Video
Công đức
Giới Thiệu Chung

Có 1 dòng họ Nguyễn Duy như thế

Ngày đăng: 25/02/2013

Nội dung:

Có một dòng họ Nguyễn Duy như thế

  

Trong lịch sử Việt Nam, những nhà khoa bảng đỗ đạt được ghi tạc công trạng trong các văn bia và cả trong những giai thoại dân gian luôn là những tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Với dòng họ Nguyễn Duy ở Yên Lãng, Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) thì hai cha con đồng liêu Nguyễn Duy Thì và Nguyễn Duy Hiểu, cùng đỗ Hoàng giáp, có văn bia ở Văn Miếu là trường hợp đặc biệt.

Mộ cụ nguyễn duy thì

 

    Phần mộ của cụ Nguyễn Duy Thì

 

    Nguyễn Duy Thì - người dâng tờ khải: "Lấy dân làm gốc”

 

    Theo PGS.TS Ngô Đức Thọ thì Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì sinh năm 1572, mất năm 1652, quê xã Yên Lãng (làng Láng), huyện Yên Lãng, nay là thôn Hợp Lễ, xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên (tỉnh Vĩnh Phúc). Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng 21 (1598) đời Lê Thế Tông ở tuổi 27. Ông từng đi sứ sang nhà Minh, làm quan đến chức Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư kiêm Chưởng lục bộ sự, Thái Phó, tước Tuyền Quận công, vinh phong Tá lý công thần, được mở phủ Bình Quân. Ông hưởng thọ 81 tuổi. Sau khi mất được truy tặng chức Thái Tể.

 

    Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì đã được nhiều cuộc hội thảo đề cập, cũng như được ghi trong sách Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều văn bia, sắc phong dành cho ông.

 

    Vào thời đó, chính quyền triều Lê - Trịnh tuy đã thiết lập khá ổn định, trong nước đã tương đối được yên bình, nhưng do cuộc nội chiến với nhà Mạc suốt mấy chục năm khiến cho sản xuất nông nghiệp đình đốn, làng xóm tiêu điều chưa phục hồi, mất mùa liên tiếp nhiều năm. Lo lắng trước tình đó, tháng 8 năm Hoằng Định 13 (tức tháng 9 năm 1612), Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Thì cùng Giám sát ngự sử Phạm Trân (TS năm 1592 đời nhà Mạc) và mấy đồng liêu khác nữa đã trình lên chúa Trịnh Tùng một bản khải văn bày tỏ mối quan tâm của các ông trước hiện tình triều chính, nêu lên những việc chính sự cấp thiết phải tu chỉnh để chuyển tai họa thành điềm lành, trên hợp với ý trời, dưới thuận với lòng người.

 

    Tờ khải viết: "Dân là gốc của nước, đạo trị nước chỉ là yên dân mà thôi. Lại nghĩ rằng trời với dân cùng một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời rồi. Cho nên người giỏi trị nước, yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy họ đói rét thì thương, thấy họ lao khổ thì xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khóa bừa bãi, để cho dân được thỏa sống mà không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới là biết đạo trị nước, biết cách sai dân. Nay Thánh thượng (chỉ chúa Trịnh - TG) để ý tới dân, thi hành một chính sách cốt để nuôi dân, ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân đó thực là lượng cả của trời đất, cha mẹ vậy... Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng người, trên hợp ý trời và chuyển tai họa thành điềm lành, lúa được mùa luôn, người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp muôn năm của nước nhà từ nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy”.

 

    Triết vương Trịnh Tùng khen và phê chuẩn các điều trong bài khải của Nguyễn Duy Thì. Khoảng cuối năm 1613, triều đình sai triều thần chia nhau đi các xứ xét hỏi nỗi đau khổ của dân gian. Người phiêu dạt thì tha tạp dịch 3 năm để về yên cư phục nghiệp.

 

    Những điều mà Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì làm tới giờ vẫn còn nguyên giá trị. Ông được chia ấp. Sau này, khi ông mất đi, dân lập thành phủ thờ ông. Nay con cháu vẫn còn hương khói và giữ được các sắc phong dành cho ông và người con trai cả Nguyễn Duy Hiểu.

 

    Vẫn theo PGS.TS Ngô Đức Thọ thì hơn 50 năm giữ trọng trách dưới 3 triều vua 2 đời chúa, uy danh Thái Tể Nguyễn Duy Thì lừng lẫy một giai đoạn nhiều biến động lịch sử đầu thời Lê Trung hưng. Nguyễn Duy Thì là nhà chính trị có tài, biết lắng nghe và thấu hiểu nguyện vọng của người dân. Tờ Khải năm 1612 do ông khởi thảo có tác dụng với đương thời và được lưu ghi trong sử sách. Ông còn là nhà Nho có uy vọng, nhiều năm giữ chức Tế tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám - trường đại học đào tạo nhân tài Nho học cho các triều đại Việt Nam.

 

    Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu - nhà ngoại giao có công với nước

 

    So với các tài liệu về Nguyễn Duy Thì, những tài liệu ghi lại về Nguyễn Duy Hiểu không nhiều. Nhưng rất quý, khi mà con cháu dòng họ vẫn giữ được nhiều sắc phong, trong đó ghi rõ về những công trạng của ông khi làm Chánh sứ trong đoàn ngoại giao của nhà Lê đi sứ nhà Minh.

 

    Nguyễn Duy Hiểu sinh năm 1602 và mất năm 1639. Ông là con cả của Hoàng giáp, Thái Tể Nguyễn Duy Thì. Cũng như cha mình, Nguyễn Duy Hiểu đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ (Hoàng giáp) khoa Mậu Thân, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, năm 1628. Khi đó ông 27 tuổi. Ông đỗ tiến sỹ đồng khoa với Giang Văn Minh. Nhưng khi đó, Giang Văn Minh, người Đường Lâm, đã ở tuổi 56. Giang Văn Minh đỗ Thám hoa.

 

    Ông được triều đình cử làm chánh sứ cùng với chánh sứ Giang Văn Minh đi sứ nhà Minh. Khi đó, nhà Minh vẫn kết giao với cả nhà Mạc, Cho nên nhiệm vụ đi sứ của hai ông hết sức nặng nề. Rất tiếc là không có nhiều ghi chép về những hoạt động của hai chánh sứ và những bài ký của hai ông. Nhưng trong số 7 sắc phong, đặc biệt là sắc phong thứ 7 dành cho Nguyễn Duy Hiểu đã ghi rõ công trạng của ông với tư cách là nhà ngoại giao có công đặc biệt với đất nước. Trong sắc phong thứ nhất, ngày 9 tháng 8 năm Vĩnh Tộ thứ 10 (tức ngày 6-9-1628) cho biết: Bản thân Nguyễn Duy Hiểu xuất thân từ một dòng danh gia thế phiệt, sau khi thi đỗ Hoàng giáp, Nguyễn Duy Hiểu theo lệ được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý, tước Tu thận. Chỉ sau mấy tháng sau, xét ông là con của Thiếu Phó Tuyền Quận công - người có công lao phò tá cho Thống quốc chính Thanh Đô vương (tức chúa Trịnh Tráng khi ấy chưa được thăng tước Thanh vương) triều đình đề nghị thăng tước Nghĩa Phú tử.

 

    Nguyễn Duy Hiểu ra làm quan là được đồng triều với thân phụ ông - Thiếu phó Tuyền Quận công Nguyễn Duy Thì. Nhưng khi được vào Ngự sử đài ông mới thực sự được tham dự chính sự cùng với thân phụ khi ấy đang làm Thượng thư bộ Công kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp. Từ đây chức vụ đã khá cao, không thăng tiến nhanh như trước nữa, trong dăm bảy năm sau Nguyễn Duy Hiểu vẫn giữ chức Thiêm đô ngự sử ở Ngự sử đài, cho đến cuối năm 1637 đầu năm 1638 ông được cử đi sứ sang nhà Minh.

    Vỹ thanh

 

    Nguyễn Duy Thì và Nguyễn Duy Hiểu sinh ra trong một dòng họ danh giá. Cụ tổ là Hoàng giáp Nguyễn Duy Tường (1485 - 1526), công thần Tiết nghĩa cuối thời Lê Sơ. Hai cha con là tiến sỹ đồng liêu, có công trạng lớn với đất nước. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Duy Mùi - trưởng họ, người đang trông giữ đền thờ Nguyễn Duy Thì, thì con cháu mong muốn phần mộ của hai cụ cần được tu bổ lại để xứng với những gì các cụ để lại. Phần mộ của cụ Nguyễn Duy Hiểu, sau bao năm bị quên lãng, nay chỉ như một nấm mộ nhỏ, không xứng với danh tiếng của cụ.

 

    Và có lẽ sau những tháng năm quên lãng, hậu thế cũng cần một sự nhìn nhận khách quan, công bằng với danh tiếng của hai cha con Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì và Nguyễn Duy Hiểu.

Nguồn từ Báo mới

Thư viện ảnh