà Nội) được công nhận di tích lịch sử quốc gia Việt Nam theo Quyết định số 318/QĐ-BVHTTDL ngày 26-1-2011 của Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch Việt Nam, lễ công nhận diễn ra ngày 20 tháng 4 năm 2011

Ông là lưỡng quốc trạng nguyên. Theo bài viết trên báo Bình Dương thì năm 1457, vua Lê Nhân Tông triệu ông vào triều để tiếp sứ thần nhà Minh, là Hoàng Gián. Nhờ đối đáp tài tình ông khiến sứ giả nhà Minh khâm phục. Sau đó ông được cử đi sứ, cùng phó sứ là Trịnh Khiết Tường (có thể là Trịnh Thiết Trường), sang kinh đô nhà Minh. Sang tới Bắc Kinh, gặp kỳ thi Đình, vì muốn cho nhà Minh biết tài học của người Việt, ông đã ứng thi và đỗ Trạng nguyên nhà Minh, trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên. Trịnh Khiết Tường (hay Thiết Trường đỗ Bảng nhãn triều Minh. Trở về nước cả ông và phó sứ Tường (hay Trường) đều được phong chức Thượng thư.

Theo bài viết Những ông nghè triều Lê (số 4), Nguyễn Trực, của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đăng trên Tạp chí Tri Tân số 28, mục Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam, thì: "...Năm Nhân Tôn Thái Hòa (1443-1454) làm Hàn lâm học sĩ, Võ kỵ uý, rồi được phong làm An phủ sứ ở Nam Sách, thăng Hàn lâm viện thị giảng, kiêm Ngự tiền học sinh, hai cục thị cận và thị ngự tiền, làm Trung thư thị lang, vâng mệnh đi sứ Tàu; gặp kỳ thi, ông là bồi thần, xin ứng cử, lại đỗ tiến sĩ cập đệ, cho nên đời bấy giờ gọi là "lưỡng quốc trạng nguyên"..."

hưng cổ nhất và chính xác nhất là cuốn sách Kiến văn tiểu lục, quyển XII-Tùng Đàm (Truyện góp), của Lê Quý Đôn lại cho rằng toàn bộ câu truyện này là một câu truyện dân gian truyền miệng, mà nguồn gốc là do vua Lê Thánh Tông vì yêu quý Nguyễn Trực, khi ban mũ áo cho ông, đã ra bỡn đầu đề đùa trêu để Nguyễn Trực nghĩ soạn ra câu chuyện, chứ không có thật. Lê Quý Đôn viết: "Tục truyền khoảng niên hiệu Thái Hòa (1443-1453), bảng nhãn Trịnh Thiết Trường và trạng nguyên Nguyễn Trực cùng phụng mệnh sung vào sứ bộ sang Trung Quốc, gặp lúc triều đình Trung Quốc mở khoa thi, hạ lệnh cho bồi thần các nước được cùng với cử nhân Trung Quốc dự thi một thể..."

Là người con trung nghĩa vẹn toàn của Thăng Long, Nguyễn Trực được người dân đời đời ghi nhớ. Tên của ông được đặt cho một con phố ở Hà Nội và ngay tại quê hương Thanh Oai của ông cũng có một trường Trung học cơ sở mang tên ông - Trường THCS Nguyễn Trực.

Hiện nay, di tích Từ đường Trạng nguyên Nguyễn Trực - nơi nhà xưa của ông nằm ở làng Bối Khê, thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai đã được trùng tu và được Bộ Văn hóa Thể thao du lịch trao bằng công nhận Di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. (http://vi.wikipedia.org/).

5.11. Nguyễn Như Đổ

Nguyễn Như Đổ (chữ Hán: 阮如堵; 1424-1526) là nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà giáo dục thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Như Đổ có tên tự là Mạnh An, hiệu là Khiêm Trai. Ông vốn người gốc làng Đại Lan, huyện Thanh Đàm, nay là thôn Đại Lan thuộc xã Duyên Hà huyện Thanh Trì, Hà Nội, sau đó di sang làng Tử Dương (làng Tía), huyện Thượng Phúc, nay thuộc xã Tô Hiệu huyện Thường Tín, Hà Nội, Việt Nam.

Sự nghiệp

Nguyễn Như Đổ đỗ Hội nguyên khoa Nhâm Tuất (1442) đời Lê Thái Tông, sau đó ông đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ tên xếp thứ hai, tức là mở đầu bảng nhãn thời Hậu Lê.

Mùa đông năm 1443 đời Lê Nhân Tông, ông giữ trọng trách soạn chế cáo trong Viện Hàn lâm. Sau đó ông vâng mệnh Nguyễn thái hậu (nhiếp chính) làm phó sứ, đi sứ nhà Minh để tạ phúng vua Lê Thái Tông mất. Khi trở về, ông được phong làm An phủ sứ lộ Quy Hóa.

Năm 1449, ông được thăng làm trực học sĩ.

Năm 1450, ông lại làm phó sứ sang nhà Minh lần thứ hai.

Tháng 10 năm 1459, anh vua Nhân Tông là Lạng Sơn vương Nghi Dân giết vua cướp ngôi. Lê Nghi Dân đặt niên hiệu là Thiên Hưng, trong tháng đó sai Nguyễn Như Đổ, Lê Cảnh Huy đi triều cống nhà Minh và xin bỏ việc mò ngọc trai.

Trong khi ông sang nhà Minh thì các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Nguyễn Đức Trung... cùng nhau làm binh biến giết chết vua Thiên Hưng, lập hoàng tử Tư Thành lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.

Sang năm 1460, Nguyễn Như Đổ trở về, vẫn được Thánh Tông trọng dụng. Tháng 12 năm đó, ông được phong làm Lại bộ Thượng thư, lại thêm chức Tả ty sảnh Môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, kiêm Thừa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm. Sau đó ông lại kiêm cả Thượng thư Bộ Lễ, đại học sĩ điện Cẩn Đức, tân khách của thái tử Lê Tranh. Ông kiêm cả chức Đề hiệu quan chấm trường thi trong 2 kỳ thi điện năm Bính Tuất (1466) và Kỷ Sửu (1469).

Năm 1470, ông lãnh trách nhiệm cùng đi đánh Chiêm Thành. Trước khi toàn quân lên đường, ông được lệnh tế đền thờ Đinh Tiên Hoàng để cầu thắng trận. Trên đường đi, ông bị vua khiển trách phải trở về.

Sau khi Thánh Tông thắng Chiêm trở về kinh, lại trọng dụng ông, cho làm Thượng thư Bộ Lại, thêm chức Thiếu bảo, kiêm tế tửu Quốc Tử Giám. Hơn 10 năm sau, vì tuổi cao sức yếu, ông xin nghỉ hưu.

Năm 1526 đời Lê Cung Hoàng, ông mất, thọ 103 tuổi. Ngày nay ở quận Đống Đa, Hà Nội có phố mang tên Nguyễn Như Đổ.

Nhà thơ

Thơ văn của Nguyễn Như Đổ được lưu truyền sang đời sau, nhưng đến nay chỉ còn lại 6 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Bài thơ nổi tiếng nhất là Thành Nam viên cư:

Nam thành bốc trúc kỷ kinh xuân

Dược phố, sơ huề thử thứ tân

Tiểu kính bất hiềm thông tử mạch

Đoản ly khước hỷ cách hồng trần

Trí đường vũ quá oa thanh náo

Đình viện âm nung, điểu ngữ tần

Hoa trúc khả cung u đạm hứng

Triều hồi nhật nhật lạc vong bần

Nhóm Lê Quý Đôn dịch:

"Nhà ở trong vườn phía nam thành"

Nhà dựng nam thành trải mấy xuân

Đám rau vườn thuốc mở mang dần

Chẳng e lối hẻm liền đường tía

Lại được rào thưa cách bụi trần

Mưa tạnh ếch kêu hồ rộn tiếng

Cây râm chim hót bóng đầy sân

Trúc hoa sẵn đủ mùi thanh đạm

Mỗi buổi chầu tan hưởng thú bần

Nhận định

Nguyễn Như Đổ là một trong 2 vị đại khoa trẻ nhất trong các vị khoa bảng của Thăng Long. Ông có tài kiêm chính trịngoại giao và giáo dục, là tài năng hiếm có. Phan Huy Chú viết về ông:

Ông lúc trẻ thi đỗ khôi nguyên, khi lớn làm quan to, lên được cõi thọ trăm tuổi, trải qua 8 triều [vua], cũng là sự ít có trong hoạn đồ. (https://vi.wikipedia.org)

5.12. Nguyễn Nghiêu Tư

Nguyễn Nghiêu Tư (chữ Hán: 阮堯咨, ? - ?), hiệu là Tùng Khê, tên tự là Quân Trù, thuở nhỏ còn có tên tục là Trư vì đẻ tháng Hợi, người huyện Vũ Ninh, phủ Từ Sơn. Tài liệu của Viện Hán-Nôm còn ghi thêm là người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Ông là một trạng nguyên thời nhà Lê sơ làm quan đến chức Thượng thư

Đầu năm Thiên Hưng thứ nhất (tháng 10 âm lịch năm 1459) thời Lê Nghi Dân, ông được cử cùng Lê Cảnh HuyNguyễn Như Đổ, Hoàng Thanh sang nhà Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai. Tài liệu của Viện Hán-Nôm lại ghi là ông được cử làm Phó sứ (năm 1460) sang nhà Minh (Trung Quốc) cầu phong (thụ phong vương của nhà Minh cho vua Lê của Đại Việt) trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng ...Ngày 20, lại sai bọn Trần Phong, Lương Như HộcTrần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong.... Sau đó, ông được thăng lên Lại bộ thượng thư (chưởng lục bộ). (http://vi.wikipedia.org/)Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời Lê Nhân Tông, làm quan Hàn lâm trực học sĩ, An phủ sứ lộ Tân Hưng Thượng.

Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên đặt tên là Nguyễn Văn Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “Trư” nghĩa là lợn). Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, lúc nhỏ có lần cùng bố đi bắt lợn, gặp kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi:- Ông gì thế bố? Người cha đáp:- Ông Trạng! Trư nói:- Lớn lên con cũng làm ông Trạng! Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe:- Tao là quan Trạng! Có người khách lỡm:- Trạng dở hay trạng nguyên? Ông buột miệng:- Khách quen hóa khách lạ! Hai câu ứng khẩu hợp thành câu đối khá hay. Cạnh làng ông là làng Yên Đinh đất học, có cụ đồ sang chơi ra cho trạng vế đối, mang đề tài lợn, nghề sinh sống của nhà này:- Lợn cấn ăn cám tốn (ý là lợn có chửa ăn hết nhiều cám nhưng Cấn và Tốn là hai quẻ trong bát quái). Trạng đối ngay:- Chó khôn chớ cắn càn. Câu đối xấc xược làm cụ đồ cay đắng, song vế đối chỉnh quá, chó khôn đừng cắn bậy, mà Khôn và Càn cũng là hai quẻ trong bát quái. Cụ đồ khuyên bố mẹ Trư cho Trư đi học. Chính cụ đồ bị ông đối xược ấy dạy ông năm mới 8 tuổi, ông học rất giỏi, nghe một biết mười, lễ phép, chuyên cần, bạn học có người gấp rưỡi, gấp đôi tuổi đều thương mến. Những ngày trời mưa bạn thường cõng ông qua chỗ lội. Khi ở nhà lúc nào ông cũng chăm lo đèn sách, khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ. Đến khi “biết chữ” , thầy đồ gửi ông ra học cụ Vũ Mộng Nguyên người xã Đông Sơn, huyện Tiên Du, đỗ Thái học sinh không làm quan nhà Hồ về dạy học. Ông là học trò tiêu biểu nhất của cụ Vũ Mộng Nguyên, đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông. Tương truyền đêm trước ngày thi đình vua Nhân tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng, vua sai xa giá xem bảng thấy trạng tân khoa là Nguyễn Văn Trư, dân gian coi yết bảng cứ kháo thành vè “Long đầu lợn-Nguyễn Văn Trư” , vua liền đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư. Ông làm quan đến chức An phủ sứ Hàn lâm Trực học sỹ, đi sứ nhà Minh lại phong Lại bộ thượng thư, về phong Chưởng lục bộ thượng thư. Khi vinh quy bái tổ, dân làng nghè ở Phù Lương thị (chợ làng Phù Lương), tức làng Giùng, chợ Giùng để đón, còn đến thời kháng chiến chống Pháp dân vẫn gọi là Nghè quan Trạng. Khi về hưu vua phong “Thượng quốc công chí sỹ” và vợ được hàm “nhất phẩm phu nhân”. Năm 1459 Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai ông đi sứ cầu phong, nhà Minh hoạch: “Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua?” Nghiêu Tư trả lời:  “Đường Thái tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?” Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý nhà Minh đành nhận phong vương. Lúc đi khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên coi cửa ải nhà Minh ỷ thế nước lớn, ngạo mạn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ mà không mở cửa đón tiếp. Trạng nói: “Ý các người muốn coi người Minh là “tung hoành vũ trụ”.  Đã vậy thì Đại Việt ta đây “bao quát càn khôn” , rồi sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa tết mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy. Viên quan coi ải khiếp phục, mở cửa quan nghênh tiếp sứ giả. Vào đến Yên Kinh, Trạng vào yết kiến vua Minh. Nhà vua muốn thử tài sứ giả, ngầm sai trong hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ Kính Thiên treo ở giữa, bầy đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh đặt nghi vệ sang trọng như chỗ giường ngủ của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi đó không. Khi sắp yến tiệc họ đưa trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, quan Minh ra hoạch: Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ gì? Trạng ta bình thản: Dám thưa, ngài lấy cớ gì cho sứ thần tôi là ngạo? Biển đề hai chữ Kính Thiên, chiết tự ra là kính nhị nhân (chữ thiên là giời, tách ra là hai chữ nhị nhân là hai người) thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế chúng tôi quyết không chịu. Vả nghe cổ nhân có nói: “Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực”.  Tôi nghe Thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả nước xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa. Viên quan nhà Minh thấy trạng nói chẻ hoe như đã rõ gan ruột từ trước, vội vàng nói: Xin quý ngài xá lỗi. Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem ngài có phải là bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà biết trước được như thế còn hề chi?

Trong thời gian ở Trung Quốc ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên.

Song vì ông sinh ra trong nhà bán thịt lợn, tên là Trư và gọi là Lợn, đã là lợn thì phải học dốt. Dân mới bịa ra chuyện rằng thày dạy “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng” , ông đọc ra “thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng”. ..Thế mà đỗ Trạng nên mọi chuyện gặp may được bịa ra như bia “hạ mã” ông đọc là “bất yên” thì tự dưng trong làng có đám cháy, con gái Bùi tướng công tên là Phấn ra vế đối “bát đao phân mễ phấn” ông không đối được mới chép vào bảo lúc thi đỗ sẽ đối, vào triều đề thi là “thiên lý trọng kim chung” , ông đem đối vào rồi lại đem vế ấy về đối ở nhà Bùi tướng công, hay tuyệt vừa đỗ Trạng vừa được vợ, rồi chuyện cầu mưa, xử kiện, xem bói, đối chữ ở Trung Quốc... thảy đều gặp những sự may mắn, trùng hợp đến lạ lùng. Nghệ sỹ dân gian nào đó đã chép thành chuyện Trạng Lợn mà ta thường đọc. Cực đoan hơn nữa, ở Hà Nam có hẳn sách Trạng Lợn dài 18 hồi theo kiểu chương hồi Tam Quốc chí. (http://baobacninh.com.vn/)

5.13. Nguyễn Sư Hồi

Nguyễn Sư Hồi. Nguyễn Sư Hồi sinh ngày 26 tháng 5 năm 1444; là con trai trưởng của Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí, quê gốc ở làng Thượng Xá - huyện Chân Lộc, nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Cha là một đại thần được Vua Lê tin sủng, được lịch sử tôn vinh là “hai lần khai quốc” và mẹ là bà Lê Thị Ngọc Lân, một phụ nữ dòng dõi tôn thất thông minh, xinh đẹp. Được sinh ra trong một gia đình dòng dõi nhà quan lại hết lòng trung hiếu, nên Nguyễn Sư Hồi đã sớm thừa hưởng truyền thống danh giá của gia đình.

“Dẹp giặc, yên dân, nghĩa khí ngàn năm ghi nhớ

Khai cơ, lập nghiệp, công ơn muôn thuở lưu truyền”.

Hai câu thơ nổi tiếng ca ngợi công đức của Thái uý đô đốc Quận công Nguyễn Sư Hồi mà không người dân bản địa nào không biết đến. Dù ông đã mất cách đây 573 năm nhưng tên tuổi và công lao khai cơ lập làng Vạn Lộc - tức phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò ngày nay cùng với những chiến công hiển hách trong đánh giặc ngoại xâm, và trấn giữ 12 cửa lạch của ông mãi mãi được lưu truyền trong sử sách.

Ngay từ nhỏ ông đã biểu lộ tư chất thông minh nhanh nhẹn, lại được cha mẹ mời nhiều thầy đồ giỏi về tư dinh dạy học. Cùng với cuộc sống sung túc của một gia đình quan lớn, thường giao lưu tiếp xúc với con cháu nhà vua và quan lại triều đình, lại theo học tại các võ đường nổi tiếng của đất Thăng Long, ở trường ông chăm chỉ học chữ, học võ, học lễ, còn ở nhà dưới sự kèm cặp của cha và các thầy đồ nho ông đọc thông kinh sách của đạo nho đạo phật, có kiến thức uyên sâu về văn học, giỏi cả chữ hán, phong thủy và cả y học cổ truyền.

Năm 15 tuổi, Nguyễn Sư Hồi đã có thân hình tráng kiện, dáng vẻ oai phong như một võ tướng. Với sự thông minh và khổ luyện, ông đã tiếp thu các bộ sách binh thư, binh pháp của nhiều nhà quân sự lỗi lạc như: Trần Hưng Đạo, Thái Công Vọng, Ngô Khởi, Lý Trình... So với bạn cùng thời, cùng trường, Nguyễn Sư Hồi nổi lên như một ngôi sao ở đất Thăng Long trong các môn như: Đấu kiếm, lăn khiên, cưỡi ngựa... Dù sớm là người nổi tiếng với tài văn võ song toàn nhưng dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc của gia đình, Nguyễn Sư Hồi vẫn luôn giữ được phong cách, phẩm chất đạo đức giản dị và có hiếu với mẹ cha.

Rồi trong những chuyến du xuân về quê nội ở làng Thượng xá, cùng cha bái yết tổ tiên đã dạy cho ông về đạo  lý “cây có gốc, nước có nguồn”.  Hay những chuyến đi kinh lý tuần du cùng cha đã khiến ông mở mang đầu óc và thấu hiểu được cuộc sống và gần gũi với nhân dân. Chính từ những điều đó đã tôi luyện, giúp Nguyễn Sư Hồi trở thành một vị tướng có tài và yêu dân như con sau này.

Cửa Xá là nơi sông Cấm đổ ra biển. Từ cửa Xá, theo đường thủy, thuyền đi ngược dòng sông Cấm lên phía tây nam là kênh Kẻ Gai, kênh Chính Đích, rồi gặp sông Lam; từ đó, ngược dòng sông Lam đi lên nữa là các huyện miền Tây Nghệ An. Bao bọc cửa Xá, ba bề, bốn bên là núi. Phía hữu ngạn cửa Xá, là dãy Tượng Sơn cao trên 200m; phía tả ngạn, là ngọn Kiếm Sơn; sau lưng, là hòn Động Đình; phía trước mặt là dãy Hoàng Lao... Các ngọn núi này như những bức tường thành tự nhiên che chắn cho Cửa Xá. Cửa Xá cũng từng là địa giới giữa hai huyện Chân Lộc và Hưng Nguyên trong lịch sử. Và câu chuyện mà Thái uý quận công Nguyễn Sư Hồi lập ra làng Vạn Lộc đến nay nhân dân vẫn lưu truyền với lòng tôn kính ngưỡng vọng. Thần phả đền Vạn Lộc và nhiều tài liệu lịch sử địa phương cho biết: Vào khoảng năm 1469, Thái úy, Đô đốc Nguyễn Sư Hồi được giao chỉ huy lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển phía Nam quốc gia Đại Việt, gồm 12 cửa lạch kéo dài từ cửa biển Sầm Sơn (Thanh Hóa) vào đến Cửa Tùng (Quảng Trị). Ông đã chọn vùng cửa Xá cạnh làng Thượng Xá quê hương làm đại bản doanh.

Tại đây, ông chăm lo công việc tuần tra, xây dựng tuyến phòng thủ ven biển dài từ mũi Gươm đến đồn tiền tiêu. Tuyến phòng thủ này không chỉ có tác dụng chắn sóng mà còn là bức tường thành giúp cho sự phối hợp giữa thủy binh và bộ binh được tốt hơn mỗi khi có giặc Chàm sang xâm phạm. Trải qua thời gian, biến đổi dấu tích của kè đá vẫn còn, tuy không nguyên vẹn nhưng đã ghi dấu chứng tích về công lao to lớn của ông đối với nhân dân Vạn Lộc. Bên cạnh mở mang, bảo vệ sự bình yên cho vùng đất, Nguyễn Sư Hồi còn quan tâm phát triển kinh tế, chiêu tập dân cư, dùng các tù binh để khai phá đất đai, đắp đê ngăn mặn. Bằng kiến thức và tài năng của mình, ông đã truyền dạy cho dân chúng hai nghề chính là nông nghiệp và ngư nghiệp. Nông nghiệp để nhân dân mở mang bờ cõi, đất đai, biết trồng trọt chăm bón trên chính mảnh đất của mình. Song mạnh nhất là đánh bắt hải sản. Bởi nơi đây là một vùng biển hoang sơ với nguồn hải sản phong phú dồi dào. Cũng từ đó đến nay, cuộc sống của người dân Vạn Lộc gắn với nghề chài lưới. Đặc biệt, Nguyễn Sư Hồi đã tuyển người đóng tàu thuyền giỏi ở ngoài Bắc vào để phục vụ sửa chữa và đóng mới tàu thuyền cho hạm đội. Chính vì vậy mà làng Vạn Lộc và làng Trung Kiên ở hai bên cửa biển (Cửa Lò) có nghề đóng tàu thuyền thủ công nổi tiếng cho đến ngày nay.

Với tấm lòng trung nghĩa, yêu dân như con, ông đã dồn hết tâm sức để xây dựng, phát triển vùng đất Cửa Xá, biến mảnh đất cằn cõi hoang sơ thủa ban đầu thành một địa bàn dân cư sầm uất, có tên gọi là làng Hải Ngung. Vào khoảng năm 1493, làng Hải Ngung đổi thành làng Hải Giang. Về sau đổi thành làng Vạn Lộc và duy trì tên gọi này cho tới sau cách mạng tháng Tám, năm 1945. “Vạn Lộc” là tên chữ của làng được Nguyễn Sư Hồi đặt với một ý nghĩa hết sức lớn lao đó là “muôn lộc đổ về đây”.  Cũng từ mong muốn đó mà Nguyễn Sư Hồi đã đặt nền tảng đưa vùng đất này trở thành một làng quê trù phú giàu truyền thống lịch sử văn hóa và trở thành một trong những vùng đất văn hiến của xứ Nghệ.

Ông mất ngày 21 tháng 5 năm 1506. Theo di chúc của ông, triều đình cho mai táng thi thể ngay tại vùng Lùm Cò gần đồn tiền tiêu Cửa Xá để hương hồn ông tiếp tục được cùng quan quân cánh giữ cửa Biển “thập nhị Hải môn” cũng như chứng kiến sự đổi thay của vùng đất mà ông đã khai sinh lập địa. Tưởng nhớ công đức của Thái Uý Quận Công Nguyễn Sư Hồi, 3 năm sau ngày ông mất nhân dân địa phương đã xây cất lại phần mộ và tôn ngài làm Thần hoàng. Về sau, đền thờ Nguyễn Sư Hồi được dời về vùng đất trước mặt dòng sông Cấm hiện nay. Trải bao tác động của thiên tai, địch họa, đền Vạn Lộc thờ Nguyễn Sư Hồi - Người - "một thuở mang gươm đi mở cõi” vẫn trường tồn đến ngày nay. Hàng năm, cứ vào dịp rằm tháng Giêng, nhân dân làng Vạn Lộc và nhân dân Cửa Lò lại tổ chức lễ hội để ghi nhớ công đức của ngài. Xứng đáng với những đóng góp to lớn của ngài, đền Vạn Lộc - đền thờ Thái uý Quận công Nguyễn Sư Hồi đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia vào năm 1991. (http://dulichcualo.com.vn/).

5.14. Nguyễn Bá Ký

Nguyễn Bá Ký (?-1465) là đại thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Bá Ký người làng Vân Nội, huyện Chương Đức, nay là khu vực huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.

Năm 1448 đời Lê Nhân Tông, ông đỗ Hoàng giáp. Sau đó ông làm Tri chế cáo Viện Hàn lâm, rồi thăng Trực học sĩ.

Năm 1452, ông làm Phó sứ sang Trung Quốc chúc mừng vua Minh Đại Tông lập thái tử. Khi trở về, ông làm Tả tư ở tòa Trung thư, và tòa Kinh diên, kiêm chức Thượng kị đô úy, cai quản các cuộc lễ hầu cung vua.

Đầu thời Lê Thánh Tông, ông cùng Nguyễn Trực soạn văn bia Dương lăng. Sau đó Nguyễn Bá Ký làm Tế tửu Quốc Tử Giám, kiêm Đại học sĩ điện Văn minh. Tài đức của ông được vua Lê Thánh Tông quý trọng ban hiệu là "Vân Phong tiên sinh". Ông thường khuyên vua Thánh Tông nên dẫn điển tích trong kinh sử.

Năm 1465, ông mất, Lê Thánh Tông sai quan mang sắc đến dự cùng bài văn tế tỏ lời tiếc thương.

Thơ văn ông thâm trầm, trong Toàn Việt thi lục còn sao chép một số bài đề là Quá Nhuận Hồ cựu đô (Qua đô cũ nhà Hồ).

Em ông là Nguyễn Bá Kỳ cũng là bậc đại khoa có danh tiếng đương thời, đỗ đồng tiến sĩ năm 1463.

Cháu ông là Trần Phỉ đỗ thám hoa thời Lê Uy Mục, sau này làm quan cho nhà Mạc, làm đến chức Thượng thư Bộ Binh rồi Thiếu phó, tước Lai quận công (https://vi.wikipedia.org).

5.15. Nguyễn Phục 

Nguyễn Phục (阮伏) - Đông Hải Đại Vương (chữ Hán: 東海大王) hay còn gọi Phục Công 
(伏公) là một vị quan thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là người Hải Dương

Ông quê Thôn Đông, xã Đoàn Tùng (sau đổi là Đoàn Lâm), huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), năm 20 tuổi tức năm Thái Hòa thứ mười (1453) thi khoa Quý Dậu, đỗ Đệ Tam Giáp Đồng Tiến Sĩ. Ông làm quan tới chức Hàn Lâm Viện Đông Các Đại Học Sĩ, rồi làm chức Phó tả thị giảng (dạy vua học). Ông có công tu sửa chùa cổ thờ Đại Thánh Pháp Vũ Đại Quang Vương Phật ở huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân. Đích thân ông đã dựng nhà ở làng Đặng Xá (nay thuộc huyện Kim Bảng, Tỉnh Hà Nam) để lo việc tu sửa chùa, thờ cúng các linh tích và giúp đỡ dân nghèo.

Khi vua Lê Thánh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành, Nguyễn Phục giữ chức Đô Chỉ Huy Sứ đốc vận chuyển quân nhu. Khi xuất phát đi tiếp tế quân lương gặp bão lớn ở cửa Lạch Trào (cửa Hới), Thanh Hóa, ông quyết định chờ tan bão mới đi, thuyền quân lương bị chậm vài ngày. Quân luật khép ông vào tội Bất tuân quân lệnh, xử tội chém vào ngày 20 tháng 10 năm Canh Dần (1470). Ông được mai táng tại Nam Đường, nay là xã Quảng Trường, Sầm Sơn, Thanh Hóa.

Trong dân gian lưu truyền sự tích việc sau khi vua Lê Thánh Tông thắng trận rút quân về theo đường biển lại gặp bão lớn, đành dừng lại, vua lo lắng không yên. Đêm ngủ vua mộng thấy như hồn Nguyễn Phục cung kính xin hộ giá vua trở về. Sáng ra thấy quả nhiên sóng yên biển lặng thì Lê Thánh Tông mới ngộ ra đã giết oan vị quan có trách nhiệm. Ông truy tặng sắc phong Nguyễn Phục làm Thần Đông Hải Long Vương và dựng đền thờ tại 72 nơi. Vua Lê Dụ Tông ban sắc phong cho ông là phúc thần, tước Uy Linh Hiển Ứng Dực- Thánh Hộ Quốc Phù Tộ Bảo An Thượng Đẳng Thần.

Hiện còn đền thờ ông ở Đặng Xá, xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, Tỉnh Hà Nam (là Thành hoàng của làng) và tại làng Phú Xá, Quảng Xương, Thanh Hóa. Năm 1965, đình làng Đặng Xá bị phá để xây nhà kho, sân phơi của Hợp tác xã nhà nước và làm nhà trẻ; đến năm 2006, đình đã được xây dựng lại trên nền đất cũ và khánh thành ngày 25 tháng 11 năm 2007.

Đến nay, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam còn lưu lại một di cảo chữ Hán "Đông Hải Đại vương sự tích” kể về sự tích của ông, không rõ tác giả và năm phát hành. Năm 2004, Ngô Đức Thọ, và Nguyễn Thuý Nga, Vũ Lan Anh, Nguyễn Đức Toàn đã khôi phục và kỹ thuật hóa bản in (https://vi.wikipedia.org).

5.16. Nguyễn Quang Bật

Nguyễn Quang Bật (chữ Hán: 阮光弼; 1463-1505) là người đỗ  trạng nguyên năm 1484 dưới triều vua Lê Thánh Tông. Ông là người huyện Gia Bình, nay thuộc địa phận thôn Thường Vũ, xã An Bình, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, có ý chí "nhân định thắng thiên", không tin vào số mệnh. Tương truyền trước khoa thi ông nằm mơ thấy Thần hiện về báo mộng ông sẽ không đoạt giải cao; thế nhưng ông tin rằng “Thần đâu biết được việc người; phen này ta đỗ, đỗ thời trạng nguyên” và càng ra sức học. Đến kì thi Đình ông đã đoạt được ngôi vị đầu bảng, giành lấy chức vị trạng nguyên. Làm quan Hàn lâm Hiệu lý. Ông là thành viên nhóm Tao đàn Nhị thập bát Tú. Vì trái ý của Lê Uy Mục nên bị giáng xuống Thừa Tuyên, Quảng Nam. Vua sai người mật dìm chết ở sông Phúc Giang. Tương Dực Đế biết ông chết oan, bèn truy phong tước Bá, và tặng lá cờ thêu 3 chữ” Trung Trạng Nguyên". Vua còn cho dân địa phương lập miếu thờ làm thành hoàng. (http://vi.wikipedia.org/).

Theo www.thuanthanh.gov.vn ngày 11/11/2012:  Thuở nhỏ nhà nghèo nhưng Nguyễn Quang Bật ham học, phải làm nghề bán hàng nước ở cầu Khoai kiếm ăn. Ông học đến mức mờ cả mắt. Khoa thi năm 1484 thời Hồng Đức ông đỗ trạng nguyên với bài luận đối đình sách trả lời về cách dùng người của nhà Triệu Tống.

Sau khi thi đỗ ông được bổ làm quan Viện hàn lâm chức Hàn lâm viện thị thư. Năm 1495 ông được tham gia hội Tao Đàn làm sách Quỳnh uyển cửu ca, đứng tên thứ 7 trong số 28 người. Đời Cảnh Thống ông giữ chức Đô ngự sử đài, cùng thượng thư Lễ bộ Đàm Văn Lễ lĩnh mệnh phò lập Túc Tông. Bấy giờ hoàng tử Tuấn dựa vào thế lực mẹ nuôi là bà Kính phi muôn tranh ngôi mới đem vàng lụa đút lót hai đại thần nhiếp chính. Thượng thư Đàm Văn Lễ sợ biến loạn không làm tròn phận sự di chiếu của Hiến Tôn phải đem ấn truyền quốc về nhà riêng. Hoàng tử Tuấn giận lắm. Nhưng Túc Tông ở ngôi không bao lâu thì mắc bạo bệnh mất sớm. Do Túc Tông không có con nối nên bà Kính Phi ở trong cung đã tuyên lập hoàng tử Tuấn kế ngôi. Ngày 5/6/1505 Uy Mục đế lên ngôi chưa đầy nửa năm, nhớ mối hận ngày trước đã biếm chức thượng thư Đàm Văn Lễ và Đô ngự sử đài Nguyễn Quang Bật vào Quảng Nam giữ chức thừa tuyên sứ. Khi hai người đi đến sông Lam thuộc địa phận huyện Chân Phúc vua sai người đuổi theo bắt phải tự xử. Hai ông khi sắp gieo mình xuống nước còn ngâm bài thơ tuyệt mệnh bằng quốc âm. Được tin, các quan triều biết tội hai ông không đáng chết mới xúm vào can vua, vua đổ lỗi cho bọn Nguyễn Nhữ Vi làm bậy rồi giết đi.

Đến đời Hồng Thuận, vua Tương Dực đế lại truy tặng hai ông. Do việc vua Uy Mục bắt tự xử, con cháu trạng nguyên Nguyễn Quang Bật ở quê đã phải cải sang họ Đỗ để tránh tai hoạ tru di. Hiện ở quê có đền thờ và tấm bia đá ghi sự nghiệp của ông. Mới đây trường tiểu học An Bình số 2 đã được mang tên Nguyễn Quang Bật. Hậu duệ ông có đặt giải thưởng trạng nguyên Nguyễn Quang Bật để trao tặng cho học sinh xuất sắc nhất từng năm học trị giá 500.000 đồng. Hiện nay con cháu vẫn thành đạt, tiêu biểu là Trưởng ban biên giới chính phủ Lê Minh Nghĩa, Phó đô đốc hải quân Trần Dực và nhiều tiến sĩ, cử nhân khác.

   Bài thơ tuyệt mệnh của trạng nguyên Nguyễn Quang Bật ghi trong gia phả và được đốc học Đỗ Trọng Vĩ, hậu duệ trạng nguyên ghi lại trong sách Bắc Ninh địa dư chí thế kỉ 19 như sau:

Trời, trời xanh. Nước, nước xanh

Ai đem người ngọc đến Nam Ninh

Nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá

Sao chẳng đưa thư tới Động Đình.

Bài thơ dựa vào tích chàng Liễu Nghị ghen vợ khiến nàng phải nhảy xuống hồ Động đình tự vẫn. Thần hồ Động Đình biết nàng bị oan lại đưa lên bờ về đoàn tụ gia đình. Đó là tâm sự của người bị hại oan uổng nhưng vì lòng trung quân trong sạch vẫn phải trầm hà nhưng còn tin mình được minh oan.

5.17. Nguyễn Sư Mạnh 

Nguyễn Sư Mạnh người làng Cổ Đô Hà Tây, thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông. Được bổ làm quan Thượng thư Bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu, cử đi sứ Trung Quốc năm 1500.

Có nhiều giai thoại về chuyến đi sứ này: Khi vào yết kiến vua nhà Minh, Nguyễn Sư Mạnh không cài khuy áo, đế hở bụng. Vua Minh giận dữ, cho là sứ thần nước Nam thất lễ, hạch tội khi quân, định trục xuất về nước.

Nguyễn Sư Mạnh quỳ tâu rằng: “Vì đường sá xa xôi, bụng thần đầy chữ, nhiều ngày đi đường âm u, ẩm ướt, sợ khú mất chữ thánh hiền, thần xin được phanh áo ra hong, mong nhà vua đại xá”.

Nghe vậy, vua Minh vừa muốn thử tài, vừa muốn hại người nước Nam, thách Nguyễn Sư Nam viết lại cuốn sách Thiên Vi Chính. Nguyễn Sư Mạnh nhận lời. Vua Minh còn hạ lệnh trong 30 ngày phải hoàn tất. Vua Minh chắc mẩm sứ thần nước Nam không thể làm nổi việc đó, sai người theo dõi. Nhưng sau nhiều ngày, gần hết thời hạn quy định mà không thấy sứ Nam làm gì, chỉ ngồi đánh cờ. Đến ngày thứ 25, vua Minh sai người nhắc nhở, Nguyễn Sư Mạnh trả lời: “Ngày mai thần sẽ viết”.

Đến ngày thứ 29, ông đã dâng một bản chép Thiên Vi chính cho vua Minh. Nhận sách, vua Minh khen sứ thần có trí nhớ tuyệt vời, sách chép lại y như bản chính, chỉ có chữ công thừa một dấu chấm. Vua Minh hạch tội, Nguyễn Sư Mạnh khảng khái nói: “Nếu thần viết thừa dấu chấm thì chắc chắn bản gốc của thượng quốc cũng thừa”.  Vua Minh cho đem bản gốc ra so sánh thì y như lời Nguyễn Sư Mạnh, chữ công cũng thừa dấu chấm thật.

Phục tài, vua Minh không lý gì để làm hại sứ thần nước Nam, lại phong cho ông chức Thượng thư của Trung Quốc. Bốn chữ Lưỡng quốc Thượng thư được khắc tại từ đường họ Nguyễn Cổ Đô nhắc đến công lao của nhà ngoại giao đại tài Nguyễn Sư Mạnh. (http://vi.wikipedia.org/)

 Theo gia phả dòng họ, Nguyễn Sư Mạnh sinh năm 1458 (Mậu Dần), cha người Cẩm Thủy (Thanh Hóa), mẹ người làng Cổ Đô (Ba Vì - Hà Nội). Vì cha mẹ mất sớm, nhà lại nghèo nên mãi đến năm 27 tuổi ông mới lều chõng đi thi và đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân đời vua Hồng Đức thứ 15 (1484). Về khoa thi này, sách Đại Việt sử ký toàn thư (tập II, Nxb VHTT, H. 2003, tr 763 - 764) và sách Lịch triều hiến chương loại chí (phần Khoa mục chí) của Phan Huy Chú cho biết: Tháng 2 thi Hội các cử nhân lấy đỗ 44 người. Vào thi Đình đề văn sách hỏi về nhà Triệu Tống dùng nho sĩ, cho đỗ theo thứ bậc khác nhau. Nguyễn Sư Mạnh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Tên ông được khắc trong bia "Hồng Đức thập ngũ niên Giáp Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký” ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) và chép trong Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục.
Hoạt động và cống hiến của Nguyễn Sư Mạnh chủ yếu ở thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) và thời Lê Hiến Tông (1498 - 1504) - là thời kỳ phát triển thịnh đạt của quốc gia phong kiến Đại Việt.
Năm Cảnh Thống thứ 3 (1500), Nguyễn Sư Mạnh tham gia đoàn sứ bộ sang nhà Minh. Về sự kiện này, các tài liệu chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư (tập III, Nxb VHTT, H.2003, tr 33); Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập II, Nxb Giáo dục, H. 1998, tr 5) và Lịch triều hiến chương loại chí (phần Bang giao chí) đều chép rõ: "Mùa xuân, tháng Giêng, ngày 25 vua sai sứ sang nước Minh. Hình bộ tả thị lang Nguyễn Duy Trinh, Lễ khoa đô cấp sự trung Lê Lan Hinh, Thượng bảo thiếu khanh Nguyễn Nho Tông sang tạ ơn cúng tế"...

Về tên gọi Lê Lan Hinh, sách Đại Việt sử ký toàn thư và Cương mục còn ghi rõ: Người xã Cổ Đô, huyện Tân Phong, đỗ Đồng Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1484) năm Hồng Đức; nguyên trước họ Nguyễn, tên là Sư Mạnh, sau được ban quốc tính (họ Lê).

Mặc dù chính sử không ghi chép nhiều về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Sư Mạnh nhưng việc ông được vua Lê ban quốc tính đã ghi nhận những cống hiến của ông đối với triều đình, nhất là trong lĩnh vực ngoại giao. Chúng ta được biết, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã tổ chức phong thưởng tước vị và ban quốc tính cho những bậc "khai quốc công thần” trong đó có Nguyễn Trãi (Thường Tín - Hà Nội)... Tuy nhiên từ triều Lê Thái Tông (1434 - 1442) việc ban quốc tính không còn được thực hiện rộng rãi như trước, chỉ những người thực sự có tài năng, cống hiến to lớn mới được hưởng ân tứ ấy. Thời Lê Thánh Tông có Dương Bang Bản (quê ở Thanh Liêm - Hà Nam) được ban họ Lê tức là Lê Tung. Ông là nhà sử học nổi tiếng đã soạn Việt giám thông khảo tổng luận (1 quyển). Cho đến thời Lê Hiến Tông (1498 - 1504) có Nguyễn Sư Mạnh được ban quốc tính, gọi là Lê Lan Hinh.

Theo ghi chép của Đại Nam nhất thống chí thì Nguyễn Sư Mạnh là người tài cao, học rộng, kiến thức quảng bác, uyên thâm mà câu chuyện đi sứ kể trên là một minh chứng. Sự nghiệp văn chương của ông tuy bị thất truyền, nhưng từ nhiều thế kỷ qua, nhân dân ta vẫn tôn thờ và ngưỡng mộ tài năng đức độ của ông, coi ông là tấm gương lớn để noi theo.

Với đánh giá như vậy, nhà thờ Nguyễn Sư Mạnh ở Cổ Đô đã được Bộ văn hóa thông tin công nhận Di tích quốc gia dạng lưu niệm danh nhân tại quyết định số 52/2001/QĐ-BVHTT ngày 28/12/2001. (http://lichsuvn.net/).

5.18. Nguyễn Giản Thanh

Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc và được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc) để cầu phong cho Mạc Đăng Dung. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá. Khi mất được tặng tước hầu. Thân phụ của ông là tiến sĩ  Nguyễn Giản Liêm (1453-?).Nguyễn Giản Thanh (chữ Hán: 阮簡清; thường được gọi là Trạng Me; 1482-?) là trạng nguyên khoa thi Đoan Khánh năm thứ tư (1508), đời vua Lê Uy Mục. Ông là con của tiến sĩ Nguyễn Giản Liêm, người làng Ông Mặc (tục gọi là làng Me) huyện Đông Ngàn (nay là Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh.

Giai thoại:

Lúc Nguyễn Giản Thanh còn đi học, thầy học là Đàm Thuận Huy, thấy học trò sắp ra về thì trời đổ mưa to, học trò không về được, thầy bèn ra vế đối để thử tài học trò:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách (雨無鈐鎖能留客 - Mưa không có then khóa mà có thể giữ được khách).

Nguyễn Giản Thanh liền đối lại là:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân (色不波濤易溺人 - Cái sắc đẹp của phụ nữ, không phải là làn sóng nổi, nhưng dễ nhận chìm người).

Thầy Đàm Thuận Huy nói:

Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp.

Tương truyền, Nguyễn Giản Thanh chỉ đậu bảng nhãn còn Hứa Tam Tỉnh (làng Ngọt) đậu trạng nguyên. Trong buổi lễ ra mắt vua, các tân khoa phải làm một bài phú dâng tặng vua và hoàng thái hậu (mẹ của vua). Hoàng thái hậu thấy Hứa Tam Tỉnh dung mạo xấu xí thì không ưng lắm, trong khi đó Nguyễn Giản Thanh khuôn mặt khôi ngô thanh tú nên bà muốn cân nhắc ông lên làm trạng nguyên. Vua vì muốn chiều lòng mẹ nên đánh giá bài phú của Nguyễn Giản Thanh cao hơn và trao danh hiệu trạng nguyên cho ông. Do đó dân gian có câu Trạng (làng) Me đè trạng (làng) Ngọt.

Nguyễn Giản Thanh là tác giả của Phụng thành xuân sắc phú (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng). Bài phú bằng chữ Nôm tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long. Trong bài có đoạn:

Chợ hòe đầm ấm, phố ngọc tần vần,

Trai lanh lẹ đá cầu vén áo;

Gái éo le rủ yếm dôi quần.

Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch;

Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân. (http://vi.wikipedia.org/)

5.19. Nguyễn Văn Lang

Nguyễn Văn Lang (chữ Hán: 阮文郎, ?-1513) là tướng cuối thời Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông có công giúp Lê Tương Dực lên ngôi và dẹp một cuộc nổi dậy chống triều đình.

Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nguyễn Văn Lang người xã Gia Miêu huyện Tống Sơn, Thanh Hóa; là con Thái úy Nguyễn Đức Trung và là em Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng - vợ vua Lê Thánh Tông. Sử sách còn xem Nguyễn Văn Lang là cha Nguyễn Hoằng Dụ và là ông nội của Nguyễn Kim (1468-1545) - người có công giúp nhà Lê trung hưng sau này.

Tuy nhiên, theo tiến sĩ Đinh Công Vĩ, khảo cứu 7 nguồn gia phả họ Nguyễn khác nhau tại sách ‘‘Nhìn lại lịch sử’’, theo đó các phả họ Nguyễn nói chung có sự thống nhất từ đời Nguyễn Đức Trung trở đi, các gia phả đều ghi rằng: Nguyễn Văn Lang là con Nguyễn Văn Lỗ, là cháu gọi Nguyễn Đức Trung bằng bác, đồng thời là em họ hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng.

Theo gia phả này, Nguyễn Công Duẩn - cụ nội của Nguyễn Hoằng Dụ - sinh 7 con trai, sau phân thành 7 chi. Chỉ xét 3 chi:

Chi đầu là Nguyễn Đức Trung sinh 14 con, trong đó con gái thứ 2 là hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng triều Lê Thánh Tông

Chi 4 là Nguyễn Như Trác sinh Nguyễn Văn Lưu. Văn Lưu sinh ra Nguyễn Kim

Chi 5 là Nguyễn Văn Lỗ sinh ra Nguyễn Văn Lang, Văn Lang sinh Nguyễn Hoằng Dụ.

Tác giả Đinh Công Vĩ nêu ra một minh chứng nữa: Ở Triệu miếu (Huế) và Nguyên miếu (Gia Miêu ngoại trang) chỉ thờ Nguyễn Văn Lưu là cha đẻ thực của Nguyễn Kim mà không thờ Nguyễn Hoằng Dụ - cha Nguyễn Kim như sử chép. Mặt khác, mộ cha Hoằng Dụ là Nguyễn Văn Lang ở làng Tam Quy xã Hà Tân, Hà Trung, Thanh Hóa chỉ do con cháu chi 5, nay đã đổi ra họ Đỗ Nguyễn trông nom, họ Nguyễn Phúc không có nhiệm vụ trông nom mộ Nguyễn Văn Lang. Trong các nguồn gia phả, có cuốn do Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ là em ruột Nguyễn Văn Lang soạn năm 1515, khi đó những người đang được đề cập còn sống.

Thời Lê Uy Mục, Nguyễn Văn Lang có tước Nghĩa quận công. Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét Nguyễn Văn Lang là người thông thao lược, giỏi binh pháp, khéo xem xét thiên thời, sức khoẻ có thể bắt được hổ.

Vua Lê Uy Mục tàn bạo mất lòng người. Do Nguyễn Thái hoàng thái hậu (tức Trường Lạc hoàng hậu) tỏ ý không ưa Uy Mục, Uy Mục sai người đầu độc sát hại bà nội. Năm 1509, Uy Mục ra lệnh đuổi những người tông thất và công thần về Thanh Hóa. Uy quyền trong triều thuộc về các ngoại thích Khương Trùng và Nguyễn Bá Thắng. Nguyễn Văn Lang là người cùng họ của Nguyễn Thái hậu, cũng trong số những người bị đuổi.

Một đại thần trong họ tông thất nhà Lê là Lê Năng Cẩn không hài lòng, bèn gửi cho Văn Lang một bài thơ khuyên ông đem quân "giết hết bè đảng bạo nghịch". Văn Lang nghe lời, bèn đem nô bộc người Chiêm Thành là Chế Mạn cùng Vũ Bá, Vũ Tiếp hiệu triệu nhân dân ba phủ thuộc Thanh Hóa hội hợp ở thành Tây Đô, rồi đem quân chấn giữ cửa biển Thần Phù.

Đúng lúc đó, một tông thất khác là Giản Tu công Lê Oanh bị Lê Uy Mục giam trong ngục, trốn thoát về Tây Đô. Khi Lê Oanh đi đến cửa biển Thần Phù, Nguyễn Văn Lang đón rước lập làm minh chủ. Những người cùng phe Lê Oanh là Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm cùng là Nguyễn Bá Tuấn, Lê Tung, Nguyễn Thì Ung cùng nhau khởi binh. Lê Oanh và Nguyễn Văn Lang giả xưng là Cẩm Giang vương Lê Sùng, kéo lá cờ chiêu an, tiến quân về đánh kinh thành.

Lê Uy Mục bại trận, bị bắt và bị Lê Oanh giết chết. Đại Việt sử ký toàn thư dẫn một thuyết khác cho rằng khi quân Nguyễn Văn Lang tiến sát kinh thành, Uy Mục chạy ra thôn Cập Hối, xã Đông Cao, huyện Yên Lãng, bị người hàng chợ xã ấy đón về nộp cho Nguyễn Văn Lang. Ông đem Uy Mục về quán Bắc Sứ giết chết.

Lê Oanh lên ngôi, tức là vua Lê Tương Dực. Nguyễn Văn Lang được thăng từ tước Nghĩa quận công lên Nghĩa quốc công.

Lê Tương Dực lên ngôi cũng ăn chơi hưởng lạc không lo chính sự. Các phong trào chống đối bắt đầu nổi lên.

Năm 1511, Trần Tuân cùng bộ tướng Nguyễn Nghiêm khởi binh chống triều đình tại Sơn Tây, có hàng vạn người. Trần Tuân mang quân đến Từ Liêm uy hiếp kinh thành. Nguyễn Văn Lang cùng Trịnh Duy Sản được Lê Tương Dực sai mang quân ra đánh, nhưng hai tướng bị Trần Tuân đánh bại, phải rút về Đông Ngạc và Nhật Chiêu.

Nguyễn Văn Lang sai tập trung thợ ở các xưởng vũ khí của Bộ Công, bày kỳ binh để làm thanh thế tại Đông Hà bảo vệ cho kinh thành, nhưng đến đêm quân triều đình sợ thế Trần Tuân đều bỏ chạy.

Trần Tuân thắng trận khinh địch, bị Trịnh Duy Sản cùng 30 thủ hạ đột kích vào trại đâm chết. Trịnh Duy Sản sai quân đốt 3 tiếng pháo làm hiệu, cánh quân đến tiếp ứng của Nguyễn Văn Lang xông tới đánh giết. Quân Trần Tuân tan vỡ.

Đầu năm 1513, Nguyễn Văn Lang qua đời. Không rõ năm đó ông bao nhiêu tuổi. Lê Tương Dực nhớ công ông phò tá lên ngôi, tặng phong ông làm Nghĩa Huân Vương, tang lễ theo nghi thức của tước vương, đúc vàng làm tượng.

Năm 1517 thời Lê Chiêu Tông, con Nguyễn Văn Lang là Nguyễn Hoằng Dụ mâu thuẫn với Trần Chân và Trịnh Tuy, hai bên đánh nhau. Hoằng Dụ bị thua, nhưng được Mạc Đăng Dung (dưới quyền Trần Chân) thả cho chạy thoát về Thanh Hóa. Không bắt được Hoằng Dụ, quân Trần Chân đào mả, bới tử thi Nguyễn Văn Lang, chém lấy đầu. (http://vi.wikipedia.org/).

5.20. Nguyễn Hoằng Dụ

Nguyễn Hoằng Dụ (?-1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam.

Nguyễn Hoằng Dụ (chữ Hán: 阮弘裕) là con của đại thần Nguyễn Văn Lang - người có công giúp Lê Tương Dực lật đổ Lê Uy Mục và đánh dẹp khởi nghĩa nông dân.

Sử sách thường ghi Nguyễn Kim - cha của chúa Nguyễn đầu tiên Nguyễn Hoàng - là con của An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ, là cháu của Nguyễn Văn Lang và là chắt của Nguyễn Đức Trung. Sự thực không phải như vậy.

Theo tác giả Đinh Công Vĩ, khảo cứu 7 nguồn gia phả họ Nguyễn khác nhau tại sách ‘‘Nhìn lại lịch sử’’, theo đó các phả họ Nguyễn nói chung có sự thống nhất từ đời Nguyễn Đức Trung trở đi, các gia phả đều ghi rằng: Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là em họ của Nguyễn Kim.

Cha Hoằng Dụ là Văn Lang có công khởi binh giúp vua Lê Tương Dực lật đổ Lê Uy Mục năm 1509. Đầu năm 1510, vua Tương Dực thưởng công cho các công thần, phong Văn Lang làm Nghĩa quốc công và Hoằng Dụ làm An Hoà hầu (安和侯).

Thời Văn Lang còn sống đã mâu thuẫn với Trịnh Duy Sản vì hai người cùng là tướng có công lớn với triều đình, sinh ra ganh ghét nhau. Năm 1513, sau khi Văn Lang chết, Duy Sản càng tỏ ý kiêu căng.

Chính sự nhà Lê đổ nát, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, trong đó lớn nhất là khởi nghĩa Trần Cảo (1516). Bấy giờ quân Trần Cảo sắp đánh vào Thăng Long, Nguyễn Hoằng Dụ được lệnh mang quân về bảo vệ kinh thành. Ông đóng quân ở Bồ Đề (Gia Lâm).

Trong khi quân khởi nghĩa áp sát kinh thành, vua tôi nhà Lê không lo chống giữ. Lê Tương Dực vẫn chơi bời không lo lắng việc nước. Trịnh Duy Sản can ngăn vua Tương Dực bị đánh đòn nên sinh oán hận, sắp mưu giết chết Tương Dực, lập chắt Lê Thánh Tông là Lê Y mới 11 tuổi lên ngôi, tức là Lê Chiêu Tông.

Tháng 4 năm 1416, quân khởi nghĩa Trần Cảo nhân khi kinh thành rối loạn bèn tiến đánh Thăng Long. Cùng lúc đó, Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành. Ông bắt chém người thợ xây Cửu Trùng Đài cho vua Tương Dực là Vũ Như Tô rồi mang quân rút khỏi Thăng Long. Trịnh Duy Sản thấy kinh thành bị phá liền mang vua Lê Chiêu Tông bỏ chạy về Tây Đô (Thanh Hóa).

Nhân đấy Trần Cao sang qua sông, vào chiếm cứ kinh thành, xưng niên hiệu là Thiên Ứng, ngự triều xưng làm vua.

Trịnh Duy Sản nhân danh vua Chiêu Tông, từ thành Tây Đô tập hợp quân các trấn về đánh Trần Cảo ở kinh thành. Nguyễn Hoằng Dụ hưởng ứng lời gọi, theo đường phủ Trường Yên, Lý Nhân tiến phát cùng vào Thăng Long với các tướng Nguyễn Văn Lự, Trịnh Tuy.

Quân triều đình tiến đánh kinh thành, vây 4 mặt. Quân Trần Cảo núng thế, nhưng quân Lê vẫn chưa chiếm lại được Thăng Long, bèn chuyển sang vây phía tây. Sau đó các đạo quân nhà Lê hợp lại phá tan quân Trần Cảo. Cảo phá vây bỏ chạy. Vua Chiêu Tông trở lại kinh đô.

Tháng 11 năm 1516, Nguyễn Hoằng Dụ theo Trịnh Duy Sản dẫn các tướng đi đánh Trần Cảo ở xã Trâu Sơn, huyện Chí Linh (Hải Dương). Chiến sự bất lợi, Duy Sản nôn nóng muốn thắng, bị quân Trần Cảo lừa bắt sống giết chết.

Hoằng Dụ dẫn tàn quân bỏ chạy về kinh đô. Trần Cảo nhân đà thắng trận, tiến quân thẳng đến Bồ Đề. Kinh thành lại nguy cấp. Lê Chiêu Tông liền sai Thiết Sơn bá Trần Chân (con nuôi Trịnh Duy Sản) mang quân ra đón đánh. Trần Chân phá tan được quân Trần Cảo. Cảo lại lẩn lút ở Lạng Nguyên không dám ra, truyền ngôi cho con là Cung rồi cạo đầu làm sư để trốn tránh.

Trần Cảo tạm bị dẹp yên nhưng các đại thần nhà Lê lại quay sang đánh nhau. Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy trở về kinh thành, nghe theo lời gièm pha của con em nên xảy ra hiềm khích. Hoằng Dụ đóng quân ở phường Đông Hà, Trịnh Tuy đóng quân ngoài thành Đại La giữ nhau.

Hoằng Dụ cáo ốm không vào chầu. Nguyễn Quán Chi tâu lên việc đó. Vua Chiêu Tông đem chuyện Lạn Tương Như và Liêm Pha nước Triệu thời Chiến Quốc để khuyên hai tướng giảng hoà nhưng không được.

Nguyễn Hoằng Dụ cất quân đánh Trịnh Tuy ở các phường Vĩnh Xương, Khúc Phố, Phục Cổ tại kinh thành, ba lần đánh mà không được. Tỳ tướng của Trịnh Tuy là Nguyễn Thế Phó trúng tên phải lui. Tuy bèn chạy vào Thanh Hoa. Trần Chân về phe với Tuy thấy Nguyễn Hoằng Dụ đuổi Trịnh Tuy, bèn cất quân đánh Hoằng Dụ. Sau đó Chân mật gửi thư cho con em ở các dinh Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng cùng đánh. Ngày hôm ấy, Nguyễn Hoằng Dụ vào yết kiến vua, định ra cửa Đại Hưng, nhưng ông ngờ là có Trần Chân ở đó, bèn ra cửa Đông Hoa. Lát sau, ông xuống thuyền lánh về Thanh Hóa.

Bấy giờ thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung trấn thủ Sơn Nam, Trần Chân gửi thư khuyên Đăng Dung chặn giữ lại, Đăng Dung không nỡ, nên Hoằng Dụ được đi thoát.

Đuổi được Hoằng Dụ, Trần Chân một mình nắm quyền trong triều.

Đầu năm 1517, theo lời của Trần Chân, Lê Chiêu Tông sai Nguyễn Công Độ đem quân bộ, Mạc Đăng Dung đem quân thủy đuổi Hoằng Dụ chạy vào huyện Thuần Hựu. Quân triều đình đào mả cha Hoằng Dụ là Nguyễn Văn Lang, chém lấy đầu. Hoằng Dụ lại hội quân chống nhau với quân triều đình. Ông gửi bức thư và một bài thơ cho Mạc Đăng Dung, khuyên Đăng Dung đừng bức bách mình. Mạc Đăng Dung nhận được thư và thơ đó, liền đóng quân không đánh. Hoằng Dụ được toàn quân chạy về.

Quyền thế của Trần Chân ngày càng lớn. Tháng 7 năm 1418, vua Chiêu Tông tin theo lời gièm pha của các cận thần, sợ Trần Chân cướp ngôi, bèn dụ Trần Chân vào cung giết chết.

Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Ánh, Hoàng Duy Nhạc mang quân đánh kinh đô báo thù.

Vua Chiêu tông không chống nổi, đang đêm phải bỏ chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.

Bấy giờ, Trịnh Tuy đóng quân ở xứ Sơn Nam có hơn 1 vạn người, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan cả. Thế là quân Nguyễn Kính thả sức cướp phá, trong thành sạch không. Chiêu Tông cho gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ vì lần trước vừa bị Chiêu Tông sai quân truy sát, đào mồ cha nên lưỡng lự không đi.

Chiêu Tông bèn triệu thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính. Nguyễn Kính đòi giết Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính là những người gièm pha Trần Chân. Chiêu Tông nghe kế của Đàm Cử, bèn giết 3 người, nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút.

Tháng 9 năm 1518, Trịnh Tuy và văn thần Nguyễn Sư làm phản, lập người trong hoàng tộc khác là Lê Do, đổi niên hiệu là Thiên Hiến, làm hành diện ở xã Do Nha, huyện Từ Liêm. Tuy sai người dụ Nguyễn Kính, Kính thấy Tuy là người cùng phe với Trịnh Duy Sản và Trần Chân trước đây nên đồng lòng đi theo.

Trước thế lực phản quân ngày càng lớn, Chiêu Tông sai người đi mời Nguyễn Hoằng Dụ lần nữa và sai Mạc Đăng Dung cùng đi đánh Nguyễn Kính. Lần này thì ông đồng ý đem quân Thanh Hóa ra cứu. Tuy nhiên, quân Hoằng Dụ ra bắc giao chiến không lâu sau bị Nguyễn Kính đánh bại, chết rất nhiều. Ông tự liệu không địch nổi Nguyễn Kính, bèn bãi binh, bỏ về Thanh Hóa, để một mình Mạc Đăng Dung ở lại cầm cự.

Không lâu sau, Nguyễn Hoằng Dụ mất ở Thanh Hóa, không rõ bao nhiêu tuổi. Cuộc biến loạn giữa các phe phái trong triều còn diễn ra trong nhiều năm tiếp theo. Về sau, Mạc Đăng Dung thắng thế, cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc. Anh họ ông là Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa tập hợp lực lượng chống lại và khôi phục lại nhà Hậu Lê năm 1533. (http://vi.wikipedia.org/).

5.21. Trường Lạc hoàng hậu

Trường Lạc hoàng hậu -  Nguyễn Thị Hằng (1441 - 1505), húy là Hằng (hoặc Huyên), là một hoàng hậu nhà Lê sơ. Bà là vợ vua Lê Thánh Tông, mẹ ruột của Lê Hiến Tông, bà của Lê Túc Tông và Lê Uy Mục.

Cuộc đời bà trải qua nhiều vinh hoa phú quý mà cũng thăng trầm, từ vị trí Sung nghi, rồi Quý phi, Hoàng thái hậu, Thái hoàng thái hậu và đột ngột kết thúc một cách đầy bi kịch vào cuối đời, khi bị cháu nội là Uy Mục giết chết.

Bà người ở trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn, là con gái thứ hai của ông Nguyễn Đức Trung được tặng hàm Thái úy Trinh quốc công. Ông Nguyễn Đức Trung chính là cụ tổ dòng họ chúa Nguyễn, nhà Nguyễn sau này. Không biết dòng họ ông có dính dáng đến họ của bà Văn hậu hay không.

Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn (Khoa Học Xã Hội, 1978), cho biết rằng:

Tháng 7 năm Quang Thuận thứ nhất (1460) bà được tuyển vào cung, phong là Sung nghi ở cung Vĩnh Ninh. Bà được vua (Thánh Tông) yêu quý nhất trong số các cung nhân. Lúc này nhà vua chưa có thái tử.

Khi đó, Quang Thục hoàng thái hậu đã từng cầu đảo, sai Đức Trung đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích, chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu hoàng tự. Thượng đế phán: "Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn thị". Nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ, bà đương ở cung Vĩnh Ninh, tức thì có mang. Đến khi đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra Lê Tranh, tức Lê Hiến Tông sau này. (Hiến Tông sinh vào ngày mồng 10 tháng 8, năm Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ 2 1461).

Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), tháng 3, sách lập Lê Tranh làm hoàng thái tử.

Năm Hồng Đức thứ nhất (1470), tấn phong bà làm Quý phi; bà càng được hưởng ơn vua nhiều hơn. Vua có ý phong bà làm Hoàng hậu, nhưng sợ họa ngoại thích nên lại thôi.

Năm thứ 28 (1497), vua Thánh Tông mất, vua Hiến Tông lên ngôi, tôn bà làm Trường Lạc Thánh Từ hoàng thái hậu, để ở điện Trường Lạc, và phụng dưỡng rất chu đáo.

Hiến Tông mất, Hoàng thái tử Lê Thuần lên ngôi năm 1504, tức Lê Túc Tông, tôn bà làm Thái hoàng thái hậu. Nhưng vua yểu mệnh, làm vua chưa đầy 1 năm thì băng hà.

Đại thần là Nguyễn Nhữ Vi lập Lê Tuấn lên nối ngôi báu, tức Lê Uy Mục.

Bà rất không vui vì quyết định này, cũng bởi vì thân phận của mẹ ông Uy Mục. Sử cho biết rằng:

Mẹ Uy Mục là bà Nguyễn Thị Cận, sau được truy tôn làm Chiêu Nhân hoàng thái hậu, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, người mẹ tần tảo nuôi con khôn lớn, một lần đánh được con cá to để lại cho con ăn chứ không bán cho lý trưởng, bị lý trưởng thù ghét tìm cách hãm hại khiến người mẹ cùng quẫn phải bán con gái đi làm người ở cho một gia đình giàu ở kinh thành Thăng Long. Sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm quan tỳ, do đó được vào hầu cung Vĩnh Ninh của bà. Một lần Thái tử Lê Tranh vào thăm mẹ ở cung Vĩnh Ninh, tình cờ thấy cô nô tì Nguyễn Thị Cận xinh đẹp đoan trang mới đem lòng mặt yêu mến, sau đó xin mẹ cho lấy về làm vợ, tháng 5 năm Mậu Thân (1488) thì sinh một hoàng nam đặt tên là Lê Tuấn (vua Uy Mục sau này).

Nguyễn thị mất ngay sau khi sinh. Sau đó, một bà phi cùng họ là Kính phi Nguyễn thị, người xã Hoa Lăng, huyện Thủy Đường (nay là huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) nhận Lê Tuấn nuôi làm con mình.

Trường Lạc thái hoàng thái hậu cho rằng người thân phận thấp kém như bà Cận sẽ sinh ra đứa con không ra gì. Đương nhiên cách lập luận của bà là sai, nhưng thực tế lại đúng như vậy.

Uy Mục biết được, sai người giết chết bà vào ngày 22, tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505) tại chính tẩm của bà, thọ độ 65 tuổi.

Mùa hạ, tháng 4, ngày 27, năm đó, Uy Mục truy tôn thuỵ hiệu cho bà là Huy Gia Tĩnh Mục Ôn Cung Như Thuận Thái hoàng thái hậu.

Sau, Uy Mục giết quan Lễ bộ Thượng thư là Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là Nguyễn Quang Bật, vì lẽ rằng khi vua Hiến Tông mất, bà Thái hậu và hai người này có ý không chịu lập Uy Mục (hai ông này đã nhận di chiếu phụ tá Hoàng thái tử kế vị của Hiến Tông rồi cùng các đại thần lập Túc Tông lên nối ngôi).

Mau chóng sau đó, Uy Mục bị lật đổ, Tương Dực lên ngôi, ơn trạch của Thánh Tông đến đây tiêu ma hết cả, con cháu sau này cũng không thể khôi phục được, thời kì Lê Sơ đúng 100 năm (từ 1427 đến 1527) chấm dứt. Nhà Mạc sau đó thay thế, con cháu tàn dư họ Lê lại lập nhà Lê Trung Hưng bù nhìn nối tiếp duy trì ngôi vua, thực quyền bị chi phối bởi chúa Trịnh, tạo nên thời kì Vua Lê-Chúa Trịnh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Có một dị bản về xuất thân của bà, cho rằng bà là con gái bị lưu lạc của Nguyễn Trãi.

Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (Đạm Nguyên dịch, Đại Nam, 1970, viết tắt là NL) trong bài Vua Thánh Tông có đoạn:

Khoảng đầu niên hiệu Thái Hòa (1443-1453), Tế văn hầu Nguyễn Trãi phải tội, có người con gái bị bắt vào quan, sung vào hàng nữ nhạc. Người con gái ấy tư sắc tuyệt đẹp, tuổi đã 17, 18 mà không biết nói. Đến nay theo bạn vào cung hầu yến, vì câm nên chỉ ngồi gõ phách. Khi vua bước lên ngự tọa, người con gái bỗng cầm phách hát. Tiếng hát du dương, dư âm dường quấn quanh trên rường, như khúc hát Quân thiên (điệu hát trên đế đình). Vua lấy làm lạ hỏi, thì người con gái nói năng giống hệt người Ngọc nữ trên chỗ Thượng đế. Vua liền thu nạp vào hậu cung, sách lập làm Trường Lạc Hoàng hậu (tr. 233).

Vì là người có nhan sắc tuyệt đẹp, bà Trường Lạc được vua Thánh Tông yêu quý nhất trong số các cung nhân. Vua đã cho điều tra lại vụ án Lệ Chi Viên và xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, bổ Anh Vũ, một người anh cùng cha với bà, làm tri huyện (1464). Tuy nhiên, mối tình đằm thắm với vua Thánh Tông không rõ kéo dài bao lâu, nhưng về sau, theo sử sách, bà bị ruồng bỏ, bạc đãi đến nỗi đem lòng thù ghét.

Đại Việt sử ký toàn thư có nói đến việc này, bà bị giam cầm ở cung lâu ngày, đến khi Thánh Tông hấp hối, được đến thăm, ngầm đem thuốc bôi vào chỗ loét của vua, bệnh vua càng thêm nặng mà qua đời.

Gia phả họ Nguyễn Nhị Khê cho biết, sau vụ án Lệ Chi Viên, gia quyến Nguyễn Trãi có một số người chạy thoát nạn “tru di tam tộc”.  Đó là một người con của ông cùng hai bà vợ thứ tư và thứ năm, đang mang thai…Phải chăng đây chính là cơ sở để người ta cho rằng, chuyện bà hoàng Trường Lạc (húy là Hằng) là con gái của Nguyễn Trãi? 

Nói về việc này, người xưa có những ghi chép không giống nhau, trong đó có tài liệu chỉ nhắc đến con trai Anh Vũ may mắn sống sót mà không cho biết Nguyễn Trãi có con gái sống sót. Tuy nhiên, sử gia Trần Huy Liệu (Nguyễn Trãi, Khoa Học, 1966) lại viết rằng: Thế rồi cả gia quyến Nguyễn Trãi bị bắt giam: con gái bị sung làm nô tỳ ở cung vua hay ở các nhà quan, con trai thì chờ ngày ra pháp trường chịu tội tử hình. Như vậy, giả thuyết con gái Nguyễn Trãi sống sót là có.

Mặt khác, chính sử chép rằng Thái hoàng thái hậu Trường Lạc mất năm 1505, thọ 65 tuổi. Theo cách tính tuổi thông thường, cô Hằng sinh năm 1441. Được hai tuổi (1442) thì mồ côi cha. Năm 1460 cô được tuyển vào cung, tuổi vừa tròn 20. Chi tiết này có vẻ khá trùng hợp với các tài liệu nói về Nguyễn Trãi. Tính từ năm ông bị giết (1442) đến năm cô Hằng được tuyển vào cung (1460) được 18 năm. Cô Hằng vào hầu vua Thánh Tông năm cô ít nhất cũng đã được 19 tuổi ta. Và năm Nguyễn Trãi bị giết, cô Hằng được 2 tuổi, Anh Vũ còn nằm trong bụng mẹ. Rất có thể bà Trường Lạc là chị ruột hay ít ra cũng là chị cùng cha khác mẹ của Anh Vũ.

Tiếp đó, tại sao chính sử nói bà Trường Lạc quê ở Gia Miêu (Thanh Hóa), song lại được vua Uy Mục cho làm điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên huyện Quảng Đức (Thăng Long, Hà Nội ngày nay) để thờ tiên tổ của bà. Phải chăng quê quán thực của bà là vùng Quảng Đức, chứ không phải Gia Miêu? Chúng ta cũng được biết rằng Nguyễn Trãi sinh ra tại gia đình nhà mẹ là dinh quan Tư đồ Trần Nguyên Đán ở Thăng Long. Đây là một điều trùng hợp ngẫu nhiên hay cố ý ? Hay là cha đẻ của bà không phải là Nguyễn Đức Trung mà chính là Nguyễn Trãi?

Một số sử gia đương đại cho rằng, việc Nguyễn Trãi có một người con gái sống sót nhưng chính sử lại chép Hoàng thái hậu Trường Lạc (hay Hoàng thái hậu họ Nguyễn) là con gái thứ hai của ông Nguyễn Đức Trung có thể lý giải do Thái úy là người tốt, ông nuôi cô nô tì từ nhỏ và nhận là con. Thêm vào đó là dù triều đình Thánh Tông có biết rõ gốc gác của bà hoàng hậu Trường Lạc, thì sử thần đương thời cũng khó mà có thể chép rằng chính triều đình của bố Thánh Tông đã giết oan ba họ nhà cha vợ của vua.

Nếu bà Trường Lạc đúng là con gái sống sót của Nguyễn Trãi như Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cho biết thì cuộc đời của bà có thể nói là nhiều thăng trầm, bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam. Cha bà cùng với 3 họ bị giết oan, bà bị bắt làm nô tì từ năm 2 tuổi. Lớn lên bà được tuyển vào cung vua, được phong quý phi, hoàng hậu (vợ vua), rồi lại bị vua hắt hủi, giam nơi cung cấm. Bà được tấn phong hoàng thái hậu (mẹ vua), thái hoàng thái hậu (bà vua) và cuối cùng bị cháu nội sai người giết chết. (http://vi.wikipedia.org).

5.22. Nguyễn Đức Lượng

Nguyễn Đức Lượng (chữ Hán: 阮德亮, 1465 - ?), người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Dân Hòa huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội), đỗ đầu khoa tháng tư, Giáp Tuất, Hồng Thuận năm thứ 6 (1514), đời Lê Tương Dực cùng Nguyễn Chiêu Huấn (阮昭訓), Hoàng Minh Tá (黃明佐) là 3 người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Vũ (阮瑀) cùng 19 người khác đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Bỉnh Di (阮秉彝) và 19 người khác đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Ngày 27 tháng 4, vua thân hành ngự điện ra đầu bài văn sách hỏi về nhân tài. Sai Tả bình chương quân quốc trọng sự nhập nội kiểm hiệu thượng tướng thái uý Lương quốc công Lê Phụ, Lại bộ thượng thư tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Đàm Thận Huy, Công bộ hữu thị lang Lê Tán Tương, Thiếu bảo Lại bộ thượng thư Do Lễ bá Nguyễn Bá Thuyên, Hộ bộ thượng thư tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Cẩn Lễ nam Đoàn Mậu, Thiếu báo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung, Hình bộ thượng thư Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên Đỗ Nhạc chia nhau trông coi việc thi.

Nguyễn Đức Lượng từng đi sứ nhà Minh. Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lễ. Khi ông chết, được tặng thượng thư (http://vi.wikipedia.org/)

Con trai Nguyễn Đức Lượng là Nguyễn Khuông Lễ, đỗ Tiến sĩ khoa ất Mùi 1535, niên hiệu Đại Chính 6 đời Mạc Đăng Doanh. Khuông Lễ làm quan đến chức Hữu Thị lang, tước bá. Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng có người em gái là Nguyễn Thị Hiền giỏi giang, xinh đẹp, lại có nét thi thư quý phái. Sự dun dủi của số phận, bà Nguyễn Thị Hiền làm vợ của công tử Nguyễn Doãn Toại con trai Thám hoa Nguyễn Doãn Địch. Việc Nguyễn Doãn Toại làm chồng Nguyễn Thị Hiền và chết ngay trong đêm đó, sau này được người đời truyền tụng khá ly kỳ, khó tin. Nhưng cuộc tình duyên này cho bà Hiền một con trai là Nguyễn Thiến. Rồi Nguyễn Thiến cũng đỗ Trạng nguyên Khoa Nhâm Thìn 1532, niên hiệu Đại Chính thứ 3 đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan cho nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các Đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, tước Thư quận công. (http://nguoithanhoai.vn/)

5.23. Nguyễn Sư

Nguyễn Sư (?-1519) là quan nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng Trịnh Tuy ủng hộ các hoàng thân nhà Lê ly khai chính quyền vua Lê Chiêu Tông nhưng bị thất bại.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Sư người làng Lý Hải, huyện Yên Lãng. Ông đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508) năm Đoan Khánh thứ 4 đời Lê Uy Mục.

Đời Lê Tương Dực, Nguyễn Sư được phong chức Hàn lâm viện kiểm thảo. Tháng giêng năm 1513, ông cùng Nguyễn Trang và Trương Phu Duyệt đi sứ sang Trung Quốc đáp lễ lần viếng thăm của sứ nhà Minh năm 1512.

Nước Đại Việt không yên ổn từ thời vua Lê Tương Dực. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên khiến triều đình nghiêng ngả, từng phải rút khỏi kinh thành. Sang thời Lê Chiêu Tông, trong khi các cuộc nổi dậy chưa bị dẹp hẳn, các tướng lĩnh trong triều lại phát sinh ý định phế lập.

Tháng 7 năm 1518, Lê Chiêu Tông giết công thần Trần Chân, các thủ hạ của Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng ở Sơn Tây nổi dậy làm loạn để báo thù cho chủ, Chiêu Tông phải giết cận thần của mình theo yêu sách của các tướng làm loạn nhưng khi các cận thần bị giết, họ vẫn không bãi binh.

Trước tình hình đó, Nguyễn Sư cùng Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy nảy sinh ý định ly khai lập vua khác. Tháng 9 năm 1518, ông và Trịnh Tuy tôn lập tông thất Lê Bảng làm vua, tức là vua Đại Đức. Trịnh Tuy dụ được Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đi theo nên lực lượng khá mạnh.

Khoảng tháng 3 năm 1519, Trịnh Tuy phế truất Lê Bảng và lập em Bảng là Lê Do lên làm vua, đổi niên hiệu là Thiên Hiến.

Tháng 7 năm 1519, nhân lúc trời mưa to, tướng của Lê Chiêu Tông là Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ vây vua Thiên Hiến ở Từ Liêm. Đăng Dung phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Đại quân tan vỡ, Lê Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn thì bị quân của Lê Chiêu Tông bắt được, giải mang về. Trịnh Tuy bỏ chạy vào Thanh Hóa, các tướng Nguyễn Kính, Nguyễn Áng theo hàng Mạc Đăng Dung.

Quân của Lê Chiêu Tông giải Nguyễn Sư đi rao ngoài đường. Trước khi chết, ông làm bài thơ tuyệt mệnh như sau:

Bản dục hưng Chu cứu vạn dân

Thuỳ tri thiên ý bất tùy nhân

Ô Giang thủy khoát nam đông độ

Xích Bích phong cao dị bắc phần

Vân ám Ninh Sơn long khứ viễn,

Nguyệt minh phúc địa hạc lai tần

Anh hùng thành bạn cổ lai hữu

Đãn hận binh sinh chí vị thân.

Dịch:

Những toan phục nước cứu muôn dân

Trời chẳng chiều người cũng khó phần

Sông rộng, Giang Đông khôn trở gót

Gió to, Xích Bích dễ thiêu quân

Ninh Sơn mây ám rồng xa khuất

Phúc địa trăng soi hạc tới gần.

Anh hùng thành bại xưa nay vậy

Chí đời chưa thoả hận vô ngần

Sau đó Nguyễn Sư cùng Lê Do bị vua Quang Thiệu xử tử. Không rõ ông bao nhiêu tuổi.

(http://vi.wikipedia.org)