Video
Công đức
Giới Thiệu Chung

PHẦN THỨ II: LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI. Chương I: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM THỜI NHÀ TRIỆU(207-111 TCN), NHÀ NGÔ (939 - 944 SCN)

Ngày đăng: 30/09/2021
Tóm tắt:

PHẦN THỨ II LỊCH SỬ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI.

Chương I: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM  THỜI NHÀ TRIỆU(207-111 TCN), NHÀ NGÔ (939 - 944 SCN)

Nội dung:

CHƯƠNG I: HỌ NGUYỄN VIỆT NAM  THỜI NHÀ TRIỆU(207-111 TCN), NHÀ NGÔ (939944 SCN)

1.1. Nguyễn Danh Lang

 Nguyễn Danh Lang  (阮名俍) tên hiệu Lang Công (俍公) là danh tướng nhà Triệu nước Nam Việt, em kết nghĩa của Tể tướng Lữ Gia. Lang Công chỉ được đề cập trong thần phả, không được sử sách nhắc tới.

Sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 và bản sách ký hiệu: TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân - 1572, triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc nguyên) viết: Thời Triệu Vũ Vương (207-137 TCN) nước Nam Việt, trang Nam Trì có một người tên Nguyễn Tuyên (sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 chép là Nguyễn Nghị), lấy vợ người trang Đoài, xã Thổ Hoàng bên cạnh, tên là Trần Thị Huyền. Tuy chỉ làm ruộng nhưng gia đình khá giả, vợ chồng là người có lòng trung hậu, lương thiện.

Năm Nguyễn Công 51 tuổi, bà 42 tuổi vẫn chưa có con trai. Hai vợ chồng cầu đảo Trời Đất, thần linh phù hộ. Một hôm, bà Trần Thị ra sông Kim Ngưu tắm rồi ngủ và mộng thấy từ trên trời một con hổ vàng giáng xuống nằm cạnh bên trái mình. Bà trở về nhà và có mang. Ngày 9/3 năm Nhâm Thân bà sinh hạ được một con trai. Vì chiêm bao thấy hổ nên sau bách nhật đặt tên Danh Lang.

Lớn lên, Danh Lang có tướng mạo kỳ lạ, cao lớn khác thường. Ông kết nghĩa với Bảo Lang tức Lữ Gia. Hai người được nhân dân Nam Trì một lòng kính nể, phục tùng gọi hai ông là Bảo Công, Lang Công. Bảo Công và Lang Công cùng nhau mộ được 1000 binh sĩ đánh Đào Hoan để trả thù cho cậu của Bảo Lang. Trả thù xong, hai ông trở lại Nam Trì. Oai danh chấn động gần xa nên nhân dân kính nể, thần phục.

Hai năm sau, khi Triệu Vũ đế (Vũ vương Triệu Đà, 197-137 TCN) chết, Triệu Văn đế (Văn vương Triệu Hồ tức Triệu Mạt hay Triệu Muội, con Trọng Thuỷ) nối ngôi (136-125 TCN) lệnh cho các châu, huyện đề cử người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài, học vấn uyên bác ra giúp nước. Bảo Công, Lang Công đều trúng lại được yết kiến nhà vua ứng đối trôi chảy nên ra sắc chỉ phong Bảo Công chức Thị tụng Tham quan (Quân sư) đảm nhiệm việc luyện quân và công văn cho Triều đình; Lang Công chức Điển binh (Cấm quân bảo vệ triều đình).

Bản sách TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân – 1572 và Sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 đều viết: “...Khi gặp Lữ Gia về lại Nam Trì chiêu mộ quân sĩ ở quán đầu làng, gặp lại Nguyễn Danh Lương thì kết vi bằng hữu, tương ái tương thân, như tâm như phúc, bốn biển gặp nhau như anh em sinh đôi. Hai anh em gặp nhau như tâm Trời đã định, như anh hùng tương ngộ, bẩm sinh tương tề như cùng một gốc, thề nguyện sinh tử cùng nhau. Nguyễn Danh Lang là người học vấn uyên bác, văn võ toàn tài, lúc đầu được phong chức Điển quân tức trông coi việc binh của triều đình. Sau do công sắp đặt lại kỷ cương trật tự triều chính nên năm Văn vương thứ 6, được phong Đốc lĩnh trấn thủ Châu Ái kiêm cả Châu Hoan. Cầm quân thủy đến châu Đại Điền hội quân, đánh cho quân Tây Hán thua hơn mười trận....”Năm Văn vương thứ 6, Bảo Công được phong Tể tướng, Lang Công được phong Đốc lĩnh (chữ Đốc âm cổ là Đại tướng) châu Ái kiêm châu Hoan. Trong thời gian này, Văn vương cùng Bảo Công, Lang Công sắp đặt lại kỷ cương trật tự triều chính, quân thần hiệp đức nên thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui, no ấm. Văn vương chết, Triệu Minh Vương nối ngôi. Minh vương trọng đãi, hai họ của hai anh em quí hiển có hơn bốn mươi người làm quan truyền đời.

Nguyễn Danh Lang về đến Thiên Thi nhận chức Huyện lệnh thì mất.

Mộ Nguyễn Danh Lang và mộ Lữ Gia bên bờ sông Nam Trì, nay lăng mộ hai ông ở gò Ba Xã, đền thờ ở gò Vườn Soi, Nam Trì. Thời Bắc thuộc các triều đại Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống của Trung Hoa đều phong Thần Nguyễn Danh Lang là Trung Lang Tế thế Đại vương. Các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần của Việt Nam cũng sắc phong như vậy. Triều hậu Lê sắc phong là Dũng lược quả đoán và chuẩn cho trang Nam Trì lập đền thờ chính. Sau lại sắc phong thêm là Dực bảo trung hưng.

Sau này, đền này còn thờ cả Thánh địa lý Cao Biền, Thánh địa lý Tả Ao cùng Công chúa Hùng vương Lâu nương (phu nhân của Tể tướng Lữ Gia) cùng hai vị phu nhân của Cao Biền là Lữ Lương, Lự Lương. Sau Lữ Gia, Nguyễn Danh Lang và Cao Biền được phong Thượng đẳng Phúc thần Dực bảo trung hưng Bản cảnh Thành hoàng Đại vương. Lễ hội tế, rước Thần gọi là Bảo, Lang, Biền. (https://vi.wikipedia.org)

1.2. Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權, 898 - 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương  (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.

Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua" là vị Tổ trung hưng của Việt Nam.Sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng". Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.

Trong thời kỳ giữ nước ông đã được phò tá bởi mhiều tướng tài, trong đó phải kể đến tướng Nguyễn Tất Tố, Nguyễn Khoan (https://vi.wikipedia.org)

1.3. Nguyễn Thước (903-?), hay Nguyễn Phước, là một nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Theo gia phả của Gia tộc Nguyễn Hữu thì thủy tổ Nguyễn Thước là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, Tĩnh Hải quân (nay thuộc xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh BìnhViệt Nam). Song thân và năm sinh - năm mất của ông không rõ thông tin. Theo Nguyễn Kí Gia Phả thời Lê 1501, ông sinh năm 903. Cũng theo gia phả cho biết, ông từng là một viên tướng của Dương Đình Nghệ rồi Ngô Quyền, giống người bạn cùng quê là Đinh Công Trứ, thứ sử Hoan Châu.

Nguyễn Thước có 3 người con được ghi chép lại là: Nguyễn BồNguyễn Phục và Nguyễn Bặc, đều là những khai quốc công thần của nhà Đinh, từng tham gia giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Nguyễn Thước bị ám sát bởi Dương Tam Kung em trai của Dương Tam Kha 

Ngày nay, Thủy tổ Nguyễn Thước được thờ vọng tại nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Hai nơi thờ vọng chính là tại động Hoa Lư, thôn Mai Phương, xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn và thôn Minh Long, xã Xích Thổ, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Ông cũng được các hậu duệ họ Nguyễn Việt Nam lập từ đường thờ tại Bình PhướcBình Dương,Thành phố Hồ Chí Minh,... (https://vi.wikipedia.org)

1.4. Nguyễn Tất Tố (913 – 984) là Đô Đốc Thủy Quân giúp Ngô Quyền đánh quân Nam Hán năm 938 và giúp Lê Hoàn phá giặc Tống trên sông Bạch Đằng năm 981

Theo lời dịch bản Thần tích: Đô đốc Nguyễn Tất Tố (còn có tên là đô đốc Kiên, Nguyễn Hải…) còn lãnh nhiều trọng trách khác nhau phù thế hệ vua đời nhà Ngô, Đinh, Lê cùng các tướng lĩnh khác dẹp loạn 12 xứ quân, đánh tan giặc Tống…

Theo ngọc phả Ngô Quyền của làng Da Viên và  tài liệu thu thập trong dân gian năm 1977 -1978 lưu trữ tại Bảo tàng Hải Phòng:

Sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, lấy nghề đánh cá làm kế sinh nhai, Nguyễn Tất Tố rất giỏi bơi lặn. Tổ tiên ông và người họ Đào thuộc dân Thủy Đường (Thủy Nguyên ngày nay). Do bị bọn phương Bắc cai trị ức hiếp, gia đình phải rời sang vùng đầm lầy bên sông Cấm sinh sống.

Bố Nguyễn Tất Tố làm nghề thuyền câu, mẹ làm ruộng. Nguyễn Tất Tố thường cùng cha chèo thuyền trên dòng sông Cấm để câu cá. Ông lại bơi giỏi, ngụp lặn rất tài và là một thanh niên có võ nghệ hơn người.

Do việc liên kết chống giặc biển vào cướp phá dân làng mà Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận trở thành đôi bạn thân.

Khi Ngô Quyền đưa quân về vùng An Dương, xây đồn, chiêu mộ nhân tài hào kiệt, chuẩn bị đánh quân Nam Hán, Nguyễn Tất  Tố và Đào Nhuận đã tự nguyện tham gia, được Ngô Quyền trọng dụng cho làm gia tướng.

Trong trận phục kích ở sông Bạch Đằng năm 938, Đào Nhuận được Ngô Quyền giao cho chỉ huy dẫn quân lính cùng nhân dân vào rừng lấy gỗ đẽo cọc nhọn cắm ở cửa sông rồi cùng Ngô Xương Ngập và Dương Tam Kha đem quân mai phục hai bên bờ sông. Còn Nguyễn Tất Tố được Ngô Quyền sai đem 20 thuyền nhẹ ra cửa biển chờ giặc tới thì khiêu chiến nhử giặc vào trận địa cọc của quân ta.

Khi thuyền quân Nam Hán tới, cũng là lúc nước triều lên cao, Nguyễn Tất Tố đã đưa thuyền ra nghênh chiến, lúc đánh, lúc rút làm cho Hoằng Thao tức tối. Đợi lúc thủy triều rút, quân ta giả vờ thua rút chạy. Hoằng Thao cho thuyền đuổi theo. Khi thuyền giặc vượt qua bãi cọc cũng là lúc thủy triều rút nhanh mấp mé đầu cọc nhọn. Nguyễn Tất Tố phất cờ hiệu tấn công. Phục binh của ta ở hai bên bờ sông do Tam Kha, Xương Ngập, Đào Nhuận chỉ huy với những chiếc thuyền nhỏ nhẹ từ trong hàng lau sú tiến ra đánh phá, chia cắt đội hình quân giặc. Ngô Quyền chỉ huy đại binh ào ạt xông lên phối hợp tiêu diệt giặc. Quân Nam Hán lúng túng run sợ, quay thuyền tháo chạy. Thuyền xô vào hàng cọc vỡ, đắm. Hoằng Thao bị chết ngay tại trận. Máu giặc loang đỏ cả vùng sông biển Bạch Đằng. Vua Nam Hán được tin thua trận, con chết vội vàng lui binh.

Theo http://vi.wikipedia.org/: Cuối đời, ông về an nghỉ và mất tại quê nhà: vùng Thiết Lâm-Khu Trung Hậu -Huyện Phong Doanh - Phủ Thiên Trường nay là thôn Ninh Xá - Xã Yên  Ninh - Huyện Ý Yên - Tỉnh Nam Định. 

Triều đình nhà Lê đã tổ chức tang lễ theo nghi thức Đại thần. Đương thời, vua Lê đã thân chinh đến thăm viếng lăng mộ ông và ban cho một đặc ân là cấm phạm địa bàn khu lăng mộ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trích nguồn: Lịch sử họ Nguyễn Việt Nam NXB Hồng Đức xuất bản 2018

Thư viện ảnh