Ngày đăng: 29/09/2020
Tóm tắt:
CHƯƠNG III : VUA HÙNG
Nội dung:
3.1. Vua Hùng - con của Lạc Long Quân
Hùng Vương (Hán tự: 雄王), hay vua Hùng, là tên hiệu của các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, các vua Hùng là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Lại chép về họ Hồng Bàng như sau: "Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, Rồi sau Đế Minh đi tuần phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vu Tiên nữ sinh ra Vương (Lộc Tục). Vương là bậc Thánh trí thông minh. Đế Minh yêu quý lạ, muốn cho nối ngôi. Vương cố nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh. Đế Minh vì thế lập Đế Nghi là con trưởng nối dòng trị phương Bắc. Lại phong cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam, đặt tên nước là Xích Quỷ. Vương lấy con gái Chúa Động Đình tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân."Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: "Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam-Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương".
“Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao” - Lời bàn của soạn giả Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư.
Sách "Lĩnh Nam chích quái” thời Trần viết rằng: "Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương.”
Xã hội Văn Lang
Về bờ cõi, đông giáp biển Đông, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung quốc), nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành.Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh tối cao, được biết đến với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn), các Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản.
Hùng Vương chia nước Văn Lang làm 15 bộ: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, đóng đô ở bộ Văn Lang. Còn theo sách Lĩnh Nam Chích Quái 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận.
Mười lăm bộ theo sách Khâm định việt sử thông giám cương mục chép từ sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Túng là Sơn Nam (bây giờ là Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên) xưa là bộ Giao Chỉ. Sơn Tây xưa là bộ Chu Diên, bộ Phúc Lộc. Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh) xưa là bộ Vũ Ninh. Thuận Hóa (bây giờ là từ Hải Lăng thuộc Quảng Trị đến Điện Bàn thuộc Quảng Nam) xưa là bộ Việt Thường; An Bang (bây giờ là Quảng Yên) xưa là bộ Ninh Hải; Hải Dương xưa là bộ Dương Tuyền; Lạng Sơn xưa là bộ Lục Hải; Thái Nguyên, Cao Bằng xưa là bộ Vũ định nội ngoại; Nghệ An xưa là bộ Hoài Hoan; Thanh Hóa xưa là bộ Cửu Chân; Hưng Hóa và Tuyên Quang xưa là bộ Tân Hưng; Còn hai bộ Bình Văn và Cửu Đức thì đều khuyết nghi. Nay khảo ở sách Tấn chí, quận Cửu Đức, do nhà Ngô đặt, nay là đất Hà Tĩnh. Sử cũ chua tức là nước Chiêm Thành, bây giờ là đất Bình Định.
Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau hiệu là Hùng Vương không đổi.
Kinh đô của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang đóng tại Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
Công cụ là đồng thau trở nên phổ biến và bắt đầu có công cụ bằng sắt. Có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là phổ biến nhất.
Ngoài ra còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã xuất hiện.
Các vị vua Hùng
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam" thì 18 vị vua Hùng là:
- Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 - 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Huý là Lộc Tục (祿續).
- Hùng Hiền vương (雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 - 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
- Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN
- Hùng Việp vương (雄曄王): 2252 - 1913 TCN
- Hùng Hi vương (雄犧王): 1912 - 1713 TCN (phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛)
- Hùng Huy vương (雄暉王): 1712 - 1632 TCN
- Hùng Chiêu vương (雄昭王): 1631 - 1432 TCN
- Hùng Vĩ vương (雄暐王): 1431 - 1332 TCN
- Hùng Định vương (雄定王): 1331 - 1252 TCN
- Hùng Hi vương (雄曦王): 1251 - 1162 TCN (phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "nhật" 日)
- Hùng Trinh vương (雄楨王): 1161 - 1055 TCN
- Hùng Vũ vương (雄武王): 1054 - 969 TCN
- Hùng Việt vương (雄越王): 968 - 854 TCN
- Hùng Anh vương (雄英王): 853 - 755 TCN
- Hùng Triêu vương (雄朝王): 754 - 661 TCN
- Hùng Tạo vương (雄造王): 660 - 569 TCN
17. Hùng Nghị vương (雄毅王): 568 - 409 TCN
- Hùng Duệ vương (雄睿王): 408 - 258 TCN (http://vi.wikipedia.org/)
Vua Hùng Vương thứ 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn tức là Tản Viên. Thục Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các Vua Hùng. Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Thục Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc. (Nhungtruyenthuyetvn)
Cột đá thề đã được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, ghi rõ: "Nguyện có đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam được trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương, xin đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng và gìn giữ giang sơn mà Hùng Vương trao lại; nếu thất hẹn, sai thề sẽ bị gió giăng, búa dập". (http://kenh14.vn).
Di sản và ghi công từ đời sau
Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của Người Việt tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm.
Năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh có buổi gặp mặt với binh sỹ các Trung đoàn Thủ Đô, trung đoàn 36, trung đoàn Tu vũ..., Người nói rằng: "Đền Hùng thờ các vua Hùng. Hùng Vương là người sáng lập ra nước ta, là Tổ tiên của dân tộc ta. Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. (https://vi.wikipedia.org/)
Trích nguồn: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM
- CHƯƠNG X HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI TÂY SƠN (1788 - 1802)
- CHƯƠNG IX HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI CHÚA NGUYỄN (1600-1802)
- LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM: CHƯƠNG VIII: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI KỲ TRỊNH NGUYỄN PÂN TRANH
- LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM: CHƯƠNG VII: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1533-1789)
- CHƯƠNG VI HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ MẠC (1527- 1592)
- LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM PHẦN II, CHƯƠNG V: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ HẬU LÊ - LÊ SƠ (1428-1527)
- LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM PHẦN II, CHƯƠNG IV: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ TRẦN (1225-1400), NHÀ HỒ (1400-1407), NHÀ HẬU TRẦN(1407 – 1413)
- LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM PHẦN II: CHƯƠNG III HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI TIỀN LÊ (980-1009), NHÀ LÝ (1009-1225)
- PHẦN THỨ II: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI: CHƯƠNG II HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI LOẠN 12 XỨ QUÂN VÀ NHÀ ĐINH (944-980)
- PHẦN THỨ II: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI. Chương I: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ TRIỆU(207-111 TCN), NHÀ NGÔ (939 - 944 SCN)
- NHÀ PHONG THỦY ÔNG NGUYỄN NGỌC SANG XEM PHONG THỦY CÁC KHU ĐẤT BA VÌ DỰ KIẾN HĐHNVN MUA XÂY NHÀ THỜ TỔ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM
- NHÀ TÀI TRỢ ÔNG NGUYỄN HÙNG ANH ĐÃ CHUYỂN CHO NHÀ IN QUÂN ĐỘI 100 TRIỆU ĐỒNG
- Tin vui công đức mới: Ngày 20/4/2024
- Tin vui công đức mới: Ngày 19/4/2024
- Tin vui công đức mới: Ngày 19/4/2024
- HĐHNVN DỰ LỄ HỘI HOA LƯ 2024
- THÔNG BÁO CỦA HĐHNVN NGÀY 12/4/2024
- HĐHNVN DỰ LỄ GIỖ TỔ HỌ NGUYỄN ĐÔNG TÁC Ở HÀ NỘI
- HĐHNVN HOÀN THÀNH VIỆC ĐI DÂNG HƯƠNG HƯỚNG VỀ CỘI NGUỒN NGÀY 10/4/2024 (TỨC NGÀY MỒNG 2 THÁNG BA GIÁP THÌN)
- THÔNG BÁO CỦA HĐHNVN NGÀY 09/4/2024
- KHU KINH TẾ THANH NIÊN MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
- ĐƯỢC TẶNG CHỮ “KHỎE”
- “MỘT ĐỀ TÀI KHOA HỌC THÚ VỊ VỀ HAI TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC”
- LỜI CỤ HỒ CA NGỢI VUA GIA LONG BỊ CẮT BỎ, HÃY TRẢ CHỮ LẠI CHO CỤ HỒ ĐI !
- Trưa 8/7, thêm 355 ca Covid-19 tại 16 tỉnh thành
- SÁCH VÀ TRI THỨC
- NĂM TÂN SỬU NÓI CHUYỆN SỬU
- TIẾN ĐỘ THI CÔNG NHÀ THỜ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM Ở THÔN Á LỮ XÃ ĐẠI ĐỒNG THÀNH HUYỆN THUẬN THÀNH TỈNH BẮC NINH
- LỜI TÂM SỰ: Phần thứ hai: Cái tâm với dòng họ
- LỜI TÂM SỰLỜI TÂM SỰ: Phần thứ nhất: Chữ BẠN và nghĩa trong dòng họ