Video
Công đức
Giới Thiệu Chung

TÍN NGƯỠNG THỜ ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN - ÔNG TỔ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC ĐƯA VÀO DANH MỤC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA

Ngày đăng: 03/03/2018
Tóm tắt:

TÍN NGƯỠNG THỜ  ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN - ÔNG TỔ HỌ NGUYỄN VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC ĐƯA VÀO DANH MỤC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA

Nội dung:

Trước khi các tôn giáo lớn định hình trên mảnh đất hình chữ S, người Việt đã phát triển tín ngưỡng của riêng mình. Ngoài thờ gia tiên, tổ nghề, các anh hùng chống ngoại xâm..., tục  thờ đức thánh Tản Viên đã trở thành một tín ngưỡng của người Việt, cũng như tục thờ cúng các vua Hùng, Thánh Gióng, thánh Chử Đồng Tử và Thánh Bà Chúa Liễu Hạnh…

Tản Viên biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụt; cái thiện thắng cái ác; Thánh Gióng kết tinh ý chí chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu; Bà Chúa Liễu biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh, phong phú về tinh thần.

Truyền thuyết đồng bằng Bắc bộ kể rằng Thánh Tản Viên vốn là một nông dân dũng cảm, nhân hậu, thiên phú hùng tài, trở thành Sơn thần, thủ lĩnh của muôn loài, Sơn Tinh, thường dạy dân làm ruộng, săn bắn, kéo vó, luyện võ và mở hội. Đối lập với Sơn Tinh là Thủy Tinh, vị ác thần cai quản các loài thủy tộc thường dâng nước tràn lên cướp phá mùa màng, cầm thú, làm hại dân lành. Hùng Vương thứ 18 - vị vua của các bộ lạc Việt, mở cuộc thi tài kén rể cho công chúa Mỵ Nương. Sơn Tinh thắng, được Vua Hùng gả con gái. Thủy Tinh thua, đem hận dâng nước lũ và xua thủy quái đánh phá. Sơn Tinh cùng thần dân và các loài vật trên đất liền chống chọi quyết liệt. Nước càng dâng thì núi lại càng cao. Thủy Tinh bại trận. Truyền thuyết này đã được ghi vào sách giáo khoa để truyền bá và giáo dục tinh thần chiến thắng thiên tai lũ kụt của dân tộc, tinh thần cái thiện chiến thắng cái ác cho các thế hệ học trò.

Cuộc chiến đấu chống Thủy Tinh của Sơn Tinh và muôn loài phản ánh lịch sử tự nhiên của một đất nước lưng dựa vào núi, mặt hướng ra biển, quanh năm chống thiên tai địch họa. Thờ Thánh Tản là tôn thờ và tin cậy vào sức mạnh thiêng liêng, vào đức nhân nghĩa, tin vào nỗ lực sinh tồn của con người.

Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì có từ rất lâu. Khoảng 250 năm trước Công Nguyên, An Dương Vương cho lập đền thờ đức Thánh trên núi Tản Viên, gọi là Đền Thượng, nay thuộc Ba Vì, Sơn Tây, ngoại thành Hà Nội. Cứ ba năm một lần, vào 15 tháng giêng âm lịch, tại đây diễn ra lễ hội lớn, với hàng vạn người tham dự. Lễ hội gồm nhiều hoạt động như rước bài vị thánh Tản. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như đánh cá sông (99 con) làm gỏi dâng tế, lễ rước Thánh bà Mỵ Nương, chọi gà, đấu cờ, hát đúm, bịt mắt bắt dê, kéo co, cướp cờ, thi bơi  thuyền rước quân, đấu vật và mở hội Chém May…

Vào ngày hội lễ, nhà Vua hoặc tự thân hoặc cử đại quan tới dâng hương. Ngày nay, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ cũng thường tới dự lễ tại đền chính trên núi Ba Vì, Hà Nội.

Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì đã lan tỏa, có sức sống lâu bền từ đời này qua đời khác, từ đồng bằng lên miền núi, từ Bắc vào Nam.

Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì thể hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam, luôn vượt qua khó khăn, thách thức trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, chống giặc ngoại xâm, thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên, làm tăng thêm lòng tự hào và đoàn kết dân tộc.

Ngày 30/01/2018 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch đã cấp Giấy chứng nhận tục thờ Tản Viên Sơn Thánh tại Ba Vì huyện Ba Vì thành phố Hà Nội được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch Nguyễn Ngọc Thiện ký.

Đây là một bước thể hiện sự tôn kính của Nhà nước với tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh, để tiến tới việc được tổ chức UNESCO thế giới công nhận

Việc Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì nếu được UNESCO thế giới công nhận, sẽ cho thấy thế giới đánh giá rất cao, đồng thời cũng thừa nhận đời sống tâm linh của người Việt Nam, vốn đã có từ hàng nghìn năm nay. Trong bối cảnh hội nhập văn hóa, đa dạng văn hóa, thì việc Tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Tản Viên ở Ba Vì nếu được công nhận chứng tỏ sức sống của văn hóa Việt Nam, gắn với dòng chảy văn hóa hội nhập vào thế giới. Tín ngưỡng này khi được công nhận sẽ khích lệ nhận thức về lòng biết ơn tổ tiên ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như nhận thức chung về tôn trọng đa dạng văn hóa trong cộng đồng.

Với những giá trị độc đáo và riêng biệt kể trên, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu các điều kiện để di sản này được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế giới của Việt Nam:

1. Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) được coi là vị đệ nhất phúc thần của nước Việt, đứng đầu trong tứ bất tử. (tứ bất tử: Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh mẫu Liễu Hạnh). Tản Viên Sơn Thánh là con ông Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh Thị Đen quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Như vậy Thánh Sơn Tinh không chỉ là người trong một truyền thuyết mà là con người có thật bằng xương bằng thịtTruyền thuyết Sơn Tinh – hình tượng một anh hùng áo vải, từ một người tiều phu đã trở thành một vĩ nhân vì dân vì nước. Truyền thuyết này đã được ra đời từ thời vua Hùng dựng nước, đã đi vào ký ức con người Việt từ thủa đất Việt còn sơ khai cho đến tận ngày nay chưa bao giờ bị mai một và ngày càng được nhiều thế hệ tôn thờ.

Tản Viên Sơn Thánh đã xuất hiện ở một đia danh, một vùng núi thiêng của đất Việt

Theo Lĩnh Nam chích quái về truyện núi Tản Viên (Văn thư lưu trữ mở Wikisource 2012). Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm trượng. Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên Tản. Theo sách Ai giao châu tự của Đường Tăng thì Đại Vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Lần theo thần tích Việt và thần thoại Trung Hoa, sẽ cho câu trả lời về phép thần của Sơn Tinh và long mạch của núi Tản. Cao Biền nhà Đường muốn yểm những nơi linh tích của Nam Việt bằng bùa phép. Biền đem thuật bùa để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng: "Linh khí ở phương Nam không thể lường được”.

Theo sách “Bắc – Thành Địa dư chí” của Lê Đại Cương (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tháng 2/2012): “ Núi này ở huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai (nay là huyện Ba VìHà Nội). Hình núi tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng rãi bao la, đứng cao hùng vĩ, làm trấn sơn cho cả một vùng, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây có sông Đà chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cảnh trí đẹp”. Tại Đền Và thờ Thánh Tản Viên (Sơn Tinh) có đôi câu đối:

Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không

Hạo khí quan mang vạn cổ tồn

Có nghĩa là:

Dáng hình sừng sừng ngang trời rộng

Hạo khí mênh mang vạn thuở còn.

Dưới triều Nguyễn, năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836) đúc “ Cửu Đỉnh” biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của nhà Nguyễn. Minh Mạng cho chạm hình núi Tản Viên vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng 1.950 kg)

Núi Tản Viên (Ba Vì) chiếm một vị trí quan trọng, không những về mặt địa lý mà còn có địa vị độc tôn trong tâm linh người Việt, trong sách “ Dư địa chí” Nguyễn Trãi viết : “Núi ấy là núi tổ của nước ta đó”.

Nhất cao là núi Ba Vì, Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.

Sự thực núi Ba Vì chỉ cao 1.296m, núi Tam Đảo lại cao đến 1.581m, nhưng vì núi này là nơi ngự của Thần núi (thần Tản Viên), nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi cao ở đây là cao trong tâm thức, không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý.

Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy Tinh mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Vua nhà Đường đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tới phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay). Theo sách này, để nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đã cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy) dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm tà triệt long mạch nước Việt. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên chúng đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng của nước Đại Việt. Hoàng Phúc đời Minh cũng chỉ dám dựng bia trên Tam Đảo chứ không dám động tới núi Tản.

Truyền tích núi Ba Vì (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tháng 2/2012) Núi Ba Vì là ngọn núi thần kỳ, là một trong những ngọn núi cổ nhất của nước Đại Việt. Những phát hiện về khảo cổ học vùng văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng truyền thuyết lớn phát triển sớm trong lịch sử hình thành dân tộc. Núi Ba Vì còn là nơi ngự trị muốn đời của Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, Ngài là vị thần tối linh trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Về Truyền thuyết Sơn Tinh

Theo các thần tích vùng Sơn Tây, Vĩnh Phú thì Tản Viên Sơn Thánh là người ở động Lăng Xương (Thanh Thủy – Phú Thọ ngày nay), tên là Nguyễn Tuấn (Nguyễn Tùng), con ông Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh Thị Đen. Khi lớn lên nhận bà Ma Thị Cao Sơn ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi.

Theo Ngọc phả Đền Lăng Xương do TS Nguyễn Hữu Công, quan Đô Đốc Thượng Thư cùng với Nguyễn Công Chính và Nguyễn Minh Khai lập vào ngày 15  tháng 11 năm 1011 đời Lý Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên thứ III, Thánh Tản Viên - Sơn Tinh tên thật là Nguyễn Tuấn, con ông Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh Thị Đen (còn gọi là Bà Thái Vĩ), sinh sống ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Tương truyền một hôm bà vào rừng kiếm củi, đến Thạch Bàn bỗng thấy mây lành bao phủ, rồng vàng bay xuống phun nước như mưa, khí thiêng lan tỏa. Sau khi rồng bay đi, bà thấy hương bay ngào ngạt, nước giếng trong như ngọc, bà liền xuống tắm rồi mang thai từ đấy. Mười bốn tháng sau, đúng ngày rằm tháng giêng năm Đinh Tỵ, giữa giờ thìn bà trở dạ sinh hạ được một cậu con trai tướng mạo khôi ngô, tuấn tú khác thường đặt tên là Nguyễn Tuấn. Lớn lên, Nguyễn Tuấn trở thành người cứu độ, tài cao, văn võ song toàn, có phép thần thông biến hóa, “hô phong hoán vũ” và trở thành vị thần (Thánh) của núi Tản Viên – Thần Sơn Tinh. Ông được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Rốt cuộc, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận... 

Theo một truyền thuyết khác (nguồn Newvietart.com) thần Sơn Tinh được sinh ra ở động Lăng Xương, nay thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Đứng từ núi Tản nhìn sang mảnh đất bên kia bờ Sông Đà chính là vùng đất Lăng Xương.

Truyện kể lại rằng, ngày xưa ở vùng đất Lăng xương có một cặp vợ chồng nọ, tuổi đã ngoại ngũ tuần mà chưa có con. Một ngày, người chồng vào rừng kiếm củi và gặp một vị thần hiện lên mà rằng “Nhà ngươi phải chăm lo tu nhân tích đức, gắng làm việc thiện và đem di cốt của Tổ phụ mà an tang trên sườn núi Tản, không bao lâu sẽ sinh được quý tử và làm rạng danh gia tộc”. Sau khi nghe thần núi mách bảo, về nhà bà vợ có thai. Sau 14 tháng mang thai, bà hạ sinh được một con trai, đặt tên là Nguyễn Tuấn. Năm Nguyễn Tuấn lên 6 thì cha là ông Nguyễn Cao Hành qua đời; đến năm Tuấn lên 12 thì mẹ là bà Đinh Thị Đen cũng qua đời. Cùng năm đó người chú và thím ruột của Tuấn cũng qua đời để lại hai người con trai còn nhỏ tên là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển. Hàng ngày ba anh em vẫn bơi qua sông, lên núi Tản Viên kiếm củi. Đến mùa nước lên, ba anh em không thể qua sông kiếm ăn, vì thế họ quyết định chuyển hẳn nhà sang chân sườn núi Tản để ở. Trên nền đất của Động lăng Xương- nơi thần Sơn Tinh được sinh ra, nhân dân trong vùng đã lập điện thờ cha mẹ ngài để tưởng nhớ công ơn sinh thành nên một người con kiệt xuất, có công giúp dân trừ nạn giặc nước, đó là đền Lăng Xương.

Trở lại với câu chuyện truyền thuyết, sau khi ba anh em đức thánh Tản lập nhà dưới chân sườn núi, thì hàng ngày đều lên núi kiếm củi, khai hoang. Một ngày, ba anh em được một người phụ nữ trên núi nhận làm mẹ nuôi – bà tên là Ma Thị Cao Sơn. Bà đã truyền dạy cho 3 anh em họ các chú thuật và phép thiền định. Ba anh em tiếp thu rất nhanh, không chỉ giỏi các chú thuật mà ba anh em còn được học các môn như Binh pháp, y pháp và các nghề thủ công, đặc biệt là việc trị thủy, trồng lúa nước và nuôi tằm dệt lụa. Dấu vết của nghề dệt lụa vẫn còn được lưu giữ tại làng Cổ Đô dưới chân núi Ba vì... Trải qua 6 năm học tập chuyên cần, ba anh em họ Nguyễn đã tới lúc trưởng thành. Một hôm bà Ma Thị cho gọi ba anh em lên mà dặn rằng: “ Nay các con đã trưởng thành, các pháp ta cũng đã dậy xong, núi này thuộc Kim Sơn, nguồn dương khí chốn trời Nam, rất thích hợp cho các con cư trú. Còn ta sẽ về Hương sơn để khai tràng thuyết pháp. Nay các con là đệ tử của ta, phải khuông phù đạo ta, chăm lo cho dân, giữ cho dân chúng trời Nam được hưởng thái bình.” Nói rồi bà bay đi. Kể từ đó, ba anh em chuyên tâm chăm lo, dạy dỗ dân chúng, chữa bệnh dạy học cho dân, được nhân dân kính trọng và tôn 3 anh em ngài lên làm Thủ Lĩnh, cai quản dãy núi Ba Vì.

Một truyền thuyết khác, tương truyền rằng, Thánh Tản Viên tên thật là Nguyễn Tuấn, con một vị trưởng lão họ Nguyễn ở Sơn Tây. Năm 6 tuổi thì cha qua đời, 2 mẹ con đến ở nhờ nhà bà Ma Thị Cao (con thần núi Tản Viên). Một hôm, Nguyễn Tuấn lên núi đốn củi gặp thần Thái Bạch, thấy cậu bé khôi ngô, tuấn tú, thần đã trao cho cây gậy thần và dạy câu thần chú để cứu đời. Sau này chàng có công cứu con Long Vương thoát chết và được Long Vương đền ơn biếu cuốn sách có thể hiểu mọi lẽ huyền vi của trời đất. Biết chàng là người có tài, có hiếu, trước khi qua đời, mẹ nuôi đã trao cho chàng cai quản muôn vật ở núi Tản Viên. Khi Vua Hùng kén rể cho công chúa Mị Nương, Nguyễn Tuấn nhờ có sách quý và gậy thần đã kiếm được sính lễ mang đến trước Thủy Tinh và cưới được Mị Nương. Sau chiến thắng Thủy Tinh và quân Thục, biết chàng là người có tài, Hùng Vương đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho đi du ngoạn khắp nơi giúp dân. Thần núi Tản Viên hết sức linh ứng, khi nào nhân dân cầu mưa, cầu nắng cho mùa màng đều được ứng nghiệm. thánh Tản Viên thường đem theo cây gậy thần cứu chữa bệnh cho người nghèo khổ. Khi đi qua vùng Tam Hồng, thấy cảnh sơn thủy hữu tình, Ngài đã dừng chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá, sản xuất nông nghiệp.  Ghi nhớ công đức của Ngài, nhân dân Tam Hồng dựng một ngôi đền thờ gọi là đến Thính, xây ở phía Bắc núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng nên có tên là đền Bắc Cung nay là xã Tam Hồng huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc (một trong “Tứ cung” thờ Đức thánh Tản Viên).

Theo thần tích đền Và, phép thuật của Tản Viên bắt đầu từ việc đi chặt cây trên núi Tản gặp Thái Bạch Thần Tinh, được truyền cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử. Từ đó Nguyễn Tuấn xưng là Thần Sư, bắt đầu đi cứu dân độ thế. Bảo bối thứ hai của Thánh Tản bắt đầu từ việc cứu được con rắn thần, là con trai Long Vương ở Động Đình. Sau khi xuống thăm Long cung Tản Viên đã được tặng quyển sách ước. Tản Viên từ đó dùng gậy thần và sách ước đi khắp nơi, lấy được công chúa Ngọc Hoa, chiến thắng Thủy Tinh, đánh thắng quân Thục

Hiện nay ở các cung điện cũ của thần Tản Viên đều có nhắc đến 2 bảo vật gậy thần sách ước trên. Câu đối ở đền Và (Đông Cung) ở thôn Vân Già, Sơn Tây:

Tiên trượng ước thư truyền dật sử

Đông cung Tây trấn ngật linh từ.

Dịch:
Gậy thần sách ước dã sử truyền

Cung Đông trấn Tây đền linh tỏ

Hay câu đối khác cùng một ý tại đền Và:

Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ  Đông cung Tây trấn

Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, túc kim dục đắc kỳ thuật, diêu hô tiên trượng ước thư.

Dịch:
Thần linh thiêng, đất linh thiêng, vĩ nhân linh thiêng, Cung Đông trấn Tây cao ngất

Núi thành thuật, sông thành thuật, đạo đức thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ.

 Dù là truyền thuyết gì cũng đều nói lên đức Thánh Tản Viên có xuất thân từ một người áo vải như bao người dân bình thường khác nhưng có trí dũng song toàn và hết lòng vì dân, vì nước.

2. Một con người được tôn lên là Thánh đứng đầu trong tứ bất tử của dân Việt vì trí dũng song toàn và hết lòng vì dân, vì nước.

+ Là con người lương thiện, cứu người, không ham tiền tài, địa vị, một đại nhân cứu tinh dân tộc. Truyền thuyết kể rằng nguyên thánh Tản nhà nghèo vào rừng kiếm củi, chặt phải cây cổ thụ, hôm sau có sao Thái Bạch hiện ra cứu cây sống lại rồi cho ngài một cây gậy đầu sinh đầu tử có phép cứu nhân độ thế. Một hôm ngài thấy lũ trẻ chăn trâu đánh chết một con rắn to, trên đầu có chữ vương nên biết là rắn lạ, liền dùng gậy thần gõ vào đầu rắn làm rắn sống lại, rắn hồi sinh bò xuống sông đi mất. Vài hôm sau, một chàng trai xuất hiện đem vàng bạc châu báu tới biếu ngài xưng là Tiểu long hầu, con Nam Hải Long Vương, mải đi chơi trên trần chẳng may bị bọn trẻ con đánh chết, Tiểu long hầu được thánh Tản cứu sống nên tới tạ ơn. Ngài nhất định không nhận đồ biếu nên Tiểu long hầu mới biếu ngài một cái ống linh tê có thể rẽ sóng xuống thăm Thủy cung. Ngài nhận lời xuống thăm Long cung, Long Vương gặp ngài mừng rỡ mở tiệc 3 ngày khoản đãi, trước khi ra về Long Vương tặng gì ngài cũng không nhận, sau Long Vương mới tặng ngài một cuốn Sách Ước, ước gì được nấy. Từ đó trở đi, thánh Tản trở thành vị thánh thượng đẳng, không thánh thần nào sánh được. Ngài hóa thân quanh vùng tế độ dân gian, giúp dân diệt trừ yêu quái. 

Truyền thuyết cũng kể rằng sau khi lấy được công chúa Mỵ Nương, là con rể của vua Hùng Vương thứ 18, (hiệu là Hùng Huệ Vương). Biết chàng là người có tài, có đức qua việc đánh thắng Thủy Tinh và quân Thục. Hùng Vương đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho đi du ngoạn khắp nơi để giúp dân. Sự đức độ của Ngài còn được thể hiện qua việc đánh Thục Phán.  Khi quân của Thục Phán tiến vào Phong Châu thì thế trận của Sơn Tinh cũng bày đặt xong. Ý định của Sơn Tinh là đánh cho Thục Phán một trận thua nhớ đời, không còn bao giờ dám đem quân tới xâm lấn nữa. Vì vậy, chàng đã không mở sách ước và gậy thần ra, bởi vì nếu không, Thục Phán và quan quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi. Nhờ tài binh của Sơn Tinh, cuộc chiến tranh Hùng Thục chấm dứt, Thục Phán phải cầu hòa, từ đấy vĩnh viễn từ bỏ ý đồ xâm lược.

Sơn thánh Tản Viên là người vì dân, hết lòng lo cho dân. Khi vua Hùng già yếu, Nguyễn Tuấn  vốn bản tính không thích làm vua mà chỉ muốn sống cuộc đời dân giã nên đã khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán để tránh cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt. Để ghi nhớ công ơn của Sơn Tinh, và cũng để tỏ lòng biết ơn vua Hùng nhường ngôi cho mình, An Dương Vương đã cho lập ở Nghĩa Lĩnh một cột đá thờ rất lớn, rồi tới các ngày tuần tiết, đều tự đến đây thắp đèn hương dâng lễ vật và đọc lời thề nguyện. 

+ Trị thủy cứu dân

Là người Việt, ai cũng thông thuộc truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, Truyền thuyết vua Hùng kén rể gả công chúa Mỵ Nương cho Sơn Tinh đã được đề cập trong rất nhiều sử liệu như Đại Việt sử kí toàn thư, Lĩnh Nam chích quáiViệt sử diễn âm,Thiên Nam ngữ lụcĐại nam quốc sử diễn ca và nhiều thần tích thần phả...

Ấn tượng sâu đậm nhất mà truyền thuyết này để lại là cuộc chiến khốc liệt do Thủy Tinh – vị thần có tài hô mưa gọi gió tiến hành để giành lại nàng Mỵ Nương từ tay Sơn Tinh - vị thần cai quản dãy núi Ba Vì.

Sức mạnh bão tố của Thủy Tinh ghê gớm đến mức phá tung cả những dãy gò đồi ở phía Bắc Ba Vì tạo thành suối Di, kể cả ruộng đồng ở phía Đông núi cũng thành sông Tích, húc nghiêng cả hòn Chàng Rể án ngữ phía Tây dãy Ba Vì, đến nỗi trái núi này bây giờ vẫn còn gù lưng, gây ra vô vàn thiệt hại khiến nhân dân khốn khổ…

Sơn Tinh nghĩ ra trăm phương nghìn kế để đối phó như việc cắm chông ở bãi Đá Chông, thả rong rào, giăng lưới ở vùng Suối Cái, cho quân gieo hạt thành rừng xung quanh ngọn U Bò, ném lạt tạo thành lũy tre dày ở vùng Ngòi Lạt…, nhờ vậy mới đánh bại được Thủy Tinh.

              Dù bị đánh bại nhưng Thủy Tinh không chịu bỏ cuộc, hàng năm lại làm mưa gió để đánh ghen Sơn Tinh, làm nước ngập mênh mông khắp đồng ruộng, mùa màng mất trắng. Và lần nào Thủy Tinh cũng thua, phải rút quân về.

+ Đức thánh Tản Viên dạy dân cách làm ăn và sinh sống

Đức thánh Tản Viên là một trong bốn vị thần "bất tử" trong thần thoại Việt Nam. Người đã đi khắp mọi nơi dạy dân làm ăn sinh sống.

Dạy dân làm ra lửa: Ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây lúc ấy đang sống trong cảnh tối tăm, lạnh lẽo. Dân chưa có lửa mà cũng không biết lấy lửa vì nơi đây còn là đất hoang, cây cối mọc thành rừng. Đêm nằm Sơn Tinh nhìn thấy những bụi dang, bụi nứa khô hanh gặp gió núi, cọ sát vào nhau và tự bật ra lửa. Hôm sau, Sơn Tinh đã gọi một cụ già thổ dân lại và cùng với ông già lấy hai ống dang già cọ sát vào nhau và lấy nắm rơm rạ để châm lửa. Lửa có từ ngày đó. 

Dạy dân làm ruộng và mở hội: Ở xã Liệt Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Tây, đất đai màu mỡ nhưng bị ngập nước. Thần đưa ra một nắm hạt giống, dạy cho mọi người cách chọn, cách gieo. Khi mạ lên xanh, thần nhổ lên đem trồng ở các bãi phù sa. Thần xuống cấy để cho mọi người bắt chước rồi thần từ biệt ra đi. Khi lúa chín, thần quay trở lại dạy cho dân làng cách múa hát và dặn cứ thu hoạch xong thì mở hội như thế mà mừng được mùa. 

Dạy dân săn bắn: Ở núi Ba Vì (Tản Viên) lúc bấy giờ có một đám đông chạy theo con thú ném đá, quăng lao, hò reo đuổi bắt nó mãi mà không được. Sơn Tinh liền gọi mọi người lại dạy cho cách săn bắn. Thần chỉ cho cách làm hầm gài tên, căng lưới để vây các loại thú. Phường săn biết dùng lưỡi đi săn từ đấy.

Dạy dân kéo vó: Một lần đi qua vùng sông Hồng nước mênh mông, thấy dân chúng chỉ biết mò cá và úp cá, rất vất vả, Sơn Tinh bày cách cho họ kiếm dây để đan vó: vó có cần, vó có trục, vó có dây kéo. Nghề kéo vó từ đấy hình thành và phát đạt. Nhớ Sơn Tinh, dân có tục đánh cá thờ. Cá đánh được phải chọn con to nhất, góp làm cỗ cúng đức Thánh Tản. Tại đền Và thuộc xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Tây thờ thần Tản Viên. Hiện nay mở lễ hội 3 năm một lần vào ngày 15 tháng 1 âm lịch. Mở đầu là lễ rước kiệu Thánh Tản Viên từ Đông cung lên đền thờ Thánh trên núi Ba Vì. Sau đó có tục lệ đánh cá, lấy nước sông Hồng tắm tượng Thánh ở đền. 

Dạy dân luyện võ: Những ngày chiến đấu với Thuỷ Tinh và với quân Thục Phán, Sơn Tinh đã dạy cho dân chúng võ nghệ, cả phép đánh dưới nước và đánh trên bờ. Để tưởng nhớ Sơn Tinh, vùng Thanh Thuỷ (Phú Thọ) và Ba Vì có tục bơi thuyền rước quân, đấu vật và mở hội Chém May. Những trai tráng được kén vào hàng võ sĩ tay trái cầm thuyền giấy đỏ, tay phải cầm con dao dài múa theo nhịp trống. Họ phải chém sao cho ngọt, chỉ một nhát là đứt ngang cây chuối. Đó là lễ cung nghinh Thánh Tản và người dân tin rằng "Chém May" mà thực hành tốt đẹp thì năm đó mùa màng tươi tốt.

Dạy dân dệt lụa: Người dạy dân dệt lụa là Ngọc Hoa, vợ của Sơn Tinh. Nàng đã dạy người dân vùng đất bãi sông Thao, sông Hồng ươm tơ, dệt lụa, dệt ra những tấm the đẹp nhất để tiến Vua Hùng. Hàng năm, làng lại tổ chức ngày hội thi chọn lụa tốt tiến vua và trình làng lĩnh thưởng. 

Dạy dân múa hát: Theo truyền thuyết, khi Thánh Tản Viên rước công chúa Ngọc Hoa về quê mình, đi gữa đường Ngọc Hoa không chịu đi nữa. Dân làng kéo ra cùng Sơn Tinh khuyên dỗ, ca hát, cười múa cho Ngọc Hoa khuây khoả. Thế là Ngọc Hoa hoà mình vào đám múa hát, dạy dân thêm nhiều hình thức nghệ thuật khác nữa. Tục rước chúa trai chúa gái, trò diễu bách nghệ khôi hài đến nay vẫn còn là có nguồn gốc từ cuộc rước Ngọc Hoa về núi Tản Viên. Trò này có ở nhiều làng. Ở làng Hy Cương tổng Xuân Lũng nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ, lễ hội tổ chức từ ngày 30 tháng Chạp đến ngày 8 tháng Giêng, trong đó có rước voi mã tượng trưng cho quân tướng của Sơn Tinh đi đón Ngọc Hoa (Cuocsongviet.com.vn) .

3. Dân tôn thờ đức Thánh Tản Viên bằng nhiều đền thờ được xây dựng ở khắp mọi miền đất Việt và trở thành một tín ngưỡng của người dân Việt.

Trước khi các tôn giáo lớn định hình trên mảnh đất hình chữ S, người Việt đã phát triển tín ngưỡng của riêng mình. Ngoài thờ gia tiên, tổ nghề, các anh hùng chống ngoại xâm..., tục  thờ đức thánhTản Viên đã trở thành một tín ngưỡng của người Việt., cũng như tục thờ cúng các vua Hùng, Thánh Gióng, thánh Chử Đồng Tử và Thánh Bà Chúa Liễu Hạnh…
Tản Viên biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụt; cái thiện thắng cái ác; Thánh Gióng kết tinh ý chí chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu; Bà Chúa Liễu biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh, phong phú về tinh thần.
Truyền thuyết đồng bằng Bắc bộ kể rằng Thánh Tản vốn là một nông dân dũng cảm, nhân hậu, thiên phú hùng tài, trở thành Sơn thần, thủ lĩnh của muôn loài, gọi là Sơn Tinh. Sơn Tinh thường dạy dân làm ruộng, săn bắn, kéo vó, luyện võ và mở hội. Đối lập với Sơn Tinh là Thủy Tinh, vị ác thần cai quản các loài thủy tộc thường dâng nước tràn lên cướp phá mùa màng, cầm thú, làm hại dân lành. Hùng Vương - vị vua của các bộ lạc Việt, mở cuộc thi tài kén rể cho công chúa Mỵ Nương. Sơn Tinh thắng, được Vua Hùng gả con gái. Thủy Tinh thua, đem hận dâng nước lũ và xua thủy quái đánh phá. Sơn Tinh cùng thần dân và các loài vật trên đất liền chống chọi quyết liệt. Nước càng dâng thì núi lại càng cao. Thủy Tinh bại trận.
Cuộc chiến đấu chống Thủy Tinh của Sơn Tinh và muôn loài phản ánh lịch sử tự nhiên của một đất nước lưng dựa vào núi, mặt hướng ra biển, quanh năm chống thiên tai địch họa. Thờ Thánh Tản là tôn thờ và tin cậy vào sức mạnh thiêng liêng, vào đức nhân nghĩa, tin vào cái thiện thắng cái ác, nỗ lực sinh tồn của con người.

Tục lệ thờ Đức Thánh Tản có từ rất lâu. Khoảng 250 năm trước Công Nguyên, An Dương Vương cho lập đền thờ đức Thánh trên núi Tản Viên, gọi là Đền Thượng, nay thuộc Ba Vì, Sơn Tây, ngoại thành Hà Nội. Cứ ba năm một lần, vào 15 tháng giêng âm lịch, tại đây diễn ra lễ hội lớn, với hàng vạn người tham dự. Lễ hội gồm nhiều hoạt động như rước bài vị thánh Tản, đánh cá sông (99 con) làm gỏi dâng tế, lễ rước Thánh bà Mỵ Nương, múa gà, đấu cờ, hát đúm…

Vào ngày hội lễ, nhà Vua hoặc tự thân hoặc cử đại quan tới dâng hương. Ngày nay, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính phủ cũng thường tới dự lễ tại đền chính trên núi Ba Vì, Hà Nội.

Lễ hội Tản Viên Sơn Thánh

15 tháng Giêng, Lễ hội đền Thượng, đền Trung, đền Hạ tưởng nhớ công đức của Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) - vị thánh đứng đầu trong "Tứ bất tử" theo quan niệm dân gian của người Việt đã được khai mạc trọng thể tại đền Hạ, xã Minh Quang, huyện Ba Vì (Hà Nội).

   Sự tích về Thánh Tản Viên không do một ai sáng tác. Chúng được nhân dân ngàn đời thêu dệt. Đức Thánh độ trì cho lĩnh vực cốt yếu trong đời sống người dân Việt, là sự dũng cảm, lòng từ bi nhân ái, biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụ đã, đang và mãi mãi được tôn thờ. Đó là một nét độc đáo trong tín ngưỡng của người Việt.

Tản Viên Sơn Thánh là vị thần đứng đầu trong Tứ bất tử của Việt Nam-vị thần được thờ nhiều nhất ở miền Bắc.

Theo tryền thuyết, Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, những nơi Người đến đều được người dân dựng hành cung  để thờ cúng. Hiện tại hệ thống các hành cung của Tản Viên còn lại gồm:

Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của núi Ba Vì.

Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với Động Lăng Xương huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ - Nơi thờ đấng sinh thành Ngài là cha Nguyễn Cao Hạnh và mẹ bà Đinh Thị Đen.

Nam Cung là đền Ao Vua.

Đông Cung là Đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh sông Hồng. Hội Đền Và khi tổ chức còn có sự tham gia của làng Duy Bình, nơi có Đền Dội ở đối diện bên kia bờ sông Hồng, tương truyền là nơi Thánh Tản đã lấy nước tắm bên sông.

Bắc Cung là đền Thính ở Tam Hồng - Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Thính là đọc tranh âm của Thánh.

Bắc Cung Thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Yên Lạc cũng là nơi có di chỉ khảo cổ Đồng Đậu, với tầng văn hóa từ thời Phùng Nguyên.

Theo thần tích Đền Và thì cung Trung và cung Hạ (Tây Cung) là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.

Tuy gọi là Đông – Tây – Nam – Bắc cung nhưng nếu nhìn trên bản đồ thì các cung này nằm gần như trên cùng một đường thẳng chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, cắt vuông góc với sông Hồng ở gần Sơn Tây. Đây là cũng là hướng “tọa Cấn hướng Khôn”, hướng của Đền Thượng như ghi trong thần tích Đền Và.

Truyền tích núi Ba Vì (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tháng 2/2012) Khu vực núi Ba Vì hiện có gần 100 ngôi Đình, Đền thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như Đền Trung, Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Đá Đen, Đền Vật Lại, Đền Măng Sơn, Đền Khánh Xuân, Đình Yên Nội, Đình Tây Đằng, Đình Mỗ Lao, Đình Quất Động, Đình Đông Viên, Đình Quan Húc, Đình Phú Thứ, Đình Thanh Hùng, Đình Thụy Phiêu v.v…

Nói đến thánh Tản Viên (hay còn gọi Sơn Tinh), ta dễ tưởng tượng đến một vị thần với tài phép khôn lường, đã chiến thắng Thủy Tinh trong cuộc đua để lấy con gái vua Hùng. Tuy nhiên, tại một ngôi đền ở Phú Thọ có một cuốn Ngọc phả, trong đó viết rõ ràng Sơn Tinh là một người có thật, nhân thân rất rõ ràng.

Nằm phía bên kia sông Đà, về phía huyện Thanh Thủy, Phú Thọ có một ngôi đền mà theo Ngọc phả, chính là ngôi đền đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Ngôi đền có tên là đền Lăng Sương, hiện nằm ở xã Trung Nghĩa, Thanh Thủy, Phú Thọ.

Theo Ngọc phả đền Lăng Sương, ngôi đền này được xây dựng vào năm 1011, triều Lý. Đền đặt trên nền đất cũ nơi thánh Tản Viên sinh ra và lớn lên. Ông Tăng Văn Tuất, một trong ba thủ nhang của đền cho biết: “Mọi người thường lầm tưởng thánh Tản Viên là trong truyền thuyết nhưng ngọc phả còn lưu ở đây cho biết ngài là một người có thật, tên là Nguyễn Tuấn. Thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là Đinh Thị Đen, vốn là những người tu nhân tích đức nhưng hiếm muộn con cái.

Một hôm mẫu Đen (Cách người dân ở đây gọi những bậc sinh thành ra thánh Tản Viên một cách kính trọng) ra giếng gánh nước thì gặp rồng vàng phun châu nhả ngọc. Mẫu gánh nước về tắm thì đột nhiên mang thai. Người thường chỉ mang thai 9 tháng nhưng mẫu mang thai đúng 14 tháng mới sinh. Đến thai kỳ thì sinh được một con trai có tướng mạo khôi ngô, đặt tên cho là Nguyễn Tuấn”.

Ngày nay, trong khuôn viên ngôi đền vẫn còn di tích cái giếng và phiến đá bên miệng giếng có in dấu chân người Việt cổ. Tương truyền rằng những dấu vết đó là dấu ấn do mẹ Nguyễn Tuấn thường ngồi trên phiến đá cúi xuống lấy nước nên in thành vết.Độ sâu của giếng chỉ khoảng 3 đến 4m. Tuy vậy, ông Tuất cho biết rằng chưa bao giờ giếng này cạn nước cả: “Như năm 1954, ở khu vực xung quanh đại hạn, ruộng đồng rồi ao hồ đều cạn nước mà giếng nước này vẫn có nước, nước vẫn trong. Không rõ là có mạch nước ở đâu mà như vậy”.

Cũng theo ngọc phả, Nguyễn Tuấn sau này lấy con gái Hùng Vương và được truyền ngôi vua. Nhưng đến năm Đinh Thìn thì ngài nhường ngôi cho Thục Phán An Dương Vương để lập ra nước Âu Lạc. Nhờ những công lao trị thủy và hộ quốc an dân, sau khi ngài hóa, nhân dân thờ phụng và tôn làm Tản Viên Sơn Thánh, đứng đầu trong bộ Tứ Bất Tử của người Việt.

Ngày nay, truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh đã đi vào tiềm thức của hàng triệu người Việt qua đường truyền miệng hoặc qua sách giáo khoa tiểu học. Tuy vậy, truyền thuyết này lại không cho chúng ta biết nguồn gốc xuất thân của thánh Tản Viên. Về mặt này, cuốn ngọc phả của đền Lăng Sương đã giải thích cặn kẽ hơn.(Nguồn: VOV, Kienthuc.net.vn)

Ở đền Lăng Sương, tiền đường đặt thờ ba pho tượng. Pho tượng lớn chính là hiện thân của mẹ ngài, bà Đinh Thị Đen; hai bức tượng ngồi là hiện thân của ngài – thần Sơn Tinh và vợ ngài – công chúa Mị Nương. Ban thờ bên phải là ban thờ cha ngài; ban bên trái là thờ Dưỡng mẫu của ngài – bà Ma Thị Cao Sơn.

Hàng năm cứ vào dịp xuân về, nhân dân đến chiêm bái khu di tích Tản Viên thì đều qua sông sang đền Mẫu Lăng Sương để dâng hương lên đức thánh Mẫu. Bên ngoài cửa đền còn lưu giữ nhiều dấu tích của bà trong kỳ sinh nở. Dấu chân, dấu tay, của bà còn hằn sâu trên trên phiến đá, cho thấy sự đau đớn, vất vả của người mẹ khi sinh con.

Theo xuanthu.vnweblogs.com Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống các di tích thờ Tản Viên vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thờ Tản viên Sơn Thánh là một trong bốn vị thần "tứ bất tử" của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần "Thượng đẳng tối linh", "Đệ nhất phúc thần" đứng đầu "Tứ bất tử" trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt. Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Thánh Tản. Đây có thể coi là mảnh đất "chôn nhau, cắt rốn" của vị thần linh tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu - người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước... làm nên bản sắc của văn hóa tâm linh Việt Nam. Vì vậy, người Mẹ được thờ tự ở vị trí rất trang trọng ở đền Lăng Sương.

Theo các tư liệu còn lưu giữ tại Đền, đền Lăng Sương được xây từ thời Thục An Dương Vương. Đến đời Lê được trùng tu. Năm Thiệu Trị thứ 7 thời Nguyễn (1847) ngôi đền được tu sửa lớn. Năm Tự Đức nguyên niên (1848) khắc bia đá lưu truyền cho hậu thế. Trải qua mưa nắng và giặc giã, ngôi đến bị hư hỏng nhiều. Năm 1991, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn tạo đến Lăng Sương trên khu đất rộng với diện tích 3.000 mét vuông, bao gồm các công trình: cổng đền, miếu Hai Cô, giếng Thiên Thanh, nhà bia, nhà võng, tả mạc, hữu mạc và lăng thánh Mẫu.

Cổng đền có đôi câu đối "Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch/ Địa lưu thần tích hiển Nam bang" (tạm dịch: Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc/ Đất lưu thần tích hiến Thánh trời Nam). Và "Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần/ Bả thác long linh giáng hạ trần" (tạm dịch nghĩa: Lăng Sương ngọc sáng, ngọc tinh thần/ Máng dấu rồng thiếng xuống hạ trần).

        Qua cổng Đền là miếu Hai Cô (còn gọi là miếu Nhà Bà) thờ Bạch tinh thần nữ là thần giữ đất cùng hai người hầu là Đào Hoa và Quế Hoa. Sau miếu, về phía tây là giếng Thiên Thanh quanh năm có nước, trong vắt, nhìn thấy tận đáy. Tương truyền là nơi rồng vàng xuống phun châu nhả ngọc, thánh Mẫu ra giếng gánh nước về ngồi trên phiến đá tắm gội. Sau đó bà có mang 14 tháng và sinh ra Tản Viên. Cạnh giếng Thiên Thanh là nhà bia được xây theo kiểu kiến trúc nhà 4 mái, trong đặt tấm bia khắc năm Tự Đức nguyên niên (1848) ghi công đức của những người có công tu sửa lại đền. Trước sân đền chính là nhà võngTương truyền là nơi Tản Viên lúc còn nhỏ thường nằm võng. Trong nhà có một chiếc võng phủ vải đỏ, gọi là võng đào. Đặc biệt có 8 cột đá cao 2,1 m được xây vào thời Lê. Ở giữa nhà võng đặt một chậu bằng đá xanh hình vuông, tương truyền là chậu đá để Tản Viên tắm khi còn nhỏ. Trên chậu đá có đặt một bòn đá tương truyền khi Thánh Mẫu sinh Tản Viên xong đã dùng để chèn bụng.

Đền chính có kiến trúc kiểu chức công (I) gồm 3 gian đại bái, ống muốn và 3 gian hậu cung. Trong tòa đại bái có xây bệ thờ tượng Cao Sơn và Quý Minh là bộ tướng có công giúp Tản Viên dẹp giặc Thục. Tòa hậu cung bài trí long ngai thờ Thánh Mẫu Đinh Thị Đen (mẹ của Tản Viên) và thờ đức Thánh Tản. Trong tòa hậu cung còn thờ Thánh phụ Tản viên là ông Cao Hành, bà dưỡng mẫu (mẹ nuôi) là Ma Thị và công chúa Ngọc Hoa (vợ Tản Viên). Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía đông bắc, tương truyền có ngôi mộ của Thánh Mẫu nay ở đó đã được xây thành lăng tẩm.  

            Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản). Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25 tháng mười hôm sau. Còn ngày giỗ chính của đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội. Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt xa xưa.

Trong lễ hội chính rằm tháng giêng hàng năm, đoàn rước có 100 thanh niên trai tráng rước 3 kiệu (kiệu rước hoa quả, kiệu rước nước, kiệu rước lư hương), 8 người khiêng một kiệu (bát cống), có phường bát âm, múa lân tưng bừng rộn rã. Dân làng hòa vào đoàn rước kín chật đoạn đường gần cây số từ đền ra sông. Khi về đến Đền, sau lễ tế chính, 8 dòng họ trong xã lần lượt vào tế. Cuối cùng là du khách thập phương vào thắp hương bái lễ cầu cho một năm mới an lành, phát đạt. Đội rước tế Lăng Sương đã đạt giải nhất cuộc thi rước tế tỉnh nhân dịp kỷ niệm 115 năm thành lập tỉnh Phú Thọ.

Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương Đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy...

          Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày 12/7/2005 xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Khu di tích lịch sử Đền thờ Tản Viên Sơn Thánh ở vùng núi Ba Vì gồm ba ngôi đền chính (đền Thượng, đền Trung và đền Hạ), được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 21/2/2008.

Đền Hạ (Tây cung)

Ngôi nhà mà ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng, Nguyễn Hiển ở sau khi vượt sông, ngày nay được lập nên đền Hạ, thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Nhân dân xây dựng ngôi đền này để tưởng nhớ những công ơn to lớn của ngài khi còn sống. Ngôi đền Hạ nằm bên sông Đà. Bước qua cổng tam quan là một khoảng sân nhỏ, dưới tán cây cổ thụ là một con Sấu Đá đang ở tư thế trầu vào đền. Nhà Tiền tế là một ngôi nhà 3 gian tường hồi bít đốc, thiết kế đơn giản. Chính giữa nhà Tiền tế bài trí tượng bốn vị Thần Quan. Ngoài ra còn có hai con ngựa gỗ và hai con voi đá cũng được bài trí tại đây. Qua nhà tiền tế là hậu cung. Chính điện là nơi thờ tam vị đức thánh tản, chính là 3 anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng và nguyễn Hiển. Gian bên trái là tượng của dưỡng mẫu – bà Ma Thị Cao Sơn. 

Gian bên trái là tượng của dưỡng mẫu – bà Ma Thị Cao Sơn.

Theo www.thanhtanvien.com (tháng 8/2009) Đền Hạ (Tây cung) là ngôi đền cổ tọa lạc dưới chân núi Tản Viên, ven bờ sông Đà thuộc địa phận xã Thủ Pháp xưa, nay là thôn Phúc Lộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.Theo Ngọc phả ”Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại Đền Và (Đông cung) thì đầu thế kỉ 18 đã có Đền Hạ, hay còn gọi là cung Hạ thận. Theo sách “Sơn Tây tỉnh địa chí” của Phạm Xuân Độ thì Đền Hạ gọi là tây cung thờ Tam vị đức thượng đắng (Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương).

Kiến trúc của Đền Hạ theo kiểu chữ TAM. Ngoài sân có tấm bia đá ghi dòng chữ “Tản viên từ ký” (ghi chép về Đền thờ Tản Viên), dựng vào năm Tự Đức thứ 1 (1848) triều Nguyễn.    

 Nội dung bia cho biết đền Hạ được xây dựng quy mô lớn, vua Tự Đức đã cấp hai nghìn quan tiền để xây dựng Đền. Đền Hạ còn có tên gọi là “Đền năm dân” (dân Trung Nghĩa thuộc Tổng Tu Vũ, dân Đồng Luận, Lương Khê thuộc Tổng Lương Truyền, dân Đan Thê, Thạch Xá thuộc Tổng Lương Truyền). Đền Hạ có ba dãy nhà ngang, nhiều hạng mục lớn như cổng Tam quan, Đại bái, Tiền tế, Hậu cung, nhà thờ Mẫu. Đền Hạ có hai pho tượng Hộ pháp dáng oai phong, tay cầm giáo trấn giữ hai bên. Trên mái cổng Tam quan có lưỡng long chầu nguyệt, hai tầng, tám mái đao cong, lợp ngói ri. Giữa hai tầng mái là bốn chữ Hán "Quốc Sơn Từ Hạ" cùng nhiều các bức tranh chạm trổ mô phỏng hình tượng mặt trời, tia sét, chim phượng, con nghê, đao mác, lửa v.v... theo phong cách nghệ thuật điêu khắc, đặc trưng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Phía trên gian giữa treo bức cuốn thư, trên nền triện gấm khắc chạm năm chữ Hán: "Tản Viên Sơn Linh Thánh" cùng một số câu đối viết bằng chữ Hán.Trải qua thời gian, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền Hạ đã bị hư hỏng nặng, không còn dáng vẻ như xưa. Năm 1998 Đền Hạ được nhân dân xã Minh Quang công đức tu sửa để hàng năm mở lễ hội dâng hương tưởng nhớ Thánh Tản Viên.

Trước kia, cứ mỗi dịp xuân về, người dân nơi đây lại tổ chức lễ rước thánh rất long trọng vào chính ngày sinh của đức thánh Tản – ngày 15 tháng Giêng. Đây là lễ hội truyền thống không những là của người dân địa phương mà còn là lễ hội của thập phương tới lễ.

Đền Hạ  đã được xếp hạng Di tích Quốc gia

Tháng 11 năm 2012 tức tháng 10 Nhâm Thìn Đền Hạ được khởi công xây dựng lại theo quyết định của Bộ Văn Hóa – Du lịch và thể thao. Đền được xây trên nền tảng của ngôi đền cũ có sự mở rộng với quy mô hình thái giống khu đền Trung. Kinh phí khoảng 65 tỷ. Theo nhà Đền nguồn kinh phí này được sự tài trợ của Nhà nước và một phần từ sự công đức của một số tổ chức, doanh nghiệp, con nhang, đệ tử nhà Đền.

Đền nguồn kinh phí này được sự tài trợ của Nhà nước và một phần từ sự công đức của một số tổ chức, doanh nghiệp, con nhang, đệ tử nhà Đền.

Theo ông Nấu chủ nhang đền Hạ hiện tại đền đã được xây dựng lại theo đúng thiết kế của dự án, nhiều phần việc đã hoàn thành và đã đi vào sử dụng. Hàng năm ngoài 15 tháng giêng Hội đền Hạ con được mở thêm vào ngày 6 tháng 11 âm lịch  là ngày hóa thân của đức thánh Tản Viên.

 Đền Trung (Tây cung)

Đền Trung nằm trên lưng chừng núi Tản Viên, khoảng cốt 600. Đền Trung được người dân nơi đây truyền tụng là chốn hết sức linh thiêng. Trước đây, không có đường cho xe lên, chỉ có đường mòn, người dân phải đi bộ. Bây giờ thì ô tô, xe máy đều có thể lên được tận nơi. Đứng ở đền Trung, phóng tầm mắt ra xung quanh là những ngọn núi với mây trắng bồng bềnh ôm ấp, phía trên là bầu trời xanh thẳm – cảnh sắc như một bức tranh lụa tuyệt tác. Không gian nơi đây dường như tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, mang một không khí tĩnh mịch vô chừng, tưởng như có thể nghe thấy cả tiếng lá rơi, tiếng gió thổi...

Đền Trung không rõ năm xây dựng. Quần thể đền Trung xưa kia rất tráng lệ, được xây dựng ở chính nơi mà xưa kia Tam vị Thánh Tản - tức ba anh em họ Nguyễn tập chú thuật cùng với Dưỡng mẫu là bà Ma Thị. Nhưng do thời gian và chiến tranh tàn phá, đền bị lãng quên, và hiện nay đang được từng bước tu sửa lại. Gian giữa hậu cung – nơi uy nghiêm nhất trong đền – bày trí 3 pho tượng là hiện thân của tam vị đức thánh Tản

Hàng năm, rất đông du khách thập phương vẫn lũ lượt kéo đến chiêm bái, cầu an tại đây. Quần thể đền Hạ và đền Trung còn được gọi là Tây cung hay là chính cung thờ thánh Tản Viên.

Theo www.thanhtanvien.com (tháng 8/2009) Đền Trung tọa lạc ở lưng chừng núi phía Tây Ba Vì (khoảng cốt 600m). Cuốn Ngọc Phả “ Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại Đền Và (Đông cung) do Quản giám bách thân Nguyễn Hiển sao lại năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) có ghi Đền Trung là nơi thờ bà Ma Thị, mẹ nuôi của Tản Viên. Truyền thuyết kể lại rằng bà Ma Thị đã lập chúc thư (di chúc) giao lại toàn bộ đất đai ở vùng núi và chân núi Ba Vì cho con nuôi là Nguyễn Tuấn và có trách nhiệm lập đền thờ để hương hỏa cho bà. Đền Trung được xây dựng từ triều Lý, đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng cho Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai trùng tu lại Đền.

 Nằm ở sườn núi trên một cánh rừng tương đối bằng phẳng, cửa Đền nhìn về hướng Tây, đối diện là núi Chàng Rể, phía dưới là dòng sông Đà như một dải mụa trắng vắt ngang, lại càng tôn lên vẻ thiêng liêng hùng vĩ. Bên tả có suối Đền, bên hữu có suối Tiên, cả hai suối ấy lấy nước từ núi Tản đổ xuống khe sâu hợp thành suối Cái. Từ Đền Trung phóng tầm mắt sang bên kia sông Đà là núi Lưỡi Hái, chân núi là đất xã Trung Nghĩa (thuộc tỉnh Phú Thọ), có đền thờ thân mẫu của Đức Thánh Tản (Đền Lăng Xương).

Đền Trung kiến trúc kiểu chữ TAM, phỏng quẻ Càn trong Kinh dịch, biểu tượng của sự bền vững. Hậu cung của Đền đặt ba pho tượng Tam vị Đức Thượng đẳng. Chính giữa là tượng thờ Tản Viên – Sơn Tinh, hai bên là tượng Cao Sơn đại vương và Quý Minh đại vương. Trong cung gian giữa bài trí tượng bốn vị quan ở tư thế đứng, mũ áo cân đai chỉnh tề, đứng hai bên đối diện nhau, biểu thị bốn vị đại thần trấn ở bốn cung Đông – Tây – Nam – Bắc . Trước Trung cung là nhà tiền tế năm gian còn lưu dấu tích lại bài thơ chữ Hán vịnh cảnh Đền Trung. Nằm ở bên phải Đền Trung còn có dãy nhà ba gian gọi là Đền Lang nay Đền Lang Mẫu, bên trong đặt ngai thờ bà Mai Thị. Trước Đền Lang là một ngôi nhà thờ Phật. Dưới chân Đền từ hướng hai cột đồng trụ trông ra là một ngôi đền nhỏ thờ Thái Bạch Thần Tinh, một vị tiên trên trời đã ban tặng cho Thánh Tản Viên – Sơn Tinh chiếc gậy thần để cứu nhân độ thế. Ngoài ra còn có bàn thờ lộ thiên thờ chúa sơn lâm (năm con hổ), nhà tiền tế, đền thờ Tả quan Nguyễn Hiển, là em con ông chú của Thánh Tản Viên. Đền Trung còn có tên gọi là “Đền ba dân” nghĩa là có dân Mường ở xã Thủ Pháp xưa và hai dân Kinh ở chân núi gọi là làng Vô Khuy và làng Ngọc Nhị cũng biện lễ chung để thờ cúng Thánh Tản.

Đền Trung ngoài việc thời Tam vị Đức Thánh Tản, còn lập một số nhà thờ riêng như mẹ nuôi Sơn Tinh, bà Ma Thị - Cao Sơn Thần nữ, tả quan Nguyễn Hiền, Thái Bạch Thần Tinh v.v… Đây là ngôi Đền có quy mô lớn, hoành tráng tạo thành quần thể di tích liên quan đến sự tích Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, là ngôi Đền có một vị thế đẹp nhất trong các ngôi Đền thờ Tản Viên ở sườn Tây núi Ba Vì.

Đền Trung có các ngày chính tiệc diễn ra trong năm như:

Ngày 03/01 âm lịch, tương truyền là ngày sinh Nguyễn Hiển (Tả quan)

Ngày 15/01 âm lịch, tương truyền ngày sinh Đức Thánh Tản Viên

Ngày 03/3 âm lịch tết Hàn Thực. Ngày 05/5 âm lịch tết Đoan Ngọ

Ngày 15/5 âm lịch tương truyền ngày hóa của công chúa Phương Dung (vợ Nguyễn Hiển)

Ngày 15/7 âm lịch lễ Vu Lan. Ngày 15/8 âm lịch tế mùa thu

Ngày 10/10 âm lịch tết cơm mới

Ngày 25/12 âm lịch, tương truyền là ngày hóa của Nguyễn Hiển (Tả quan).

Đền Thượng (Thượng cung thần điện)

Ba Vì được coi là ngọn núi tổ của nước Đại Việt. Đây là nơi ngự trị muôn đời của thần Tản Viên (tức Sơn Tinh) canh giữ cho cả vùng đồng bằng Bắc Bộ, một trong “tứ bất tử” theo tín ngưỡng của người Việt. Tản Viên (còn gọi là Ngọc Tản, Tản Sơn, hoặc Phượng Hoàng Sơn), gần đỉnh thắt lại, đến đỉnh lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản, còn chữ Viên có nghĩa là tròn. Đền Thượng trên đỉnh Tản Viên là ngôi đền rất linh thiêng, nhân dân truyền nhau rằng ai có điều gì muốn cầu xin Thần Tản Viên đều có ứng nghiệm.

“Thứ nhất đỉnh Vua, Thứ hai đỉnh Mẫu, Thứ ba đỉnh Nàng”. Dãy núi Ba Vì có ba ngọn, đỉnh cao nhất là đỉnh Vua, cao 1296m. Đỉnh giữa là đỉnh Tản Viên, cao 1281m. Đỉnh thứ ba là đỉnh Ngọc Hoa, cao 1120m.

Theo truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh: Sơn tinh cùng Mị Nương sau khi đã hoàn thành sứ mệnh đã về ẩn cư tại sườn núi Tản. Về sau không ai còn thấy Sơn Tinh nữa, nhân dân cho rằng Sơn Tinh và công chúa Mị Nương đã đắc đạo và về trời. Cũng không ai biết chính xác nơi thần thoát xác, vì thế nhân dân nơi đây đã chọn đỉnh núi Tản là nơi thờ vọng thần và coi đó là nơi ngài thoát xác khi đắc đạo. Do thế mà đền Thượng được xây dựng lên. Đền Thượng xưa kia chỉ là một thảo am nhỏ, được tu tạo lại vào năm 1993 với kiến trúc khá độc đáo, ba gian hai trai, một nửa mái sau ấp vào vách đá. Vì thế nên đền Thượng còn được gọi bằng một cái tên khác là đền Một Mái. 

Đền Thượng nằm ở độ cao hơn 1281 mét so với mực nước biển. Đại đức Thích Đạo Thịnh cho biết, bình thường ở đây quanh năm sương phủ không thể nhìn xa được, nhưng vào ngày có nắng, trời trong xanh và quang mây thì có thể phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng phong cảnh nên thơ của vùng đất xứ Đoài cổ kính này... Đứng từ đây, có thể nhìn rõ dòng sông Đà chảy êm đềm, bao bọc dãy núi Tản, ôm ấp những xóm làng yên bình vùng trung du Bắc Bộ. Nếu xét về độ cao, núi Tản Viên chưa phải là ngọn núi cao nhất nước ta, nhưng từ xa xưa đã có câu ca rằng: “ Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. Phải lên đền Thượng, phải đứng ở vị trí mà con người có thể cảm nhận được từng lớp mây trắng đang vây quanh mình, được hòa mình vào một thiên nhiên trong lành đến tinh khiết và ngẫm nghĩ về công lao của người anh hùng dân tộc, vị thánh muôn đời trong lòng người dân Việt thì ta mới thấy hết được câu nói trên.

Không phải ngẫu nhiên mà hàng triệu lượt người dân Việt từ Nam ra Bắc - hàng năm vẫn lũ lượt về đây dâng hương, tưởng nhớ tới công lao to lớn của đức thánh Tản. Người ta vẫn truyền tai nhau rằng, đứng ở đền Thượng, đánh một tiếng chuông thì tiếng chuông ấy sẽ vang lên thấu trời xanh... Đó là một mơ ước, hơn thế- là niềm tin, là khát vọng của mỗi người Việt nam về những gì tốt đẹp dành cho cuộc sống, về tình nghĩa gắn bó đồng bào- tức là con từ cùng một bọc sinh ra; tình nghĩa ấy sẽ mãi mãi trường tồn. (theo Posted by Admin on 22/10/2009)

Từ bãi đậu xe rẽ phải là cổng đền Thượng uy nghi. Qua cổng, du khách còn phải leo hơn 500 bậc đá nữa mới tới cửa đền chính ở chót vót trên cao. Ngôi đền nhỏ được xây theo hình chữ Nhất. Đền chỉ có  một mái lộ thiên lợp ngói nghiêng bên của hang. Mái sau Đền nằm ngầm dưới lòng tảng đá nên ngôi đền có thế vững chãi, trang nghiêm khá độc đáo. Ba gian của Đền Thượng tuy không rộng, nhưng huyền bí, có thăm thẳm độ sâu về tâm linh. Chính giữa ngôi Tam Bảo là tượng ĐứcThánh Tản ngự trong long ngai sơn son thiếp vàng. Bên tả là thờ Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Vương) và bên hữu là ban thờ Tam toà Thánh Mẫu (bà mẫu Thượng ngàn).

 Qua sân đền chính, leo thêm  vài chục bậc đá nữa du khách sẽ tới điểm cao nhất của Đền Thượng. Nơi đây có một chiếc lầu tám góc nhỏ thoáng, mát. Trong lầu có đặt tượng Địa mẫu đứng trên quả địa cầu dịu dàng thuỳ mị. Cạnh đó là bệ thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên, Quỳnh Hoa và Quế Hoa Công chúa quanh năm nghi  ngút hương... Từ nơi đỉnh cao này du khách có thể phóng tầm mắt ra xa thưởng ngoạn phong cảnh của thiên nhiên trong bầu không khí cực kỳ thanh khiết của núi rừng: Những dải mây như những chiếc khăn voan trắng tung bay trên tấm áo choàng xanh của non ngàn. Thấp thoáng xa xa những bóng cô gái dân tộc như những bông hoa rừng trong nắng mai. Màu xanh mượt mà trên cánh đồng ngô uốn lượn theo dòng sông Đà lăn tăn sóng... càng tô đẹp thêm cho cảnh vật quanh khu Đền Thượng - Nơi giữ bao ẩn tích gắn với truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh...

Theo www.thanhtanvien.com (tháng 8/2009) Đền Thượng khởi dựng từ bao giờ, đến nay vẫn là một câu hỏi đặt ra với các nhà nghiên cứu. Truyền thuyết và các Ngọc Phả có liên quan cho rằng Đền Thượng có từ thời Vua An Dương Vương. Đền Thượng thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh trên một mái núi thắt cổ bồng có hình tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên. Phía Tây có Đà Giang, chảy về hướng Bắc, xung quanh có nhiều cây cổ thụ cảnh trí đẹp.

Một số tài liệu chép “Đền Thượng khởi dựng từ thời Bắc thuộc, trùng tu vào đời Đường Ý Tông (860 – 874). Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, phần phụ lục có ghi: “Nhân Tông triều Lý sai thợ làm thuyền ở ngọn núi thứ nhất, có lầu 20 tầng”. Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép về đời Lý Nhân Tông (1073) có ghi: “Bấy giờ mưa dầm rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh và cúng thánh núi Tản Viên”. Đời Vua Lý Anh Tông (1145) có ghi : “Mùa thu, tháng 7 làm đền thần núi Tản Viên”. Như vậy qua các thư tịch cổ thì Đền Thượng đã có từ thời Lý Nhân Tông.

Trong cuốn sách “Les Mường” của tiến sỹ văn học người Pháp, bà Jeanne Cuisinier, xuất bản năm 1948, tại Paris (Pháp) bà viết “cứ ba năm một lần, người ta tổ chức lễ cúng ở đỉnh núi Tản Viên, trong một ngôi miếu ngày nay đã đổ nát…”. Ông S.Madro trong sách “ Miền bắc Đông Dương” có ghi “Vào dịp lễ cúng ba năm một lần những người làm lễ thuộc các huyện Tùng Thiện, Tòng Bạt dâng lên thần những lưỡi búa vằng đá và bằng đồng hun nhặt được ở chân núi Tản Viên trong những kho đồ tiền sử”.

Đền Thượng xưa thuộc đất Thủ Pháp, tổng Hoằng Nhuệ, huyện Bất Bạt, nay thuộc địa giới hành chính xã Ba Vì, huyện Ba Vì và nằm trong diện tích lân phần của Vườn Quốc gia Ba Vì quản lý.

Được sự giúp đỡ của Vườn Quốc gia Ba Vì, năm 1993 Đền Thượng đã được khởi dựng lại trên mái núi thắt cổ bồng thuộc đỉnh Tản Viên (độ cao 1.227m). Đền do kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính – Tổng Giám đốc Trung tâm thiết kế và tu bổ các công trình văn hóa (Bộ văn hóa) thiết kế. Đền Thượng được xây dựng lại ngay dưới chân vách núi đá dựng đứng dưới đỉnh Tản Viên, mà người ta cho rằng trên dấu tích của ngôi đền cổ xưa. Đền Thượng được xây theo hướng Bắc-Nam, cửa đền trông về phương nam. Bên trong đền phía trên chính điện có bức hoành phi ghi bốn chữ đại tự: “Tản Lĩnh Linh Thần”. Đền

gồm ba gian hai trái, một nửa mái sau Đền là vách đá, không có mái, kết cấu công trình làm bằng bê tông xi măng theo kiểu kiến trúc xà, cột. Phần mái được lợp bằng ngói mũi hài với đầu đao cong vút. Hai tường hồi bố trí hai vòng tròn sắc không đối diện nhau mô phỏng biểu tượng của nhà Phật. Trên ban thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh có một khám thờ trong có ba ngôi tượng đá cổ, mỗi pho tượng được tạc ở ba tư thế khác nhau, theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Thức – Sở văn hóa thông tin Hà Tây thì pho tượng giữa là Sơn Tinh, bên trái là Thái Bạch Thần Tinh, bên phải là Quý Minh đại vương.

Người có công lớn xin được đứng ra làm việc công đức để xây Đền là bà Đặng Thị Mát, thủ nhang Đền “Cốc khẩu linh từ” (tức đền Chùa Hang) thuộc xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Đền được khởi công xây dựng từ ngày 09 tháng 10 năm Quý Dậu (1993) và hoàn thành ngày 20 tháng 12 năm Bính Tý (1996). Từ năm 1997 đến nay được sự hỗ trợ của Vườn Quốc Gia Ba Vì, các cá nhân, tổ chức, khách thập phương công đức, Đền Thượng đã có nhiều công trình được bổ sung, hoàn thiện thắp sáng, cổng đền, sân đền, nhà tiếp khách v.v… 

Đền Thượng có hai đôi câu đối do ông Vũ Tuyên Hoàng – Giáo sư – Viện sỹ - Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam sáng tác, chữ viết là của cụ Lê Xuân Hòa, nhà nho, nhà thư pháp của nước ta.

Câu đối thứ nhất:

Thần uy trăm trận tan kình ngạc

Thánh hiển muôn đời dựng núi sông

Câu đối thứ hai:

Núi Tản vượt tầng cao, ba đỉnh lừng danh từ vạn cổ

Sông Đà ngăn thác dữ, một dòng rực sáng đến mai sau. 

15 tháng Giêng, Lễ hội đền Thượng, đền Trung, đền Hạ tưởng nhớ công đức của Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh)  đã được khai mạc trọng thể. Sau lễ tế, lễ rước thánh của nhân dân trong vùng và du khách thập phương, nhiều hoạt động văn hóa, dân gian đặc sắc như ném còn, cồng chiêng, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy… được tổ chức.  (nguồn: Nui ba vi.com)

Lễ hội Đền Hạ, Đền Trung - Đền Thượng, là một trong số ít lễ hội cấp vùng hiện nay còn giữ được gần như nguyên vẹn nét đẹp văn hóa vốn có. Không trống hội rền vang, không lễ rước hoành tráng, nhưng cả không gian dưới chân núi Ba Vì tưng bừng không khí lễ hội bởi hàng nghìn du khách từ khắp nơi trang nghiêm, kính cẩn xếp hàng làm lễ; bởi tiếng cồng chiêng hào hùng, khỏe khoắn của các chàng trai, cô gái bản Mường; bởi tiếng hò reo từ các trò chơi dân gian truyền thống như ném còn, cồng chiêng, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy. Cụm di tích đền Thượng, đền Trung, đền Hạ là một trong số 75 di tích thờ Thánh Tản Viên trên vùng đất thiêng Ba Vì. Vào ngày 14,15 và 16 tháng Giêng hằng năm, nhân dân trong vùng lại nô nức tổ chức lễ hội tưởng nhớ vị Thánh có công trị thủy, bảo vệ mùa màng để người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.(Nguồn: Đài TT huyện Ba Vì)

  Đền Và và Lễ hội Đền Và

 Lễ hội Đền Và được tổ chức vào ngày 15/1 âm lịch, tại Đền Và, Thôn Vân Gia, Xã Trung Hưng, Sơn Tây.

Tương truyền thuở ấy, khi vua Hùng nghe lời Sơn Tinh trao ngôi vua cho Thục Phán, đất nước trở lại cảnh thanh bình. Sơn Tinh cùng Mỵ Châu về sống trên núi Ba Vì. Ngài thường du ngoạn bốn phương, hỏi thăm dân tình. Một lần Ngài nhằm hướng mặt trời mọc đi đến quả đồi thấp ven dòng sông Tích. Thấy đây là nơi thắng địa, Ngài dừng chân nghỉ ngơi vừa lúc trên trời xuất hiện đám mây ngũ sắc từ phía núi Ba Vì bay tới kịp che mát một vùng. Ngài cho đó là điềm lành, bèn cho lập tại chỗ một hành cung. Nơi ấy nay là đền Và.

Dân sở tại Đền Và, dựa vào sự tích đám mây lành (chữ Hán là Vân già) xuất hiện trên bầu trời quê mình mà đặt tên là làng Vân Gia. Từ đó, dân thôn làm ăn phát đạt, càng chăm sóc việc hương khói thờ phụng Thánh Tản. Lễ hội Đền Và diễn ra xuân thu nhị kỳ: mùa xuân mở vào tháng Giêng, mùa thu mở vào tháng Chín.

Hội rằm tháng giêng Hàng năm lễ hội đền Và mở vào ngày rằm tháng giêng. Cứ 3 năm thì tổ chức lễ hội lớn một lần vào các năm Tý - Mão - Ngọ - Dậu. Năm lễ hội lớn ở đền Và có lệ tục rước nước do dân làng Di Bình thuộc xã Vĩnh Thịnh, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đảm nhiệm. Cũng vào năm tổ chức lễ hội lớn, các làng có liên quan tín ngưỡng ở đền cùng nhau tổ chức một cuộc rước lớn. Tất cả có 8 làng tham gia, gồm: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai thuộc xã Trung Hưng; làng Phù Sa, Phú Nhi (Bần Nhi) thuộc xã Viên Sơn và làng Di Bình (tỉnh Vĩnh Phúc).

Lễ hội diễn ra trong một không gian rộng, được tổ chức chặt chẽ. Lễ hội bắt đầu mở từ ngày 13 tháng giêng. Dân thôn Vân Gia lên đền dọn dẹp, trang trí cờ hội. Buổi chiều dân các thôn rước cỗ kiệu của làng mình về đặt ở sân trước nhà tiền tế tại đền Và. Các cỗ kiệu xuống thuyền qua sông. Cư dân vạn chài ở trên sông tấp nập kéo tới, ghép thuyền lại thành một cầu phao lớn cùng đưa đoàn rước sang sông và họ nhập vào đoàn rước trở thành những ngư­ời đi hội. Quan niệm của dân vào ngày này vạn chài nào trên sông làm nhiều điều phúc thì Thánh Tản sẽ cho nhiều lộc lớn trong năm.

Sang ngày 15 tháng giêng, ngày chính hội là những cuộc vui chơi, tiếp đón khách thập phương đến đền Và dâng h­ương, hoa trái và viếng Đức Thánh Tản. Ngày 15 ở sân tr­ước nhà tiền tế có đấu vật. Các đô vật xứ Đoài đến vật chầu bóng Thánh, sau đó diễn trò vui vật giật giải, một thú vui đua sức, đua tài vốn rất đ­ược dân xứ Đoài hâm mộ. Lễ hội thu (rằm tháng 9 âm lịch) Lễ hội mở vào ngày 14 tháng 9 (âm lịch), dân làng các thôn Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Trì, Mai Trai, Đạm Trai ùa ra đoạn sông Tích từ Thượng Cầu Vang (giáp xã Đường Lâm) đến Hạ Mả Mang (giáp thôn Ái Mỗ) cùng đánh bắt cá tập thể trên đoạn sông này. Mọi ng­ười mang những công cụ đánh bắt cá như nơm, vó, xúc... Ai bắt đ­ược loại cá trắng, to thì nộp cho làng, cá nhỏ mang về nhà. Cuộc đánh bắt cá đến khi nào chọn ra đủ 99 con thì mang số cá đó về làm tiệc cá, thờ Đức Thánh Tản ở đền Và. Lễ hội này dân gian gọi là lễ hội “ đả ngư ”. Trò đánh bắt cá tập thể của 5 làng trên đoạn sông Tích có ý nghĩa lấy vui, lấy may. Ai được con cá to tâm niệm năm ấy Đức Thánh Tản phù trợ cho làm ăn gặp nhiều may mắn. Trong số 99 con cá ấy, được rửa sạch chế biến thành nhiều món dâng lên đức Thánh Tản. Tất cả dân chúng thành kính trước uy linh của Ngài. Cuối buổi, mọi người ngồi thụ lộc các món đặc sản từ cá trong không khí sảng khoái. Có một chi tiết của lệ tục xưa ở đền Và qui định cơm ăn, cỗ cúng ở đây không được dùng muối, mà phải ăn nhạt. Khi ăn cơm xong, quan viên uống nước ăn trầu (lá trầu, cau, vỏ) nhưng không được dùng vôi. Vì thế, dân gian có câu: "Hội đền Và trầu không vôi, xôi không muối"./.(Nguồn: lehoi.cinet.vn)

Lễ hội Đền Và là một lễ hội vùng đặc sắc của xứ Đoài; thể hiện sự tôn thờ, niềm tin vào sức mạnh thiêng liêng, đức nhân nghĩa, sự nỗ lực sinh tồn của dân tộc. Đến với lễ hội, du khách như được trở về với cội nguồn tiên tổ, thoả nguyện tâm linh, thanh lọc tâm hồn, để rồi ra về ngâm nga, truyền tụng mãi câu ca: “ Cả năm đi lễ bao miền -  Chẳng bằng cầu lễ tháng Giêng Đền và”./.

Lễ hội thờ Đức Tháng Tản Viên ở đền Bắc Cung (đền Thính)

Cứ mỗi độ xuân về những ngôi đền thờ Đức Thánh Tản đều tổ chức lễ hội phản ánh những nét độc đáo với các giá trị văn hoá quý báu của lễ hội cổ truyền, góp phần làm cho bức tranh tổng thể làng quê của người Việt thêm phong phú, sinh động. Trong đó phải kể đến lễ hội đền Bắc Cung xã Tam Hồng huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc (nhân dân quen gọi là hội đền Thính). Lễ hội được tổ chức như ngày nay là cả một quá trình bảo tồn, phục dựng lâu dài, có sự kế tiếp và bổ sung nét mới văn minh hơn.

Căn cứ vào tài liệu còn lưu giữ tại đền và theo lời kể của các cụ cao niên trong làng đã từng được nghe, chứng kiến lễ hội, theo lệ làng cứ đến tháng chạp, chức dịch, sắc mục và các quan viên của các giáp họp bàn để tổ chức lễ hội (nay là Ban quản lý Khu Di tích đền chùa xã Tam Hồng, xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội hàng năm trên cơ sở của lễ hội cổ truyền. Những người được chuẩn bị cai đám phải thực hiện “trai giới” nhằm đảm bảo mua sắm lễ vật được trong sạch, tinh khiết hơn.Việc chuẩn bị cho lễ tế khá công phu. Trước tiên là chọn những người đủ tiêu chuẩn tham gia tế lễ và đóng các vai chính trong đám rước. Thông thường có từ 8 đến 14 cụ ông được chọn làm thành viên trong đội tế khai xuân, tế dâng lễ, tế ngày sinh, hóa của đức Thánh Tản. Một cụ hội đủ các điều kiện tốt nhất sẽ được chọn làm chủ tế, 2 cụ làm Đông xướng và Tây xướng; 2 cụ bồi tế, 4 cụ tiến nước đèn, nhang, hoa, một cụ đọc chúc văn; 6 cụ chấp kích hai bên canh gác và xua đuổi tà ma cho cuộc tế. Những công việc này đều do người dân Tam Hồng bầu chọn, cắt cử dưới sự điều hành của Ban tổ chức lễ hội.

Ban tế gồm 2 đội, một đội nam và một đội nữ, mỗi đội thường gồm 21 người, trong đó có một người chủ tế. Người chủ tế phải là người có thẻ vinh tử vượng, phu phụ song toàn, tử tôn hưng thịnh và khoẻ mạnh. Song song với việc chuẩn bị trên thì việc chuẩn bị đồ lễ vật cũng được tiến hành.

Công việc chuẩn bị xong cũng là lúc lễ hội đền Thính được diễn ra. Sau lễ khai mạc của Ban tổ chức lễ hội, lần lượt từng thôn trong và ngoài xã, theo lịch đã đăng ký tiến hành lễ rước từ đình thờ của làng mình lên đền Thính. Để chuẩn bị cho lễ rước kiệu của làng mình, người lớn thì chu đáo chuẩn bị lễ vật, thanh niên, các em nhỏ thì  háo hức tham gia lễ rước. Lễ vật là tất cả những gì đặc trưng nhất, thể hiện thành quả lao động của làng năm vừa qua dâng lên Thánh để tỏ lòng thành kính, biết ơn thành đã phủ hộ và cầu mong một năm sung túc, an lành cho dân làng. Khi đám rước của một thôn đến đền, cuộc tế lễ bắt đầu. Nội dung văn tế kể về công lao của Thánh đối với dân làng; mời Thánh về dự hội với dân làng, báo cáo thành tích của làng mình trong năm qua và cầu xin thánh phù hộ cho dân một năm mới làm ăn thịnh vượng, nhà nhà yên bình, làng xóm yên vui, người người mạnh giỏi.

Mùa xuân ngày 6 tháng giêng nhân dân Tam Hồng lại tấp nập đón khách thập phương về trẩy hội, làm lễ. Những hoạt động nhộn nhịp diễn ra tại lễ hội từ phần lễ có tính chất quy phạm nghiêm ngặt được cử hành chủ yếu trong không gian bên trong của đền (tế Quan Viên, rước kiệu, lễ dâng hương…) đến phần hội là phần sinh hoạt văn hoá dân gian mang tính chất mở phóng khoáng diễn ra khu vực ngoài  Tam Quan không giới hạn không gian, thời gian để dân làng cùng vui chơi hết mình và tình cảm cũng dịu dàng đằm thắm hơn (Chọi gà, đấu vật, ném còn, kéo co, …); các hoạt động văn hoá văn nghệ khác thu hút sự quan tâm của tất thảy mọi người đang có mặt và cả những người từng mong có một lần được mục sở thị. Truyền nối nét cổ xưa cha ông để lại, ngày nay chính quyền và nhân dân Tam Hồng đồng sức đồng lòng lo tổ chức lễ hội được chu toàn để làm vừa lòng khách đến, đẹp lòng khách đi. Quan trọng hơn là góp phần gìn giữ những nét văn hoá truyền thống của địa phương, dân tộc.

Đền Ngự Dội 

 Đền Ngự Dội nằm ở đầu thôn Duy Bình Bình, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc trên diện tích bãi bồi sông Hồng, quay mặt về hướng Tản Lĩnh. Theo truyền thuyết Sơn Tinh, từ khi có hành cung ở Đền Và, Thánh Tản thường lui tới vùng đất bên kia sông Hồng. Một lần, trên đường trở về Đền Và, Ngài dừng chân nghỉ ngơi tại một xóm nhỏ ven sông. Tuy đang tiết xuân mát mẻ, nhưng vì đi đường xa gió bụi, nên Ngài muốn tìm nước để tắm giội đôi chút. Nhìn quanh đấy, thấy một cô gái gánh đôi sọt đi cắt cỏ, Ngài đến bên lựa lời chào hỏi rồi ngỏ ý nhờ cô gánh cho một gánh nước sông Hồng. Cô gái tưởng chàng trai đùa lỡm nên cười ngặt nghẽo. Nhưng trước vẻ chân thực của chàng trai cô gái rất ngạc nhiên rồi chối từ vì sọt của cô chỉ đựng được cỏ, làm sao đựng được nước. Ngài cười và bảo cô cứ giúp thử xem sao. Quả nhiên, đôi sọt đựng được nước thật. Trong khi Ngài thoả thuê tắm giội thì cô gái chạy về loan báo với dân làng có chuyện lạ đời. Khi mọi người kéo đến nơi thì người tắm đã đi mất, xung quanh còn phảng phất hương trầm. Lúc ấy dân làng mới bừng tỉnh, nhận ra là chính đức thánh Tản vừa mới qua đây.

Lại nghe nói, khi mới gặp cô gái, nhân chuyện cắt cỏ, Ngài còn bày cho cô cách làm liềm thay cho con dao cô vẫn dùng để cắt được dễ hơn, nhanh hơn.

Ghi nhớ dấu tích và công đức của Ngài, dân làng Duy Bình đã dựng ngôi đền và đặt tên là đền Ngự Giội, ý muốn nhắc việc Ngài đã đến ngự và tắm giội ở đó trước khi về đền Và.

Theo trang du lịch Vĩnh Phú (tháng 2/2012) Đền Ngự Dội thờ tam vị Đại Vương là: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương. Lễ hội đền Ngự Dội diễn ra vào các ngày 14, 15 tháng Giêng hàng năm, tuy nhiên cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì 8 làng : Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai (phường Trung Hưng, Sơn Tây); Phù Sa, Phù Nhi (xã Viên Sơn, Sơn Tây) rước kiệu sang đền Dội, còn vào những năm khác thì đền Dội lại rước kiệu sang đền Và.

Chiều ngày 14 tháng giêng, đoàn rước nước xuất phát từ đền Ngự Dội tiến ra bến sông Hồng lấy nước về làm lễ Mộc Dục cho thánh Tản Viên.  Đoàn rước gồm hai kiệu là kiệu lễ và kiệu chóe, đi đầu đội rước là đội rồng, tiếp theo là đội cờ, người thổi tù và, trống chiêng, phường bát âm, bát bửu, kiệu chóe, kiệu lễ, quan viên, dân làng… Ra tới bờ sông, kiệu chóe bắt đầu xuống thuyền. Đoàn rước bắt đầu chạy trên sông, chạy mấy vòng liền cho đến khi chủ tế múc xong nước vào chóe. Khi chín gáo nước tinh khiết đã được ông chủ tế múc từ vòng quang do cô gái đồng trinh thả dưới lòng sông vào chóe trong tiếng reo hò của đoàn người. Trời đã về chiều, đoàn rước quay đầu cập bến về đền Ngự Dội.

 Ngày hôm sau, lễ rước ngai Thánh đi từ mờ sáng, từ đền Và rước qua cầu Cộng, vào thị xã Sơn Tây, ra bến sông để xuống thuyền qua sông Hồng sang địa phận xã Vĩnh Ninh, Vĩnh Tường. Khi thuyền rước kiệu Thánh cập bờ, lá cờ ở đầu kiệu phất về phía bắc sông Hồng, lúc đó cả khúc sông vang lên tiếng reo hò hân hoan, người dự hội ùa ra đón kiệu Thánh với tất cả lòng tôn kính. Đoàn rước xếp thành một dãy dài với 8 kiệu, rước đi trong không khí tưng bừng, náo nhiệt, khua chiêng, gõ trống và ca hát… Khi đoàn rước về đến đền Ngự Dội, cũng là lúc diễn ra lễ khai hội cùng lễ tiến đón và lễ tế. Nhân dân hai bên bờ sông Hồng hòa mình vào trong không khí linh thiêng của lễ hội, tham gia các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, đánh đu... Khi lá cờ ở cổng đền phất về phía sông Hồng, đoàn người lại cùng nhau rước kiệu Thánh trở về bên đền Và ở bên kia sông Hồng.

Đền Tranh (Bắc Cung Thượng)

Đền Tranh nằm trên địa phận thôn Hoàng Thạch, xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc. Đền thờ “ Tam vị Đại Vương” (Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh). Đền được xây dựng vào đầu thế kỷ IV; được tôn tạo vào các triều đại : Lý (1038); Hậu Lê (1469 và 1479), Mạc (1538)… Đền được hầu hết các triều đại phong sắc và năm 1993 được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận di tích văn hoá.

Đền Tranh thờ đức Thánh Tản Viên Sơn từ thời Hùng Vương dựng nước. Vua Hùng Vương thứ 18 sinh được hai con gái. Công chúa Tiên Dung kết hôn cùng chàng trai nghèo Chử Đồng Tử. Công chúa Ngọc Hoa lập lầu kén rể, cưới được Sơn Tinh. Khi đó, Thục Phán dấy binh xâm chiếm nước Văn Lang, vua Hùng muốn nhường ngôi cho con rể nhưng ông chỉ nhận giúp nước chứ không làm vua. Sơn Tinh đánh đuổi quân Thục về vùng Đông Lỗ và bến Vàng. Thấy địa thế đẹp, ông truyền cho quân nghỉ, lập ngôi đền nhỏ cầu phúc cho dân và tiến quân về triều đình báo công, khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán, kết mối bang giao hữu hảo. Sau này, nhân dân thờ Tản Viên Sơn Thánh tại ngôi đền này.

Đền Tranh có vẻ đẹp thâm nghiêm, cổ kính. Đền nằm trên một khu đất cao so với xung quanh. Thế đất bằng phẳng, núp mình dưới bóng những cây cổ thụ xanh um, trước mặt đền là những cánh đồng màu mỡ. Phía sau đền, xa xa là dãy núi Tam Đảo bồng bềnh mây trắng.

Đền được kiến trúc theo kiểu chữ đinh (J), gồm hai toà tiền tế và hậu cung. Hai cung nhỏ nằm sát  một ngôi chùa khác, ở đây cũng có gian riêng thờ Phật, thánh. Vị trí chính của ngôi đền là toà tiền tế thờ Tam Vị Đại Vương. Ở đây con lưu giữ được một số tác phẩm điêu khắc bằng gỗ và một số đồ thờ bằng đồng có giá trị mỹ thuật cao. (Báo Vĩnh Phúc 24/3/2012)

Hằng năm, vào các ngày Rằm tháng Giêng, ngày 6-2 và 6-8 (âm lịch), đền Tranh lại tưng bừng tổ chức lễ hội với hình thức diễn xướng, khai sắc nhắc lại công lao đức Thánh Tản Viên; tiến hành nghi lễ nông nghiệp như gieo hạt, làm đất, chăm bón... cầu mùa màng bội thu. Trong lễ hội diễn ra nhiều trò chơi đu tiên, bơi thuyền, bắt vịt, lăn vòng, leo cây, vật, cờ tướng, thổi hiệu cốc quân... thu hút đông đảo nhân dân tham gia, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa vui tươi, lành mạnh và giáo dục truyền thống đoàn kết cho thế hệ trẻ. (Báo Vĩnh Phúc 24/3/2012)

 Còn hàng ngàn đình thờ miếu mạo ở khắp nới trên đất Việt này đã thờ Đức Thánh Tản Viên cùng Cao Sơn, Quý Minh. Sơn Tinh biểu trưng cho tinh thần, dũng khí của dân tộc.

Tục thờ cúng Đức Thánh Tản Viên - Sơn Tinh đã trở thành một tín ngưỡng của người dân Việt từ hàng ngàn năm trước, hiện tại và sau này. Tín ngưỡng thờ cúng này đã trở thành một di sản văn hoá phi vật thể của dân tộc Việt Nam và cần được gìn giữ, bảo tồn và xứng đáng là di sản văn hoá phi vật thể Thế giới

 

 

 

Thư viện ảnh